✨Fuji (lớp thiết giáp hạm)

Fuji (lớp thiết giáp hạm)

Lớp thiết giáp hạm _Fuji_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo tại Anh Quốc. Fuji là lớp thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Nhật Bản.

Bối cảnh

Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản về căn bản dựa trên trường phái hải quân cấp tiến Jeune École, như được giới thiệu bởi nhà cố vấn quân sự và kiến trúc sư hải quân người Pháp Emile Bertin. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nhà lãnh đạo trong Hải quân Nhật đều đã bị thuyết phục về hiệu quả của học thuyết này; và đã dấy lên những mối lo ngại sau khi Hạm đội Bắc Dương của triều đình nhà Thanh Trung Quốc bắt đầu sở hữu những thiết giáp hạm được chế tạo tại châu Âu. Vì Nhật Bản vẫn chưa có được kỹ thuật và đủ khả năng để có thể tự đóng thiết giáp hạm cho chính mình, nên họ đã quay sang Anh Quốc để đặt hàng hai tàu chiến hiện đại nhất vào năm 1893.

Việc có được ngân quỹ để chế tạo chúng là một cuộc đấu tranh của Chính phủ Nhật Bản. Đề nghị ban đầu được đưa ra trong ngân sách của Thủ tướng Matsukata Masayoshi vào năm 1891, nhưng bị nghị viện Nhật Bản hủy bỏ do những tranh cãi chính trị. Matsukata đưa ra yêu cầu một lần nữa, và khi lại bị từ chối, buộc phải giải tán nội các. Người kế nhiệm, Thủ tướng Itō Hirobumi, dự định thông qua biện pháp ngân sách vào năm 1892, nhưng lại bị thất bại. Điều này đã đưa đến một sự can thiệp cá nhân khác thường bởi Thiên hoàng Minh Trị trong một chiến chỉ ngày 10 tháng 2 năm 1893, trong đó Thiên hoàng đích thân góp ngân quỹ để chế tạo hai thiết giáp hạm bằng cách cắt giảm chi tiêu hàng năm của Hoàng gia, và yêu cầu mọi quan chức chính phủ hành động tương tự khi đồng ý cắt giảm 10% tiền lương của họ. Các giải pháp ngân quỹ dành cho lớp thiết giáp hạm Fuji được nghị viện thông qua không lâu sau đó.

Thiết kế

Sơ đồ mạn phải và sàn tàu của lớp _Fuji_ như được mô tả trong Niên giám Hải quân Brassey 1896
Thiết kế của lớp _Fuji_ là một phiên bản cải biến từ lớp thiết giáp hạm _Royal Sovereign_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. _Royal Sovereign_ được xem là lớp tàu chiến chủ lực tiên tiến nhất, lớn nhất và nhanh nhất vào thời đó. Chúng được thiết kế bởi kiến trúc sư hải quân nổi tiếng Sir William White.

Lớp Fuji có một số cải tiến ở nhiều phương diện so với những đặc tính nguyên thủy của lớp Royal Sovereign, và tốc độ tối đa của chúng thậm chí còn nhanh hơn so với tốc độ của Royal Sovereign.

Vũ khí

Sơ đồ tháp pháo 12 inch trang bị cho lớp _Fuji_
Dàn pháo chính của lớp _Fuji_ sử dụng cùng kiểu hải pháo Elswick Armstrong Whitworth 305 mm (12 inch)/40 caliber Kiểu 41 nguyên thủy được dành cho lớp _Royal Sovereign_; các khẩu pháo này được bố trí trên các tháp súng nòng đôi phía trước mũi và sau đuôi tàu.

Dàn pháo hạng hai của lớp Fuji bao gồm mười khẩu pháo QF 152 mm (6 inch)/40 caliber Kiểu 41 để đối phó với các cuộc tấn công của các tàu phóng lôi, và được bố trí rộng khắp trên cả hai sàn tàu sao cho một phát đạn pháo bắn trúng không thể loại khỏi vòng chiến nhiều hơn một trong số chúng. Các khẩu bố trí ở sàn trên được bọc kín trong các bệ tháp pháo. Vũ khí hạng nhẹ bao gồm mười sáu khẩu pháo QF 12 pounder 76 mm (3 inch)/40 caliber 12 cwt, còn được gọi là "twelve pounder"; và bốn khẩu pháo 3 pounder.

Lớp Shikishima cũng được trang bị ngư lôi Whitehead phiên bản mới nhất, với bốn ống phóng ngầm dưới nước, và thêm một ống trên sàn tàu.

Vỏ giáp

Đai giáp chính của lớp Fuji sử dụng vỏ giáp Harvey cao có độ dày giảm dần còn ở hai đầu ngang với bệ tháp pháo, và với một lớp giáp bằng thép dày bên trên. Vỏ giáp được dự phòng bằng những hầm than rộng , cung cấp sự bảo vệ bổ sung và được phân ngăn để duy trì độ nổi nếu như bị bắn trúng.

Vỏ giáp sàn tàu dày , mỏng dần còn ở hai đầu và uốn cong xuống. Đã có dự định rằng nếu như bị bắn thủng, hai đầu sẽ bị ngập nước mà ít ảnh hưởng đến độ ổn định của cả con tàu.

Lịch sử hoạt động

Được đưa ra hoạt động trong những năm 1897-1898, cả hai chiếc đều đã tham gia cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905). Trong đó Yashima bị chìm do trúng phải một quả thủy lôi vào ngày 15 tháng 5 năm 1904 ngoài khơi cảng Lữ Thuận tại một trong những thảm họa hải quân lớn nhất của Nhật Bản trong trận chiến này; còn Fuji tiếp tục hoạt động trong các trận hải chiến cảng Arthur, Hoàng Hải và Tsushima. Sau đó nó được đưa về làm tàu phòng duyên, rồi trong các nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi bị giải giáp vào năm 1922. Lườn tàu của nó tiếp tục sử dụng làm trại lính nổi và huấn luyện cho đến năm 1948.

Những chiếc trong lớp

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Fuji**_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**Lớp thiết giáp hạm _Shikishima**_ (tiếng Nhật: 敷島型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**_Fuji_** (tiếng Nhật: 富士) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Fuji_ vào cuối thế kỷ 19, và
**_Yashima_** (tiếng Nhật: 八島) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp thiết giáp hạm _Fuji_ vào cuối thế kỷ 19, và là một trong số
**_Shikishima_** (tiếng Nhật: 敷島) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20, và
**_Hatsuse_** (tiếng Nhật: 初瀬) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought thuộc lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20, và là một trong số
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**USS _Harrison_ (DD-573)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
Các hạm đội tham gia trận Tsushima, 27/28 tháng 5 năm 1905 ## viền|45x45px|Japanese Naval Ensign Hạm đội liên hợp Nhật ### Chiến đội một *thế=|nhỏ|490x490px|Kì hạm của Hạm đội Nhật, Thiết giáp hạm [[Mikasa
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo