✨Danh sách thiết giáp hạm của Nhật Bản

Danh sách thiết giáp hạm của Nhật Bản

nhỏ|350x350px|YamatoMusashi, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune Ecole cực đoan, được thúc đẩy bởi cố vấn quân sự Pháp và kỹ sư hàng hải Emile Bertin. Triết lý này tập trung vào tàu phóng lôi rẻ tiền và việc tấn công thương mại để bù lại tàu bọc giáp đắt tiền. Việc mua hai tàu bọc thép lớp Định Viễn đóng bởi Đức bởi Hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc năm 1885 đe dọa lợi ích của Nhật Bản tại Hàn Quốc. Một chuyến viếng thăm bởi tàu chiến Trung Quốc tới Nhật Bản vào đầu năm 1891 đã buộc chính phủ Nhật Bản phải thừa nhận rằng Hải quân Nhật cần các tàu trang bị vũ trang và giáp tương đương để chống lại các tàu bọc thép của Trung Quốc; Ba tàu bọc thép hạng nhẹ lớp Matsushima đặt hàng từ Pháp sẽ không đủ, mặc dù được trang bị pháo mạnh. Hải quân Nhật quyết định đặt một cặp thiết giáp hạm mới nhất từ Anh Quốc vì Nhật Bản thiếu công nghệ và khả năng đóng các thiết giáp hạm của riêng mình.

Kinh nghiệm chiến đấu trong Chiến tranh Thanh-Nhật năm 1894–95 đã thuyết phục Hải quân Nhật rằng học thuyết Jeune Ecole là không thể áp dụng được. Do đó, Nhật Bản đã ban hành chính sách xây dựng hải quân mười năm vào đầu năm 1896 nhằm hiện đại hóa và mở rộng đội tàu chiến của mình để chuẩn bị cho các cuộc xung đột sau này. Nó bắt đầu với việc xây dựng tổng cộng sáu thiết giáp hạm và sáu tàu tuần dương bọc thép. Những con tàu này được chi chả từ khoản bồi thường 30.000 bảng Anh do Trung Quốc chi trả sau khi thua cuộc Chiến tranh Thanh-Nhật và bốn thiết giáp ham còn lại của chương trình cũng được xây dựng ở Anh.

Căng thẳng gia tăng giữa Nhật Bản và Đế quốc Nga trong việc giành quyền kiểm soát Triều Tiên và Mãn Châu vào đầu những năm 1900 đã khiến Nhật Bản bắt đầu cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1904–5 với một cuộc tấn công bất ngờ vào căn cứ của Nga tại cảng Arthur. Lục quân Đế quốc Nhật chiếm được cảng và bắt được các tàu còn lại của Hải đội Thái Bình Dương vào cuối năm, nhưng nước Nga đã gửi phần lớn Hạm đội Baltic của họ đến để giải cứu cảng Arthur. Hạm đội đã không đến eo biển Hàn Quốc cho đến tháng 5 năm 1905 và gần như hoàn toàn bị tiêu diệt bởi Hạm đội liên hợp Nhật trong Trận Tsushima mặc dù có lợi thế lớn về số lượng. Trong thời gian chiến tranh, Nhật Bản đã bắt được tổng cộng sáu thiết giáp hạm tiền-Dreadnought của Nga. Tất cả đều được sửa chữa và đưa vào hạm đội Nhật; trong số này, ba chiếc được đã trao trả về Nga sau chiến tranh, vào lúc Thế chiến thứ nhất khi hai nước là đồng minh. Tầm quan trọng của chiến thắng tại Tsushima khiến lãnh đạo Hải quân Nhật tin rằng một sự giao tranh giữa các hạm đội chính là trận chiến quyết định duy nhất trong chiến tranh hiện đại và sẽ được quyết định bởi các thiết giáp hạm trang bị những khẩu súng lớn nhất. Hệ quả của việc này là các tàu Nhật phải vượt trội về mặt chất lượng so với các đối thủ của họ để đảm bảo chiến thắng.

Sau chiến tranh, Đế chế Nhật Bản chuyển sự chú ý của mình sang hai đối thủ còn lại để trở thành đế quốc thống trị ở Thái Bình Dương: Anh và Mỹ. Satō Tetsutarō, một Đô đốc Hải quân Nhật và nhà lý thuyết quân sự, cho rằng cuộc xung đột chắc chắn sẽ xảy ra giữa Nhật Bản và ít nhất một trong hai đối thủ chính của nó. Vì vậy, ông kêu gọi Hải quân Nhật duy trì một hạm đội với ít nhất 70% như lượng kỳ hạm như Hải quân Hoa Kỳ. Tỷ lệ này, theo lý thuyết Satō, sẽ cho phép Hải quân Đế quốc Nhật đánh bại Hải quân Hoa Kỳ trong một trận chiến lớn ở vùng biển Nhật Bản trong bất kỳ xung đột có thể xảy ra. Theo đó, Chính sách Quốc phòng Đế quốc năm 1907 kêu gọi xây dựng một hạm đội gồm tám thiết giáp hạm hiện đại, mỗi tàu 20.000 tấn dài (20,321 tấn SI), và tám tàu tuần dương bọc thép hiện đại, mỗi chiếc 18.000 tấn dài (18,289 tấn SI). Đây là nguồn gốc của Chương trình Hạm đội Tám-Tám, sự phát triển của một hạm đội liên kết chặt chẽ bằng mười sáu kỳ hạm.

Việc hạ thủy của chiếc HMS Dreadnought vào năm 1906 bởi Hải quân Hoàng gia đã tăng khó khăn và cơ hội cho Hải quân Nhật và làm phực tạp hóa các kế hoạch của Nhật Bản khi tất cả các thiết giáp hạm của Nhật lúc bấy giờ trở nên lỗi thời. Sự hạ thủy của thiết giáp tuần dương-tuần dương HMS Invincible một năm sau là một trở ngại hơn nữa cho mục tiêu đạt thế cân bằng của Nhật Bản. Khi hai thiết giáp hạm lớp Satsuma mới và hai tàu tuần dương bọc thép Tsukuba được hạ thủy vào năm 1911 thì đã bị các tàu đối thủ Anh vượt qua về chất lượng, buộc Chương trình Hạm đội Tám-Tám phải bắt đầu lại từ đầu.

Các thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo cho Chương trình Hạm đội Tám-Tám mới là hai chiếc Dreadought lớp Kawachi, được đặt hàng vào năm 1907 và được thi công vào năm 1908. Năm 1910, Hải quân đưa ra yêu cầu lên Quốc hội để bảo đảm tài trợ cho toàn bộ chương trình cùng một lúc. Do những hạn chế về kinh tế, đề xuất đã được Bộ Hải quân bị cắt lần thứ nhất thành bảy thiết giáp hạm và ba thiết giáp-tuần dương, sau đó là nội các cắt xuống con bốn tàu tuần dương bọc thép và một thiết giáp hạm duy nhất. Quốc hội đã sửa đổi lại bằng cách cho phép xây dựng bốn thiết giáp-tuần dương (lớp Kongō) và một thiết giáp hạm, sau này đặt tên là Fusō, trong đó đã trở thành Dự luật mở rộng khẩn cấp của Hải quân. Quốc Hội thông qua việc đóng thêm ba thiết giáp hạm nữa. Nó sẽ là chiếc Fusō thứ hai và hai chiếc lớp Ise

Thiết giáp tiền Dreadnoughts

Lớp Fuji

nhỏ|Fuji tại cảng, c. 1908

Hai tàu FujiYashima thuộc , là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Chúng được đặt hàng để đáp trả hai tàu chiến bọc sắt mới của Trung Quốc do Đức chế tạo. Hai tàu lớp Fuji được thiết kế như một phiên bản nhỏ hơn của lớp Royal Sovereign của Anh với trọng tải choán nước nhỏ hơn ở mức và dài . Chúng được bảo vệ bởi giáp đai Harvey và được trang bị bốn pháo chính /40 li, mười sáu khẩu , hai mươi bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và năm ống phóng ngư lôi. Hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với mỗi động cơ quay một trục chân vịt, cho phép lớp thiết giáp hạm này của Nhật Bản đạt vận tốc tối đa .

Cả hai chiếc Fuji được bắt đầu đóng vào nửa sau năm 1894, nhưng Yashima đã hoàn thành và đưa đến Nhật Bản một năm trước chiếc Fuji lúc đó đang tham dự cuộc duyệt binh hạm đội Kỉ niệm 60 năm trị vì của Victoria của Anh vào ngày 26 tháng 6 năm 1897. Là một phần của Đệ nhất Hạm đội cả hai chiếc trong lớp đã tham gia chiến đấu tại cảng Arthur vào ngày 9-10 tháng 3 năm 1904 mà trong đó Fuji bị thiệt hại nhẹ và Yashima không bị hư hại. Tiếp đến là giao tranh vào ngày 13 tháng 4 dẫn đến việc đánh chìm thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1904, Yashima đâm phải hai quả mìn và chìm tại chỗ, để lại Fuji là tàu lớp Fuji duy nhất còn lại. Vào tháng 8, nó tiếp tục tham gia trận Hoàng Hải mà không bị thiệt hại và sau đó là trận Tsushima vào tháng 5 năm 1905, nơi nó được ghi nhận đã bắn phát súng gây ra vụ nổ kho đạn phá hủy chiếc Borodino và một lần nữa chỉ bị hư hại nhẹ. Vào ngày 23 tháng 10 năm 1908, Fuji đã tiếp đón đại sứ Mỹ tại Nhật Bản và một số sĩ quan cao cấp của Đại Bạch Hạm Đội (Great White Fleet), rồi được chuyển xuống thành một tàu phòng thủ ven biển, sau đó bị giải giáp hoàn toàn, cho đến khi bị máy bay Mỹ đánh chìm vào ngày 18 tháng 7 năm 1945 và bị tháo dỡ 1948.

Lớp Shikishima 

nhỏ|Shikishima năm 1905

Hai tàu ShikishimaHatsuse thuộc được thiết kế như một phiên bản mạnh mẽ hơn của Thiết giáp hạm lớp Majestic của Hải quân Hoàng gia Anh và được đóng ở Anh. Giống như lớp MajesticFuji, lớp Shikishima được trang bị bốn súng chính /40 li, mười bốn khẩu súng , hai mươi khẩu súng 12-pounder, bốn khẩu Hotchkiss 3 pounder, và bốn ống phóng ngư lôi. Lớp Shikishima cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt để đạt được vận tốc tối đa . Các chiếc Shikishima được bảo vệ bởi lớp giáp đai Harvey dày , tương đương một nửa của lớp _Fuji._Thiết kế dài 126m và có trọng tải choán nước .

Shikishima hoàn thành vào ngày 26 tháng 6 năm 1900 và ngay lập tức rời Anh về Nhật Bản, nhưng Hatsuse ở lại Anh sau khi hoàn thành vào ngày 18 tháng 1 năm 1901 để đại diện cho Thiên Hoàng Minh Trị tại tang lễ của Victoria của Anh. Được chỉ định vào Đệ nhất Hạm đội trước Chiến tranh Nga-Nhật,cả hai tàu đã có mặt trong Trận chiến cảng Arthur và đã bị dính tổng cộng ba phát đạn. Cả hai chiếc cũng có mặt để chứng kiến sự phá hủy của Kỳ hạm Petropavlovsk dưới sự chỉ huy của đô đốc Nga Makarov, nhưng Hatsuse đã đâm phải một trong những quả mìn mà người Nga đặt sau cái chết của Makarov và bị chìm sau khi bị nổ kho đạn. Shikishima tiếp tục là tàu duy nhất còn lại trong lớp, tàu đã chiến đấu trong Trận Hoàng Hải chỉ bị hư nhẹ khi một viên đạn 12 inch không khai hỏa đúng cách. Shikishima sau đó tham gia Trận Tsushima vào ngày 27 tháng 28 năm 1905, nó bị dính đạn chín lần, phải chịu một phát khai hỏa không đúng cách lần nữa nhưng nó đã đánh chìm thiết giáp hạm Oslyabya của Nga khi phối hợp với tàu Mikasa. Shikishima đã trải qua thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất tại Vùng hải quân Sasebo và được phân loại lại hai lần sau khi Hiệp ước Hải quân Washington được ký vào năm 1922. nó được sử dụng như một tàu huấn luyện tại Sasebo cho đến năm 1948, khi nó bị tháo dỡ.

Asahi

nhỏ|Asahi - Tháng 6, 1900

được đóng vào những năm 1890 là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh, với trọng tải choán nước . Cũng như các thiết giáp hạm trước của Nhật Bản, Asahi dài cũng sử dụng hai động cơ Humphrys Tennant hơi nước giãn nở ba khoang đặt dọc với hai trục chân vịt cho tốc độ tối đa . Giống các thiết giáp hạm trước của Nhật, nó được trang bị bốn khẩu pháo chính /40 li, mười bốn khẩu súng , hai mươi khẩu súng 12-pounder, tổng cộng mười hai khẩu Hotchkiss 3 pounder, và bốn ống phóng ngư lôi. Asahi cũng sử dụng giáp đai Harvey dày y chang lớp Shikishima.

Sau khi hoàn thành, Asahi đến Yokosuka vào ngày 23 tháng 10 năm 1900 và năm sau, nó trở thành kỳ hạm của Hạm đội Thường trực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và sau đó được đưa vào Đệ nhất Hạm đội khi Hạm đội liên hợp được tái thành lập vào ngày 23 tháng 12 năm 1903. Khi bắt đầu Chiến tranh Nga-Nhật, Asahi đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và giúp tiêu diệt thiết giáp hạm Petropavlovsk của Nga mà không bị hư hại trong cả chiến dịch. Trong trận Hoàng Hải, Asahi bị hư hại vừa nhưng làm gây thương tích cho chiếc PoltavaTsesarevich. Sau đó hai tháng, Asahi đâm phải mìn gần cảng Arthur, nhưng đã được sửa chữa kịp thời cho Trận Tsushima. Ở đó, nó đã giúp vô hiệu hóa chiếc Knyaz Suvorov và đấu tay đôi với cả BorodinoOryol mà không thiệt hại gì.

Nó đóng vai trò là một tàu huấn luyện bắn pháo trong hầu hết Thế chiến thứ nhất cho đến khi được tái trang bị vào năm 1917 để hộ tống các đoàn tàu vận tải trong sự can thiệp của Nhật Bản vào cuộc Nội chiến Nga. Asahi sau đó một lần nữa được trang bị lại thành một con tàu không chiến đấu trong những năm 1920 và sau đó chuyển thể thành tàu sửa chữa vào ngày 16 tháng 8 năm 1937, kiêm vận tải cho lục quân Đế quốc Nhật đến Vịnh Hàng Châu. Vào đêm 25-26 tháng 5 năm 1942, Asahi bị tàu ngầm Mỹ USS Salmon phóng ngư lôi và đánh chìm ngoài khơi Đông Dương.

Mikasa

nhỏ|Tàu bảo tàng Mikasa, 2010

liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Battleship_mikasa_ret.jpg|nhỏ|_Mikasa,_ năm 1905 Thiết kế của cũng là phiên bản sửa đổi của thiết giáp hạm lớp Formidable của Anh. nó có chiều dài 132 mét (432 feet), và trang bị cùng loại pháo chính /40 li được sử dụng trên lớp Formidable và tất cả các thiết giáp hạm Nhật trước đó. Khác với các thiết giáp hạm trước, Mikasa sử dụng giáp Krupp cường lực với độ dày ở thành tàu. Mikasa vẫn sử dụng thiết kế hai động cơ với hai trục nhưng lại được trang bị nồi hơi mới cho phép nó đạt được tốc độ . Giống Asahi, Mikasa mang hơn lớp Formidable hai khẩu pháo phụ với tổng cộng là 14 khẩu. Tổng lại, chiếc Mikasa có trọng tải choán nước .

Mikasa được hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1902. Khi cuộc Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, nó nằm trong Chiến đội thiết giáp thứ nhất thuộc Đệ nhất Hạm đội với vai trò là kỳ hạm của toàn thể Hạm đội Liên hợp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Tōgō Heihachirō. Mikasa giúp đánh chìm chiếc Petropavlovsk sau trận cảng Arthur và gây thương tích cho chiếc PoltavaTsesarevich trong trận Hoàng Hải. Sáu ngày sau hiệp ước hòa bình được ký kết, Mikasa bị chìm tại cảng sau khi kho đạn tự phát nổ làm tử vong 251 thuyền viên. Nó được mang về Sasebo để sửa chữa và nâng cấp.

Khi Hiệp ước Hải quân Washington đang được đàm phán, phái đoàn Nhật đã cố bảo toàn nó bằng việc biến nó thành một tàu bảo tàng và đóng xi măng nó ở Yokosuka nhằm không bị bắt phá hủy theo điều khoản hiệp định. Khi nước Nhật bị chiếm đóng bởi quân Đồng Minh sau Thế chiến thứ II, bảo tàng bị bỏ hoang và trở nên hoang tàn cho đến năm 1955 khi doanh nhân người Mỹ John Rubin viết báo cáo tình trạng chiếc Mikasa đăng lên báo Japan Time. Nó đã khởi đầu cho chiến dịch phục hồi với sự ủng hộ của công chúng Nhật và Đô đốc Mỹ Chester W. Nimitz, một người hâm mộ của đô đốc Togo, và công cuộc phục hồi hoàn thành vào năm 1961.

Tango

nhỏ|Tango tại cảng, năm 1908-09

Tango ban đầu là thiết giáp hạm Poltava () của Nga, là chiếc thứ hai trong số ba chiếc thiết giáp hạm tiền-Dreadnought lớp Petropavlovsk. Con tàu được điều vào Hải đội Thái Bình Dương ngay sau khi hoàn thành và đóng quân tại cảng Arthur từ năm 1901.

Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật, nó đã tham gia Trận chiến cảng Arthur và bị hư hại nặng nề trong Trận Hoàng Hải. Bị pháo binh Nhật Bản đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Arthur sau đó vào tháng 12 năm 1904, nó đã bị Hải quân Nhật vớt lên sau chiến tranh và sau đó đổi tên thành Tango.

Trong Thế chiến thứ nhất, Nó tham gia pháo kích công sự của Đế quốc Đức trong trận Thanh Đảo. Năm 1916, Chính phủ Nhật bán lại chiếc Tango cho Nga. Nó được đổi tên lại thành Chesma () vì tên cũ của nó đã được đặt cho tàu khác. Thủy thủ đoàn của chiếc Chesma tuyên bố đi theo lực lượng Bolshevik vào tháng 10 năm 1917 nhưng con tàu thì không tham chiến cuộc nội chiến Nga do điều kiện xuống cấp. Con tàu cuối cùng bị tháo dỡ năm 1924.

Sagami và Suwo

nhỏ|Sagami, khi còn trong hải quân Nga dưới tên Peresvet, 1901

SagamiSuwo ban đầu là hai thiết giáp hạm Peresvet () và Pobeda () thuộc lớp Peresvet của Hải quân Nga. Lớp Peresvet được thiết kế để đối phó thiết giáp hạm hạng hai lớp Centurion của Anh. Thiết kế lớp Peresvet được giao vai trò bảo vệ tàu các tuần dương bọc thép tấn công thương mại của Nga như chiếc RossiaRurik khỏi các tàu hạng nặng như lớp Centurion nói trên.

Cả hai tàu đều bị đánh chìm trong Cuộc vây hãm cảng Lữ Thuận nhưng được Hải quân Nhật trục vớt sau khi họ chiếm được cảng. Do vũ khí hạng nhẹ hơn của chúng so với các thiết giáp hạm bắt được còn lại, chúng được chỉ định thành tàu phòng thủ ven bờ.

Trong Thế chiến thứ Nhất, chiếc Sagami được bán lại cho Nga và nó được đặt lại tên cũ là Peresvet. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1917, Con tàu đang trên đường về châu Âu thì bị dính mìn Đức tại Ai Cập và chìm tại chỗ. Chiếc Suwo thì đóng vai trò là kỳ hạm của hạm đội tấn Thanh Đảo thuộc Hạm đội 2 rồi sau đó được chuyển giao nhiệm vụ thành tàu huấn luyện bắn pháo vào năm 1916. Suwo bị giải giáp theo điều khoản hiệc ước Washington rồi cuối cùng bị tháo dỡ vào năm 1923.

Hizen

nhỏ|Hizen tại cảng

Iwami

nhỏ|Iwami tại cảng với một [[thủy phi cơ trên không]]

Lớp Katori

nhỏ|Kashima ngay sau khi gia nhập vào năm 1906

Lớp Satsuma

nhỏ|Bưu thiếp in hình Satsuma tại cảng

Thiết giáp hạm loại Dreadnought

Lớp Kawachi

nhỏ|Bưu thiếp in hình Kawachi

Lớp Fusō

nhỏ|Fusō chạy thử nghiệm vào năm 1933 sau khi được hiện đại hóa

Lớp Ise

nhỏ|Ise vận hành sau khi hiện đại hóa

Lớp Nagato

nhỏ|Nagato tại cảng, c. 1924

Lớp Tosa

nhỏ|Mô hình quy mô của Kaga, nếu được hoàn thành như một thiết giáp hạm

Lớp Kii

Lớp Số 13

nhỏ|Phát thảo của thiết kế số 13

Lớp Yamato

nhỏ|Yamato đang chạy thử nghiệm năm 1941

được thiết kế và đóng vào những năm 1930 sau khi Nhật rút khỏi Hiệp ước Hải quân Washington. Lớp Yamato có trọng tải choán nước khoảng YamatoMusashi lúc hoàn thành được trang bị chín khẩu hải pháo 40 cm(kích thước thật 46 cm)/45 Loại 94, khẩu pháo lớn nhất từng được gắn trên bất kì tàu chiến nào, trên ba tháp ba súng và mang các khẩu pháo phụ bao gồm mười hai khẩu 155 mm/50 Loại 3, mười hai khẩu 127 mm/40 Loại 89 và hai mươi bốn pháo phòng không 25 mm Loại 96.

Yamato được hoàn thành vào tháng 12 năm 1941 và hoàn thành huấn luyện vào tháng 5 năm 1942. Nó được đưa vào Chiến đội thiết giáp thứ nhất và đóng vai trò là Kỳ hạm của Hạm đội Liên hợp Nhật. Sau đó một tháng, Yamato tham gia Trận Midway với vai trò là trung tâm đầu não của Hạm đội liên hợp và hạm đội của Đô đốc Yamamoto nhưng không giao tranh trực tiếp với Hải quân Mỹ. Đến đầu năm 1943, Musashi sau khi hoàn thành huấn luyện đã thay thế Yamato trong vai trò Kỳ hạm của Hạm đội Liên hợp. Một tháng sau, chiếc Shinano chưa hoàn thành bị tàu ngầm Mỹ USS Archer-fish đánh chìm khi đang trên đường đi trú bom. Trận chiến cuối cùng của lớp Yamato là vào tháng 10 năm 1945 trong chiến dịch Ten-Go, khi Yamato và đội hộ tống bị tấn công bởi 368 máy bay từ 11 tàu sân bay Mỹ và chìm sau khi dính 8 quả ngư lôi và 15 trái bom.

Thiết kế A-150

"Thiết kế A-150", thường được gọi là lớp Siêu Yamato, là lớp thiết giáp hạm được thiết kế để tiếp nối lớp Yamato. Theo truyền thống lâu đời của Hải quân Nhật, chúng được thiết kế để vượt trội về mặt chất lượng so với các thiết giáp hạm mà có thể phải đối mặt trong chiến đấu, chẳng hạn như các tàu từ Hoa Kỳ hoặc Vương quốc Anh. Để đạt được yêu cầu này, lớp sẽ được trang bị sáu khẩu súng 51 cm, loại vũ khí lớn nhất trang bị trên bất kỳ tàu chiến nào trên thế giới. Công việc thiết kế những chiếc A-150 bắt đầu sau khi lớp Yamato trước đó hầu hết được hoàn thành vào đầu năm 1941, khi người Nhật bắt đầu tập trung vào hàng không mẫu hạm và các tàu chiến nhỏ khác để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới. Không có chiếc A-150 nào được hạ lườn, và nhiều chi tiết về thiết kế của lớp đã bị phá hủy gần cuối cuộc chiến.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|350x350px|_Yamato_ và _Musashi_, hai [[thiết giáp hạm lớn nhất từng được xây dựng.]] Vào cuối thế kỷ 19, chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được dựa trên triết lý hải quân Jeune
nhỏ|354x354px|Thiết giáp hạm _[[Vittorio Veneto (thiết giáp hạm Ý)|Vittorio Veneto_ và _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý trong một buổi tập trận ở Địa Trung Hải, năm 1940.]] Bắt đầu từ những năm 1890,
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Thiết giáp hạm lớp _Iowa**_ là một lớp sáu thiết giáp hạm nhanh của Hải quân Hoa Kỳ được đặt hàng trong những năm 1939 và 1940. Ban đầu lớp tàu được dự định để
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp
**_Asahi_** (tiếng Nhật: 朝日) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được chế tạo cùng lúc với lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ vào đầu thế kỷ 20,
**_Fuji_** (tiếng Nhật: 富士) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm _Fuji_ vào cuối thế kỷ 19, và
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
**_Kawachi_** () là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp _Kawachi_ gồm hai chiếc thuộc thế hệ thiết giáp hạm bán-Dreadnought. Nó được chế tạo
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**_Fusō_** (tiếng Nhật: 扶桑, _Phù Tang,_ một tên cũ của Nhật Bản), là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm cùng tên.
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**Lớp thiết giáp hạm _Fuji**_ (tiếng Nhật: 富士型戦艦 - Shikishima-gata senkan) là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought bao gồm hai chiếc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được thiết kế và chế tạo
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
phải|nhỏ| là thiết giáp hạm hiệp ước đầu tiên **Thiết giáp hạm hiệp ước** là những thiết giáp hạm được chế tạo vào những năm 1920 hoặc 1930 theo các điều khoản của một trong
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
**_Hatsuse_** (tiếng Nhật: 初瀬) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought thuộc lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20, và là một trong số
**Lớp thiết giáp hạm _Braunschweig**_ là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Lớp bao gồm năm chiếc:
**_Satsuma_** () là một thiết giáp hạm thuộc thế hệ bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế và chế tạo ngay tại Nhật Bản bởi xưởng hải quân Yokosuka. Tên của
**Lớp thiết giáp hạm _King George V**_ là một loạt bốn thiết giáp hạm siêu-dreadnought được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã phục
**_Aki_** () là một thiết giáp hạm kiểu bán-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được thiết kế và chế tạo hoàn toàn bởi Nhật Bản tại xưởng hải quân Kure. Tên _Aki_ được
**_Settsu_** () là chiếc thiết giáp hạm thứ hai trong số hai chiếc trong lớp _Kawachi_ thuộc thế hệ dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được chế tạo tại xưởng hải quân
Mutsu (thiết giáp hạm nhật) **_Mutsu_** (tiếng Nhật: 陸奥), được đặt tên theo tỉnh Mutsu, là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp _Nagato_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đưa vào
**_Yamashiro_** (tiếng Nhật: 山城, Sơn Thành) là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp Fusō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và đã bị đánh chìm năm 1944 trong Thế Chiến II. ##
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**_Katori_** (tiếng Nhật: 香取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó gồm ba chiếc, và đã phục vụ trong Chiến
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**_Atago_** (tiếng Nhật: 愛宕) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước
**_Kitakami_** (tiếng Nhật: 北上) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được