✨Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598)
Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên, còn gọi là Chiến tranh Triều - Nhật (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, Joil jeonjaeng) hay Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, Bunroku・Keichō no eki) là tên gọi chung chỉ đến hai cuộc xâm lược riêng biệt nhưng có liên quan với nhau của Nhật Bản vào Triều Tiên: cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 1592, sử Triều Tiên gọi là Nhâm Thìn Oa loạn (hangul: 임진왜란, hanja: 壬辰倭亂, Imjin waeran), sử Nhật gọi là Văn Lộc chi dịch (kanji: 文禄の役, hiragana: ぶんろくのえき, Bunroku no eki); tạm ngừng với một thỏa thuận đình chiến ngắn vào năm 1596; và một cuộc xâm lược thứ hai vào năm 1597, sử Triều Tiên gọi là Đinh Dậu tái loạn (hangul: 정유재란, hanja: 丁酉再亂, Jeongyu jaeran ), sử Nhật gọi là Khánh Trường chi dịch (kanji: 慶長の役, hiragana: けいちょうのえき, Keichō no eki). Cuộc xâm lực kết thúc vào năm 1598 với việc các lực lượng Nhật Bản rút khỏi bán đảo Triều Tiên sau một loạt bế tắc quân sự ở các tỉnh phía nam Triều Tiên.
Các cuộc xâm lược được phát động bởi Toyotomi Hideyoshi với mục đích chinh phục nhà Triều Tiên và nhà Minh.. Người Nhật nhanh chóng thành công trong việc chiếm phần lớn bán đảo Triều Tiên nhưng dưới sự chi viện của nhà Minh, cũng như việc đánh phá các đường tiếp tế dọc theo bờ biển phía tây và phía nam của hải quân Triều Tiên, đã buộc quân Nhật phải rút khỏi Bình Nhưỡng và các tỉnh phía bắc. Chính Nghĩa quân (dân quân Triều Tiên) tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng chiếm đóng Nhật và những khó khăn trong việc tiếp tế ở cả 2 bên tham chiến. Vì vậy mà không phe nào phát động tấn công hoặc mở rộng vùng kiểm soát, việc này dẫn đến bế tắc về mặt quân sự. Giai đoạn đầu tiên của cuộc xâm lược kết thúc vào năm 1596 bằng các cuộc đàm phán hòa bình và không mấy thành công giữa Nhật Bản và Nhà Minh.
Năm 1597, Nhật Bản tiếp tục xâm lược Triều Tiên lần thứ hai nhắm đến việc tấn công trả đũa người Triều Tiên. Cuộc xâm lược thứ hai cũng giống như cuộc xâm lược thứ nhất. Người Nhật đã có những thành công ban đầu trên đất liền, chiếm được một số tòa thành và pháo đài. Tuy nhiên với việc đánh phá các tuyến đường tiếp tế của hải quân Triều Tiên, các cánh quân Nhật phải dừng lại và rút về các khu vực ven biển phía nam của bán đảo. Dù vậy các lực lượng trên bộ của nhà Minh và Triều Tiên đã không thể đánh bật người Nhật khỏi các vị trí này và cả hai bên một lần nữa rơi vào thế bế tắc quân sự kéo dài mười tháng.
Cái chết của Toyotomi Hideyoshi vào năm 1598, cùng những chiến thắng hạn chế trên đất liền, các lực lượng Nhật Bản đã được lệnh rút lui bởi Hội đồng Ngũ Nguyên Lão. Các cuộc đàm phán hòa bình cuối cùng giữa các bên sau đó và tiếp tục trong nhiều năm, cuối cùng dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ.
Hai lần viễn chinh này được gọi là Những cuộc xâm lược Triều Tiên của Hideyoshi, Chiến tranh Bảy năm (theo độ dài của cuộc chiến), ở Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên gọi là Nhâm Thìn Oa loạn ("Oa" là tên gọi mà người Triều Tiên hồi đó gọi Nhật Bản). Người Nhật gọi cuộc chiến là "Chiến dịch Triều Tiên" còn người Trung Quốc gọi là "Đông chinh" hoặc "Kháng Nhật viện Triều" (chi viện Triều Tiên kháng chiến chống Nhật Bản).
Tên gọi
Cuộc xâm lược thứ nhất (1592–1593) được gọi theo nghĩa đen trong tiếng Triều Tiên là "Nổi loạn của cướp biển Nhật Bản (= 倭 |wae|) (= 亂 |ran|) năm Nhâm Thìn" (1592 là năm Nhâm Thìn). Cuộc chiến thứ hai gọi là "Chiến tranh Đinh Dậu". Vì Triều Tiên chưa bao giờ coi Nhật Bản là một quốc gia ngang bằng và chỉ coi đó là một vùng đất thấp hèn cho đến tận thời hiện đại, các sử gia của Nhà Triều Tiên không ghi chép về cuộc xung đột với tư cách một cuộc chiến trong các thư tịch chính thức. Trong khi đó, người Nhật gọi hai cuộc chiến này là Văn Lộc chi dịch (Bunroku no eki) và Khánh Trường chi dịch (Keichō no eki) vì Văn Lộc và Khánh Trường là hai niên hiệu của Thiên hoàng Hậu Dương Thành. Trong tiếng Trung Quốc, hai cuộc chiến được gọi là "Nhâm Thìn Vệ quốc Chiến tranh" hay "Vạn Lịch Triều Tiên chi dịch", theo niên hiệu của Hoàng đế Trung Hoa.
Tác động
Ngoài thiệt hại nhân mạng, nhà Triều Tiên còn phải chịu mất mát khủng khiếp về văn hóa, kinh tế và cơ sở hạ tầng, bao gồm việc suy giảm với số lượng lớn đất trồng trọt được, Gánh nặng tài chính lên Trung Quốc ảnh hưởng bất lợi đến khả năng quân sự và góp phần vào sự sụp đổ của nhà Minh và sự trỗi dậy của nhà Thanh. Tuy vậy, hệ thống triều cống lấy Trung Quốc làm trung tâm mà nhà Minh đã bảo vệ được nhà Thanh phục hồi, và quan hệ thương mại bình thường giữa Triều Tiên và Nhật Bản sau đó cũng được tiếp tục.
Bối cảnh
Triều Tiên và Trung Quốc trước chiến tranh
Năm 1392, Tướng quân Triều Tiên là Lý Thành Quế đảo chính thành công tiếm quyền Cao Ly U Vương, sau đó, các thuộc hạ của ông ép Lý Thành Quế phải nhận vương miện, do đó, lập nên nhà Triều Tiên.. Do thiếu dòng máu Vương tộc, để tìm kiếm tính hợp pháp cho sự thống trị của mình, triều đình mới tham gia vào hệ thống triều cống trong khái niệm Thiên mệnh và nhận được sự công nhận từ Trung Quốc . Dưới quyền Tướng quân Ashikaga Yoshimitsu cuối thế kỷ 14, Nhật Bản cũng có được một chỗ trong hệ thống triều cống (m. đi năm 1547, xem hai jin). Trong hệ thống chư hầu, Trung Quốc có vị trị anh cả, Triều Tiên là anh hai, và Nhật Bản chỉ xếp vị trí cuối cùng.
Không giống như tình hình qua hơn một ngàn năm trước đó khi các triều đại Trung Quốc giữ mối quan hệ đối nghịch với quốc gia lớn nhất của người Triều Tiên (Cao Câu Ly), nhà Minh Trung Quốc có quan hệ thương mại và ngoại giao gần gũi với nhà Triều Tiên, vốn cũng liên tục hưởng lợi từ quan hệ buôn bán với Nhật Bản.
Hai nhà, nhà Minh và nhà Triều Tiên, có nhiều điểm chung: đều nổi lên trong thế kỷ 14 với sự suy tàn của nhà Nguyên, xã hội đi theo tư tưởng Nho giáo; và đối mặt với nhiều mối nguy từ ngoại bang (những cuộc đột kích của người Nữ Chân và cướp biển Nhật Bản Wokou (Oa Khấu)). Về nội trị, cả Trung Hoa và Triều Tiên đều gặp rắc rối với những cuộc đấu đá giữa các phe cánh chính trị, điều sẽ ảnh hưởng quan trọng tới các quyết định của người Triều Tiên trước chiến tranh, và thời hậu chiến với người Trung Quốc. Thương mại độc lập với nhau và cùng có kẻ thù chung dẫn đến việc nhà Triều Tiên và nhà Minh Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị.
Hoàng đế Vạn Lịch của nhà Minh lên ngôi vào năm 1572 khi mới 9 tuổi. Trong 10 năm đầu của triều Minh Vạn Lịch,triều đình nhà Minh được lãnh đạo chủ yếu bởi đại thần Trương Cư Chính, thầy giáo và phụ chính đại thần của hoàng đế nhà Minh. Trương đã thực hiện một loạt các cải cách làm tăng sức mạnh của triều đình và tạo được một số tiến bộ trong những vấn đề quan trọng, bao gồm cả vấn đề tài chính. Trương cũng đạt được một số thắng lợi trong cuộc chiến chống lại người Mông Cổ ở phía bắc, và trọng dụng các tướng lĩnh có tài, chẳng hạn như Thích Kế Quang, Lý Thành Lương.
Mặc dù sau khi Trương Cư Chính qua đời năm 1582, nhà Minh đã bãi bỏ một số các cải cách của ông và các hoàng đế nhà Minh ngày càng bất tài và không quan tâm với triều chính hàng ngày, nhà Minh vẫn có nhiều ảnh hưởng tới các nước láng giềng trong giai đoạn cực thịnh vào thập niên 1590.
Nhà Minh đã tham gia một chuỗi những chiến tranh trong thời gian này. Bên cạnh cuộc chiến không ngừng của họ chống lại người Mông Cổ, họ cũng đối phó với một cuộc nổi dậy của người Hồi ở Ninh Hạ trước khi chiến tranh Imjin nổ ra, cùng với một cuộc chiến tranh biên giới với các triều đại Miến Điện Taungoo trùng thời điểm với cuộc chiến tranh Imjin. Xung đột của Trung Quốc với những tên cướp ở biển Nhật Bản Wokou (Oa Khấu) một vài thập kỷ trước đó cũng đã cho họ những kinh nghiệm đáng kể về Nhật Bản trong chiến tranh.
Sự chuẩn bị của Hideyoshi
Cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ 16, Hideyoshi là daimyō đã thống nhất toàn bộ Nhật Bản, và mới có một thời gian hòa bình ngắn ngủi. Vì Hideyoshi xuất thân là nông dân và không phải dòng dõi của một trong 4 đại gia tộc Minamoto, Fujiwara, Taira, và Tachibana nên Thiên Hoàng đã không ban cho ông chức shōgun. Do đó để nắm quyền và hợp thức hóa pháp chức vụ shōgun, nên ông tìm kiếm quyền lực quân sự để hợp pháp hóa sự thống trị của mình và giảm sự phụ thuộc của ông vào triều đình. và giảm nhẹ mối đe dọa có thể việc mất trật tự xã hội và nổi loạn của một số lượng lớn Samurai và binh lính được giải ngũ. Nhưng cũng có thể Hideyoshi đã có một mục đích thực tế hơn là chinh phục những quốc gia láng giềng nhỏ bé hơn (ví dụ như Ryukyu, Luzon, Đài Loan và Triều Tiên) và đặt mối quan hệ thương mại với các nước lớn hơn hoặc xa hơn, vì trong suốt cuộc xâm lược Triều Tiên, Hideyoshi vẫn tìm kiếm việc giao thương hợp pháp với Trung Quốc
Vào tháng 3 năm 1586 theo Lịch sử Tôn giáo phương Tây của Nhật Bản, ông nói với Gaspar Coelho (Tổng Giám mục Dòng Tên tại Nhật Bản lúc bấy giờ) rằng sau khi bình định đất nước, ông sẽ để Nhật Bản cho em trai Hidenaga và tiến tới chinh phục nhà Đường (sự hiểu nhầm về triều đại), và rằng ông sẽ đóng 2.000 con tàu mới cho mục đích đó. Có những ghi chép rằng ông muốn có hai tàu chiến của Bồ Đào Nha. Vì vậy ông đã yêu cầu họ sắp xếp để bán chúng, và nếu cuộc chinh phục diễn ra tốt đẹp, ông sẽ cho phép Kitô giáo được rao giảng ở Trung Quốc.
Sau khi tiêu diệt Gia tộc Hậu Hōjō và thành Odawara của năm 1590 cuối cùng đã mang đến lần thống nhất thứ hai của nước Nhật, và Hideyoshi bắt đầu chuẩn bị cho cuộc chiến kế tiếp. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1591, các daimyo Kyushu và đội ngũ lao động của mình xây dựng thành tại Nagoya (ngày nay là Karatsu) làm trung tâm cơ động của đội quân xâm lược.
Hideyoshi lên kế hoạch cho một cuộc chiến có thể xảy ra với Triều Tiên từ lâu trước khi thống nhất Nhật Bản, và chuẩn bị trên nhiều mặt. Ngay từ năm 1578, Hideyoshi, khi đó chiến đấu dưới trướng Nobunaga chống lại Mōri Terumoto vì quyền kiểm soát vùng Chūgoku của Nhật Bản, thông báo với Terumoto kế hoạch xâm lược Trung Quốc của Nobunaga. Năm 1592, ông tự mình gửi một bức thư đến Philippines đòi cống phẩm từ vị toàn quyền và nói rõ rằng Nhật Bản đã nhận triều cống từ Triều Tiên (là một sự hiểu lầm, như sẽ giải thích ở phía dưới) và Ryukyu.
Với chuẩn bị quân sự, việc đóng gần 2.000 thuyền có lẽ đã bắt đầu từ năm 1586. Để ước lượng sức mạnh quân đội Triều Tiên, Hideyoshi cử một hạm đội đột kích gồm 26 thuyền đến bờ biển phía Nam Triều Tiên năm 1587, và ông kết luận rằng người Triều Tiên chỉ là lũ bất tài. Về phương diện ngoại giao, Hideyoshi bắt đầu thiết lập quan hệ bạn hữu với Trung Quốc từ lâu trước khi hoàn thành việc thống nhất Nhật Bản và giúp canh phòng tuyến hải thương chống lại wakō.
Ngày 15/03/1592, việc huy động đã được ban bố đến các daimyo của mỗi phiên (藩 han). Tuy nhiên, mệnh lệnh đưa ra không thống nhất và được giảm hoặc miễn trừ tùy thuộc vào hoàn cảnh của từng lãnh chúa mỗi phiên. Số lượng binh lính thực tế được huy động được cho là khoảng 80%. Binh lính được huy động chủ yếu ở miền tây Nhật Bản, nhưng ở miền đông lại được huy động rất ít. Các daimyo miền Tây Nhật Bản đa số tham chiến ở Triều Tiên, trong khi các daimyo phía Đông tham gia rất hạn chế. Chỉ huy trực tiếp chiến trường do con cháu hoặc cận thần dòng họ Toyotomi đảm trách. Ví dụ: Kato Kiyomasa và Konishi Yukinaga trực tiếp chỉ huy các daimyo Nabeshima Naoshige, So Yoshitomo, Matsuura Shigenobu.
Thái độ ngoại giao giữa Nhật Bản và nhà Triều Tiên
nhỏ|Đại danh Konishi Yukinaga chỉ huy cánh quân thứ 1 Năm 1587, Hideyoshi cử sứ thần đầu tiên của mình Tachibana Yasuhiro, đến Triều Tiên, vào thời trị vì của Triều Tiên Tuyên Tổ để tái lập quan hệ ngoại giao giữa Triều Tiên và Nhật Bản (đổ vỡ vì các cuộc tập kích quấy nhiễu của cướp biển Nhật Bản năm 1555), điều mà Hideyoshi hy vọng rằng sẽ sử dụng nó làm bàn đạp để thuyết phục nhà Triều Tiên về phe Nhật Bản trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Yasuhiro, với tiểu sử là một chiến binh và thái độ khinh mạn với các quan lại và phong tục Triều Tiên, mà ông coi như đàn bà, không thể có được lời hứa về một sứ đoàn tương lai từ Triều Tiên. Khoảng tháng 5 năm 1589, sứ đoàn thứ hai của Hideyoshi, bao gồm cả Sō Yoshitoshi (hay Yoshitomo), Gensho và Tsuginobu đến Triều Tiên và có được lời hứa về một sứ đoàn Triều Tiên đến Nhật Bản để đổi lấy quân nổi loạn Triều Tiên trốn chạy đến Nhật. đại danh Sō trì hoãn cuộc thương thảo gần 2 năm. Liễu Thành Long, một quan văn cao cấp, cho rằng quân đội nên sản xuất súng hỏa mai, nhưng triều đình nhà Triều Tiên không làm nổi. Việc thiếu hứng thú và đánh giá thấp khả năng của súng hỏa mai cuối cùng dẫn đến sự thiệt hại nặng nề của quân đội Triều Tiên đầu cuộc chiến. nhỏ|Đại danh Katō Kiyomasa chỉ huy cánh quân thứ 2 Tháng 4 năm 1590, sứ thần Triều Tiên bao gồm Hwang Yunkil, Kim Sŏngil và những người khác đến Kyoto, ở đây họ đợi trong 2 tháng trong khi Hideyoshi kết thúc chiến dịch chống lại Odawara và gia tộc Hōjō. Khi ông trở về, họ trao đổi quà tặng theo nghi lễ và gửi bức thư của vua Tuyên Tổ đến Hideyoshi. Bức thư, được phác thảo lại theo yêu cầu của các sứ thần vì nó quá khiếm nhã, yêu cầu Triều Tiên thần phục Nhật Bản và tham dự vào cuộc chiến chống Trung Quốc. trong khi Hwang Yun-kil báo cáo với triều đình Triều Tiên các ước lượng đối nghịch nhau về thực lực và ý định quân sự của Nhật Bản và nhấn mạnh rằng, chiến tranh đang tới, Kim Sŏngil khẳng định rằng lời nói của Hideyoshi chỉ là thứ bịp bợm. Hơn nữa, phần lớn các ước tính đều cho thấy người Nhật không đủ khả năng. Một số người, bao gồm vua Tuyên Tổ, cho rằng nhà Minh nên được thông báo về thái độ xử sự với nước Nhật, vì nếu không làm như vậy, nhà Minh sẽ nghi ngờ về lòng trung thành của Triều Tiên, như triều đình Triều Tiên cuối cùng kết luận rằng phải đợi thêm nữa cho đến khi các diễn biến và hành động thích đáng trở nên chắc chắn.
Hideyoshi khởi động quan hệ ngoại giao với Triều Tiên với ấn tượng rằng Triều Tiên là một chư hầu của đảo Tsushima, mà người Triều Tiên cho là của họ; triều đình Triều Tiên thì cho rằng Nhật Bản là một quốc gia thấp kém so với Triều Tiên theo hệ thống triều cống của Trung Quốc, và hy vọng rằng cuộc xâm lược của Hideyoshi sẽ chẳng hơn gì những cuộc đột kích thường thấy của cướp biển Wako. Triều đình Triều Tiên đón tiếp Gensho và Tairano, sứ đoàn thứ ba của Hideyoshi. Triều Tiên Tuyên Tổ gửi một bức thư khiển trách Hideyoshi vì thách thức hệ thống triều cống Trung Quốc; Hideyoshi đáp lại bằng một bức thư thiếu tôn trọng, nhưng vì nó không được đích thân mang đến như thông lệ, nên triều đình Triều Tiên mặc kệ nó. Sau khi từ chối lời yêu cầu thứ hai, Hideyoshi tung quân tấn công Triều tiên năm 1592. Có những người chống đối cuộc xâm lược ở bên trong chính quyền Nhật Bản; trong số đó có Tokugawa Ieyasu, Konishi Yukinaga và Sō Yoshitoshi, những người cố làm trọng tài phân xử giữa Hideyoshi và triều đình Triều Tiên.
Thực lực quân sự
nhỏ|[[Hwacha|Hỏa xa được người Triều Tiên phát triển và có thể bắn đến 200 mũi tên một lần.|191x191px]]
nhỏ|193x193px|Những thành vững chắc trên núi như ở [[Namhansanseong xuất hiện nhiều. Tuy vậy, các thành bằng đá khác lại chỉ có chất lượng và kiến trúc kém]]
Hai mối đe dọa an ninh chính với Triều Tiên và Trung Quốc vào thời điểm đó là người Nữ Chân, đột kích dọc biên giới phía Bắc và Oa khấu (cướp biển Nhật Bản), cướp bóc các làng mạc ven biển và thương thuyền. Để chống lại người Nữ Chân, người Triều Tiên phát triển hải quân hùng mạnh, xây dựng phòng tuyến liên hoàn các pháo đài dọc sông Tumen, và giành quyền kiểm soát đảo Đối Mã. Thế phòng thủ này trong một môi trường tương đối hòa bình khiến người Triều Tiên dựa trên hỏa lực mạnh của thành trì và tàu chiến. Với việc du nhập của thuốc súng dưới triều Cao Ly, Triều Tiên đã phát triển các khẩu đại bác tiên tiến, sử dụng rất hiệu quả trên tàu hải quân. Thậm chí mặc dù Trung Hoa là nơi tập trung chủ yếu của các công nghệ quân sự mới ở châu Á, Triều Tiên vẫn trội hơn cả về chế tạo đại bác và đóng tàu vào thời đó. Tuy nhiên, lực lượng trên bộ của Triều Tiên lại không được trang bị súng mà chỉ có các vũ khí truyền thống như gươm, giáo, cung tên.
Nhật Bản thì đã ở thời Chiến Quốc hơn một thế kỷ, các tướng lĩnh quân đội Nhật có rất nhiều kinh nghiệm tác chiến trên bộ và họ đã ủng hộ việc trang bị súng hỏa mai du nhập từ Bồ Đào Nha cho số lượng lớn binh sỹ. Chiến thuật này khác về phát triển vũ khí và ứng dụng góp phần vào thế thống trị của người Nhật trên đất liền, trong khi Triều Tiên thống trị trên biển.
Vì Nhật Bản trong tình trạng chiến tranh từ giữa thế kỷ 15, Hideyoshi có toàn quyền sử dụng đến nửa triệu chiến binh đã được tôi luyện qua chiến đấu, lập nên quân đội chuyên nghiệp nhất ở châu Á thời đó. Trong khi các sứ quân hỗn loạn của Nhật Bản đánh giá rất thấp mối đe dọa quân sự từ Triều Tiên với Nhật Bản, Cùng với cuộc săn lùng của "Chiếu chia cắt" năm 1591, chấm dứt một cách có hiệu quả tất cả hoạt động cướp biển Nhật Bản bằng cách cấm các đại danh trợ giúp cho cướp biển ở trong thái ấp của mình. Về vị thế quân sự của Triều Tiên, Liễu Thành Long quan sát:
Các tướng trèo lên địa vị này phụ thuộc nhiều hơn vào các mối quan hệ xã hội thay vì tri thức quân sự. Binh lính Triều Tiên vô tổ chức, được huấn luyện và trang bị kém
Các vấn đề với chính sách phòng thủ của nhà Triều Tiên
nhỏ|trái|198x198px|Súng hỏa mai Nhật Bản vào thời Edo. Những loại hỏa khí này được binh lính Nhật sử dụng trong các cuộc xâm lược của Hideyoshi
Có vài nhược điểm trong tổ chức quân đội Triều Tiên. Một ví dụ là chính sách phòng thủ mà quan lại địa phương không thể tự mình chịu chống lại các cuộc xâm lược từ bên ngoài, nó nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ cho đến khi một vị tướng cấp cao hơn, do triều đình bổ nhiệm, đến nơi với đội quân cơ động. bao gồm một bức tường đá, kéo dài xung quanh một ngọn núi theo hình con rắn. Cuộc xâm lược lần thứ nhất bao gồm chín cánh quân với tổng số 158.700 lính bao gồm cả nhân công, vận tải (trong đó 1/4 có súng), trong đó có 21.500 quân dự bị đóng tại hai đảo Đối Mã và Iki. nhỏ|Ashigaru sử dụng súng hỏa mai tanegashima bắn theo đội hình Khoản 1/3 số đó là lực lượng chiến đấu chính (samurai, người hầu của họ và bộ binh ashigaru), trong khi 2/3 còn lại là lực lượng hỗ trợ (quân y, nhà sư, trợ lý, nhân công, chèo thuyền, …). Dưới đây thể hiện lực lượng của Gotō Sumiharu, người nắm giữ thái ấp Fukue (được đánh giá khoản 140,000 koku) trên quần đảo Gotō. Thư tịch gia đình cho thấy ông ta đã lãnh đạo một lực lượng là 705 người, với 27 con ngựa, 220 người chiến đấu trực tiếp trong khi 485 người đóng vai trò hỗ trợ và hậu cần. Cụ thể như sau:
- Tướng (chỉ huy): 1 và ngựa của ông ta.
- Cố vấn: 5 người và 5 ngựa.
- Đưa thư: 3 người với 3 ngựa.
- Kiểm soát: 2 người với 2 ngựa.
- Samurai Kỵ binh: 11 người với 11 ngựa.
- Samurai bộ binh: 40 người.
- Người phục vụ Samurai: 38 người.
- Bộ binh Ashigaru: 120 người.
Thư tịch của một daimyō khác tham chiến được được lưu lại bởi Shimazu Yoshihiro:
- 600 samurai
- 300 lính cờ hiệu
- 1,500 ashigaru cầm hỏa mai
- 1,500 cung ashigaru
- 300 ashigaru giáo
- 6,400 nhân công và chèo thuyền
Phần lớn lực lượng chiến đấu được đưa tới Triều Tiên là ashigaru (bộ binh nhẹ), họ là nông dân phục vụ trong lãnh địa được trang bị áo giáp, giáo, súng tanegashima, cung yumi. Không giống như các samurai vốn tự trang bị những bộ giáp đắt tiền, ashigaru mặc những bộ giáp sắt rẻ tiền quanh người. Ashigaru được trang bị súng hỏa mai tanegashima và được huấn luyện chiến đấu theo chuẩn Châu Âu. Họ cầm súng hỏa mai bắn theo theo đội hình, hàng trước bắn rồi khụy gối để nạp đạn sau đó đến hàng sau đứng bắn và cứ như vậy chu kỳ được lặp đi lặp lại.
Quy mô hải quân Nhật Bản dao động từ 9.000 đến 10.000. Lực lượng chính là hải quân Awaji và hải quân Kii. Hải quân Murakami, Kurushima thuộc cánh quân của gia tộc Kobayakawa - Mori.
Mặt khác, Triều Tiên chỉ duy trì vài đơn vị quân đội nhỏ và không có quân dã chiến, và việc phòng thủ của họ dựa chủ yếu vào việc huy động dân binh trong tình huống khẩn cấp. Quân tiếp viện Trung Quốc trong chiến tranh không thể tạo ra sự khác biệt về số lượng vì họ không bao giờ duy trì quá 60.000 lính ở Triều Tiên ở bất kỳ thời điểm của cuộc chiến, súng hỏa mai được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản. Cả Triều Tiên và Trung Quốc đều đang sử dụng hỏa khí tương tự như súng hỏa mai Bồ Đào Nha, nhưng là loại cũ hơn. Những hỏa khí cũ này cuối cùng không được dùng đến ở Triều Tiên, các vũ khí dùng thuốc súng chủ yếu của phía Triều Tiên là pháo binh và máy phóng tên bằng thuốc súng (Hwa-cha). Khi các nhà ngoại giao Nhật Bản tặng Triều Tiên súng hỏa mai làm quà, quan văn Triều Tiên Liễu Thành Long chủ trương sử dụng loại vũ khí mới này nhưng không thành công và nhà Triều Tiên không nhận ra tiềm năng của nó.
nhỏ|185x185px|Mũi tên gỗ đầu bịt sắt loại lớn bắn từ đại bác Triều Tiên
Bộ binh Triều Tiên được trang bị một hay nhiều hơn các vũ khí cá nhân sau: kiếm, giáo, đinh ba, cung tên. Tuy vậy, huấn luyện một xạ thủ sử dụng hiệu quả cây cung này vừa lâu vừa khó, không giống súng hỏa mai. Bộ binh Trung Quốc thì sử dụng nhiều loại vũ khí, vì họ phải đối phó với nhiều loại địa hình khác nhau trên khắp đất nước mình, bao gồm cung (chủ yếu là nỏ), súng hỏa mai, bom khói và thủ pháo., có lực lớn hơn cung tên, và có thể bắn thành loạt tập trung để bù đắp lại sự thiếu chính xác (ở cả tầm gần và xa; với cung tên, ở tầm xa). Tuy nhiên, đến giai đoạn sau, người Triều Tiên và Trung Quốc tiếp thu việc sử dụng súng hỏa mai của người Nhật. Cũng phải nói rằng người Trung Quốc đã phát triển được áo chống đạn trong cuộc xâm lược lần thứ hai.
Tương tự với kị binh Đại Minh - thường xuyên phải đối đầu với kị binh du mục Mãn Châu, kị binh Triều Tiên (đặc biệt là các đơn vị kị binh Triều Tiên đóng ở biên giới phía bắc) được trang bị đầy đủ, khả năng chiến đấu tốt và dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Do đó, Triều Tiên và Đại Minh tích cực sử dụng các đơn vị kỵ binh trên chiến trương, tuy vậy, kết quả rất tiêu cực cho phía Triều Tiên. Địa thế nhiều núi non ở Triều Tiên, thiếu cả địa hình bằng phẳng thích hợp cho kỵ binh xung phong và cỏ cho ngựa ăn, và việc người Nhật dùng súng hỏa mai có tầm bắn xa khiến các đơn vị kỵ binh mất lợi thế. Phần lớn hoạt động của kỵ binh Triều Tiên diễn ra trong Trận Trung Châu vào đầu cuộc chiến, nhưng họ bị áp đảo về quân số và bị bộ binh Nhật quét sạch.
Sức mạnh hải quân
Bức vẽ cổ về một Panokseon
Không giống các binh chủng khác, binh chủng hải quân Triều Tiên rất mạnh. Vị thế dẫn đầu của Triều Tiên về công nghệ pháo binh và đóng tàu mang lại cho hải quân của họ lợi thế khủng khiếp. Với một lịch sử phụ thuộc vào biển cả và cần thiết đánh lại cướp biển Nhật Bản, hải quân Triều Tiên được phát triển mạnh trong suốt thời Cao Ly và vô cùng tiên tiến dưới nhà Triều Tiên. Cho đến cuộc xâm lược của Nhật Bản, Triều Tiên sử dụng Bản ốc thuyền (P'anoksŏn), xương sống của hải quân Triều Tiên.
Đặc biệt với sự thiếu vắng hoàn toàn của đại bác trên các con tàu Nhật trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, thiết kế thuyền nhẹ của họ khiến họ không thể đặt nhiều đại bác hay đại bác hạng nặng lên tàu như người Triều Tiên.
Có những khuyết điểm cơ bản trong thiết kế của các thuyền Nhật Bản: đầu tiên, phần lớn thuyền của Nhật là tàu buôn được sửa lại để làm tàu chở quân do đó thích hợp cho việc chuyên chở lính và thiết bị hơn là để đặt đại bác. Thứ hai, tàu của Nhật đều có một buồm hình vuông (chỉ có hiệu quả khi thuận gió) trong khi tàu Triều Tiên có cả buồm và mái chèo. Thuyền của Nhật cũng có đáy hình chữ V (giống tàu Trung Quốc) lý tưởng cho tốc độ cao, nhưng khó điều khiển hơn Bản ốc thuyền đáy bằng; và thứ tư, thuyền của Nhật dùng đinh để ghép các ván tàu lại với nhau, trong khi Bản ốc thuyền của Triều Tiên dùng chốt gỗ, và sự khác biệt này mang lại lợi thế cho người Triều Tiên, vì ở dưới nước, đinh bị ăn mòn và lỏng dần, trong khi chốt gỗ nở ra, và làm mối nối chắc hơn.
Quân Triều Tiên có thế thượng phong trên biển còn là nhờ vào tài lãnh đạo và chiến thuật lỗi lạc của Đô đốc Lý Thuấn Thần, giúp ông bất khả chiến bại trong mọi trận đánh, tác động tiêu cực đến Hải quân Nhật Bản và đường tiếp vận của họ.
Hideyoshi còn thất bại trong việc thuê hai thuyền buồm Bồ Đào Nha tham gia vào cuộc chinh phạt này.
Cuộc xâm lược lần thứ nhất (1592–1593)
Những cuộc tấn công đầu tiên
Phủ Sơn và trấn Đa Đại
Ngày 23 tháng 5, 1592, Cánh quân thứ nhất gồm 7.000 lính do Konishi Yukinaga chỉ huy rời Đối Mã vào buổi sáng, và đến thành phố cảng Phủ Sơn vào buổi tối. Thám báo của hải quân Triều Tiên đã phát hiện được hạm đội Nhật Bản, nhưng Nguyên Quân (元均), Thủy quân Hữu đạo của Khánh Thượng, tưởng lầm hạm đội đó là thuyền buôn. Báo cáo sau đó về sự xuất hiện của thêm 100 tàu Nhật nữa làm tăng mối nghi ngờ của ông, nhưng vị tướng này không ra lệnh gì.
Theo ghi chép của Triều Tiên, Chỉ huy ở Phủ Sơn là tướng Chong Pal đã chỉ huy quân của mình và hét lớn: “Ta ra lệnh cho các ngươi chiến đấu và hy sinh một cách thật anh dũng! Kẻ nào lùi bước, đích thân ta sẽ lấy đầu kẻ đó!”. Cuộc chiến diễn ra ác liệt nhưng nhanh chóng kết thúc. Tại đây, người Triều Tiên lần đầu tiên được nếm trải sức mạnh của súng hỏa mai. Chính tướng Chong Pal cũng tử trận, và người vợ lẽ mới 18 tuổi của ông đã tuẫn tiết ngay bên cạnh chồng mình.
Tới 9 giờ sáng thì quân Triều Tiên thất thủ. Khi quân Nhật tràn vào thành, Biên niên sử Samurai của Yoshino Jingozaemon ghi lại: “Chúng tôi bắt hết những người đang chạy loạn khắp nơi và cả những người cố gắng trốn trong khe vách giữa các căn nhà. Những người không tìm được chỗ trốn thì chạy tới cổng phía đông, họ nắm tay nhau tới chỗ chúng tôi và nói tiếng Trung: ‘Mano! Mano!’, như thể đang cầu xin sự khoan dung. Không màng tới điều này, quân của chúng tôi lao tới tàn sát họ như để hiến tế máu cho thần chiến tranh vậy…”.
Trong những ngày sau đó, liên tiếp hai đơn vị bổ sung cập bến Phủ Sơn: Kato Kiyomasa với 22.800 quân; Kuroda Nagamasa với 11.000 quân. Tướng Konishi, với đội đầu tiên tới Pusan của mình tiến thẳng về kinh đô ở Seoul, lộ trình hướng vào trung tâm bán đảo.
Đông Lai
nhỏ|trái|278x278px|"Dongnaebu Sunjeoldo", tranh vẽ Triều Tiên năm 1760 miêu tả trận Dongnae
Sáng này 25 tháng 5, 1592, cánh quân thứ nhất đến ấp thành Đông Lai. Một truyền thuyết phổ biến, miêu tả vị tướng giữ thành, Song Sanghyŏn. Khi Konishi Yukinaga lại yêu cầu một lần nữa, trước trận đánh, rằng người Triều Tiên để người Nhật đi qua bán đảo, viên trấn thành đáp, "Ta chết thì dễ, nhưng ngươi qua thì khó đấy." Cánh thứ hai chiếm thành phố bị bỏ trống Tongdo ngày 28 tháng 5, và Khánh Châu ngày 30 tháng 5. Cho đến ngày 3 tháng 6, cánh quân thứ 3 chiếm được Vân Sơn, Xương Ninh, Hyonpung, và Thượng Châu. Lý Dật tiến đến Myongyong gần đầu con đèo chiến lược quan trọng Choryong để tập hợp quân đội, nhưng ông phải đi xa hơn về phía Nam để gặp được đội quân tập hợp tại thành Đại Khâu. Ở đó, Lý Dật lệnh cho toàn quân lùi về Thượng Châu, trừ những người sống sót sau trận Đông Lai làm đạo quân hập tập tại đèo Choryong. Đoán rằng khói bốc lên là từ những tòa nhà bốc cháy gần quân Nhật, Lý Dật cử một võ quan đi trinh thám; tuy vậy, khi đến gần cầu, người này bị lính hỏa mai của quân Nhật phục kích từ bên dưới cầu, và bị chặt đầu. Thân Lạp sau đó muốn đánh trận ở nơi quang đãng, nơi ông thấy lý tưởng cho việc triển khai đơn vị kỵ binh của mình, và điều đơn vị của mình đến các cánh đồng rộng ở Tangeumdae. ông thấy cần phải chặn quân mình lại trong một vùng hình tam giác tạo thành bởi sự hợp lưu giữa hai con sông Thán Xuyên và Hán theo hình chữ "Y". Ngày hôm sau, cánh thứ nhất đến Tangumdae vào đầu buổi trưa, ở đây họ gặp một đơn vị kỵ binh Triều Tiên trong Trận Trung Châu. Konishi chia quân mình thành 3 đường, và tấn công với súng hỏa mai từ cả hai cánh và chính diện. Ở đó, Katō thể hiện sự giận dữ của mình với Konishi vì không đợi tại Phủ Sơn như kế hoạch, và cố giành mọi vinh quang về phần mình; sau đó Nabeshima Naoshige để xuất một thỏa ước sẽ chia quân Nhật làm hai đạo, tiến theo hai đường khác nhau đến Hán Thành (thủ đô và ngày nay là Seoul), và cho phép Katō Kiyomasa chọn con đường mà cánh thứ hai sẽ đi để đến Seoul. Quân Nhật phá một cửa cống nhỏ, nằm trên tường thành, và mở cổng kinh đô từ bên trong. Các thần dân của nhà vua lấy đi gia súc từ chuồng của hoàng gia và bỏ chạy trước cả vua, bỏ ông lại dựa trên đám gia súc.
Phân bổ quân lực năm 1592
Với việc Khai Thành bị chiếm ít lâu sau khi Tướng Kim Myong-won rút lui đến Bình Nhưỡng,
Đánh chiếm Bình Nhưỡng
Cánh quân thứ nhất của Konishi Yukinaga tiến lên phía Bắc chiếm Bình An, Thụy Hưng, Phượng Sơn, Hoàng Châu và Trung Hòa trên đường tiến quân. Tại Trung Hòa, cánh quân thứ ba của Kuroda Nagamasa hội quân với cánh thứ nhất, và tiếp tục tiến Bình Nhưỡng ở phía sau sông Đại Đồng. với nhiều chỉ huy khác nhau bao gồm của các tướng Lý Dật và Kim Myong-won, và việc chuẩn bị phòng thủ của họ đã đảm bảo chắc chắn rằng người Nhật sẽ không có thuyền để vượt sông. Sau đó, phần còn lại của quân Triều Tiên rút lui trở về Bình Nhưỡng, và quân Nhật không đuổi theo quân Triều Tiên để tìm xem quân địch đã vượt sông bằng cách nào. Vào ngày 24 tháng 7, đạo quân thứ nhất và thứ ba tiến vào thành Bình Nhưỡng.
Chiến dịch ở đạo Hàm Kính và Mãn Châu
Katō Kiyomasa dẫn hơn 20.000 lính thuộc cánh quân thứ hai, hành quân 10 ngày vượt qua bán đảo đến An Biên, và quét lên phía Bắc dọc bờ biển phía Đông.
10.000 lính còn lại của cánh quân này 3.000 lính Triều Tiên tại Hamgyong cũng tham chiến (cùng với 8.000 quân của Kato), vì người Nữ Chân định kỳ vẫn đột kích họ dọc biên giới.
Những trận hải chiến của Lý Thuấn Thần
Đã chiếm được Bình Nhưỡng, quân Nhật lên kế hoạch vượt sông Áp Lục tiến vào lãnh thổ của người Nữ Chân, và sử dụng vùng nước phía Tây bán đảo Triều Tiên để cung cấp cho cuộc xâm lược. Tuy vậy, Lý Thuấn Thần, người giữ chức quan Thủy quân Tả đạo (tương đương với "Đô đốc") của đạo Toàn La (bao phủ vùng biển phía Tây Triều Tiên), tiêu diệt các thuyền chở quân và tiếp vận của Nhật Bản. Một người đưa tin cử đến gặp Lý Thuấn Thần ở gần đảo Nam Hải truyền lệnh cho ông chuẩn bị chiến tranh, chỉ để thấy nó bị cướp phá và bị cư dân ở đó bỏ hoang.
Trận Ngọc Phố
Lý Thuấn Thần dựa trên một mạng lưới ngư dân địa phương và thuyền do thám để nhận tin tức về bước đi của kẻ địch. sau đó bắt đầu đi vòng quanh đảo Cự Tế, tiến đến đảo Gadeok, nhưng tàu do thám Triều Tiên phát hiện 50 tàu Nhật tại cảng Ngọc Phố. Quân Triều Tiên xác định thêm 5 tàu Nhật vào buổi tối, và diệt được 4 chiếc., Lý Thuấn Thần và Nguyên Quân cùng 26 tàu (23 của Lý) tiến đến vịnh Tứ Xuyên khi nhận được tin tình báo về sự hiện diện của quân Nhật. Lý Thuấn Thần đã bỏ lại đằng sau những thuyền đánh cá của mình vốn tạo nên phần lớn hạm đội của ông để đóng các thuyền con rùa. Thành tàu bao gồm 36 nơi giấu đại bác, và các lỗ mở ở trên đại bác, qua đó thủy thủ đoàn có thể nhìn ra ngoài và bắn hỏa khí cá nhân của mình.
Trận Đường Hạng Phố
Thủy quân Tả đạo Lý Ức Kỳ cùng với hạm đội của mình hội quân với Lý Thuấn Thần và Nguyên Quân, và tham gia tìm kiếm thuyền địch tại vùng biển Khánh Thượng. Sau đó Lý Thuấn Thần ra lệnh giả vờ rút lui, vì quân Nhật có thể chạy lên đất liền khi ở trong vịnh. dưới sự chỉ huy của Thủy quân Tả đạo Lý Thuấn Thần và Lý Ức Kỳ tiến hành cuộc hành quân tìm diệt vì binh lính Nhật trên đất liền đang tiến vào đạo Toàn La. Vài tù binh chiến tranh Triều Tiên được lính Triều Tiên giải thoát trong chiến đấu. Đô đốc Wakisaka chạy thoát nhờ kỳ hạm tốc độ cao của mình. Những nhóm chiến đấu này nổi lên ở khắp đất nước, và tham dự và các trận chiến, đánh du kích, bao vây, vận chuyển và xây dựng những gì cần thiết thời chiến. Thêm vào các cuộc tuần canh thành công trên biển của Lý Thuấn Thần, sự tuyên truyền tích cực tự nguyện gây sức ép với binh lính Nhật để họ tránh tỉnh này. Khi Quách lấy kho đụn bị bỏ lại của triều đình để cung cấp cho quân đội mình, Tổng đốc đạo Khánh Thượng Kim Su gọi đội quân của Quách là phản tặc, và ra lệnh cho nó giải tán. Khi nghe tin kinh đô đã bị chiếm, viên tổng đốc rút quân. Ngày 4 tháng 6, đội quân tiên phong 1.900 lính cố chiếm ngôi thành gần đó tại Long Nhân, nhưng 600 lính phòng thủ Nhật của Đô đốc Wakizaka Yasuharu tránh chạm tránh với quân Triều Tiên cho đến ngày 5 tháng 6, khi đại quân Nhật đến giải vây cho thành. Quân Nhật phản kích liên quân Toàn La thành công, buộc quân Triều Tiên phải bỏ vũ khí rút chạy.
Cuộc vây hãm Tấn Châu
Tấn Châu (Jinju, 진주) là tòa thành lớn bảo vệ đạo Toàn La. Chỉ huy quân Nhật biết rằng chiếm được Tấn Châu nghĩa là toàn bộ đạo Toàn La thất thủ. Do đó, một đội quân lớn dưới quyền chỉ huy của Hosokawa Tadaoki tiến đến Tấn Châu. Tấn Châu do tướng Kim Thời Mẫn (金時敏, 김시민) trấn giữ, đây là một trong ba vị tướng tài của Triều Tiên, chỉ huy 3.000 lính giữ thành. Kim gần đây đã có được 200 súng hỏa mai, cân bằng sức mạnh hỏa lực với quân Nhật. Với sự trợ giúp của súng hỏa mai, đại bác, và súng cối, Kim và quân Triều Tiên có thể cố thủ, đẩy lùi được các đợt tấn công của quân Nhật.
Sau nhiều ngày cố thủ, một lực lượng gồm 2.500 dân quân do "Hồng y tướng quân" Quách Tái Hữu đến chi viện cho Tấn Châu vào ban đêm. Lực lượng chi viện này khá nhỏ, không đủ để phá vòng vây bao quanh pháo đài, nhưng Quách đã ra lệnh cho người của mình thu hút sự chú ý bằng cách thổi tù và, phao tin đồn về một đội quân lớn đang tiến tới. Lúc này, các chỉ huy Nhật Bản nghĩ rằng họ đã bị vây chặt hai cánh, buộc phải từ bỏ cuộc bao vây và tháo lui.
Hosokawa mất hơn 10.000 quân trong trận này. Trận đánh tại Tấn Châu được coi là một trong những thắng lợi quân sự lớn nhất của Triều Tiên vì nó đã cản được quân Nhật tiến vào Toàn La, đồng thời có giá trị cổ vũ tinh thần to lớn, nâng cao sí khí của quân dân Triều Tiên.
Trận Hạnh Châu
Sự kháng cự của quân Triều Tiên ngày một tăng lên. Dù quân Minh đã rút về đóng tại Bình Nhưỡng sau trận Bích Đề quán, nhưng quân Nhật vẫn trong cảnh bị bao vây bốn phía bởi: quân địa phương tại sông Imjin, Paju và đèo Haeyu ở phía bắc; các tăng binh tập trung tại Surak-san phía đông bắc, Chasong phía tây và Incheon phía nam. Đáng kể nhất là 2.300 binh lính tỉnh Cholla đang náu mình sau các công sự gỗ, trên một con dốc bên bờ sông Hàn; đứng đầu bởi chỉ huy Quyền Lật (權慄, Kwon Yul).
Quyền Lật là một vị quan 55 tuổi, xuất thân từ một gia tộc quyền thế ở vùng Andong, đông nam tỉnh Kyongsang. Khi chiến tranh bùng nổ, vào tháng 5 năm 1592, ông chỉ huy một đạo quân ở phía bắc nỗ lực chặn đánh quân Nhật tiến về Seoul nhưng thất bại. Sau đó, ông chạy về phía nam và tiếp tục tham gia kháng chiến tại tỉnh Cholla (Toàn La), nơi quân đoàn 6 của Kobayakawa đang vây ráp. Quyền Lật thành danh nhờ đánh bại quân Nhật liên tiếp hai lần tại Ungchi và Ichi trong tuần thứ hai của tháng 7/1592. Ông nhanh chóng được đề bạt làm Tư lệnh quân đội tỉnh Cholla vào tháng sau.
Đầu năm 1593, Quyền Lật lãnh đạo một nhóm nhỏ ở phía bắc Seoul, chuẩn bị phối hợp tác chiến với đồng minh. Ông nhanh chóng tiến lên phía Bắc, chiếm lại Thủy Nguyên và sau đó quay xuống phía Nam xuống Hạnh Châu đợi quân tiếp viện Trung Quốc. Sau khi nhận được tin quân Triều Tiên bị tiêu diệt tại Byeokje, Quyền Lật quyết định củng cố bố phòng tại Hạnh Châu.
Sau khi kết nạp thêm các tăng binh của nhà sư Choyong, ông bắt đầu công việc kiến thiết một pháo đài đổ nát cách thủ đô 10 km về phía tây, trên một ngọn đồi rìa làng Hạnh Châu, bờ bắc sông Hàn. Một cao điểm phòng thủ với phía sau là con dốc thoải xuống sông Hàn. Chỉ có thể tấn công cứ điểm này theo hướng chính diện, dọc theo tầm hỏa lực của quân Triều Tiên. Với việc quân Minh vào trạng thái tạm nghỉ, pháo đài Hạnh Châu của Quyền Lật trở thành cái gai lớn trong mắt quân Nhật ở Seoul. Ngày 14/3 quân Nhật quyết định hành động. Sau chiến thắng tại Byeokje, Katō và đội quân 30.000 người tiến xuống phía Nam Hán Thành để tấn công Hạnh Châu, một sơn thành lớn nhìn xuống vùng đất xung quanh. Đội quân 2.300 người của Quyền Lật đợi quân Nhật ở đây.
Kato tin rằng đội quân đông đảo của mình sẽ dễ dàng tiêu diệt người Triều Tiên và sau đó ra lệnh cho lính Nhật đơn giản tiến lên những sườn đồi dốc đứng ở Hạnh Châu với rất ít chuẩn bị. Quân Nhật không thể cùng lúc ào lên thành lũy được phải chia ra thành nhiều nhóm thay phiên nhau tấn công. Nhưng lần này, súng hỏa mai của quân Nhật kém hiệu quả đi rất nhiều. Quân Nhật không thể ngắm bắn chuẩn trên địa hình dốc, lại càng khó bắn trúng các mục tiêu ẩn khuất sau công sự. Lợi thế lại thuộc về quân Triều Tiên, họ triệt hạ quân Nhật bằng cung tên, gỗ và đá. Quyền Lật đáp trả quân Nhật từ các công sự có sử dụng hỏa xa (hay hwacha, một loại máy phóng hình hộp, gắn trên xe di động, có khả năng phóng hàng trăm mũi tên kèm thuốc súng một lúc), đá tảng, súng cầm tay, và cung tên.
Toán quân của Konishi Yukinaga tham chiến trước. Chờ cho quân địch tới đủ gần, Quyền Lật lập tức ra lệnh gióng ba hồi trống phát động tấn công. Quân phòng thủ Triều Tiên dồn mọi hỏa lực từ mọi loại vũ khí mà họ có: cung, đại bác, hỏa xa. Konishi buộc phải dẫn quân của mình thoái lui. Ishida Mitsunari thống lĩnh toán lính thứ hai, nhóm này cũng không thể tiến lên phía trước, chính Ishida cũng bị thương. Toán thứ ba của Kuroda Nagamasa cũng không thể thay đổi tình hình. Sau 3 đợt tấn công thất bại, Ukita Hideie đưa ra quyết định đột phá, cố gắng liều chết khoan thủng hàng chướng ngại vật trước mặt hòng mở đường tiếp cận pháo đài, nhưng Ukita bị thương và phải rút về. Đợt tiếp theo do Kikawa Hiroie chỉ huy tấn công thẳng vào khoảng trống mà Ukita đã mở ra trước đó, tiến sát tới bức tường phòng thủ cuối cùng giữa quân Nhật và quân của tướng Quyền Lật.
Trận cận chiến ác liệt bắt đầu, quân Nhật cố gắng đâm, chém quân Triều Tiên phía sau các bức tường. Trong khi đó, quân Triều Tiên tử thủ với tất cả những gì họ có từ đao, kiếm, cung tên cho tới đất đá, thậm chí là cả nước sôi và tro trút xuống đầu phe địch. Vào hồi cao trào của cuộc vây hãm, tướng Quyền Lật không đánh trống trợ uy nữa mà tự tay cầm kiếm sát cánh chiến đấu bên binh sỹ của mình. Quân Nhật chất cỏ khô, đốt cháy pháo đài thì quân Triều Tiên ra sức dập lửa. Trong đợt tấn công thứ bảy do Kobayakawa Takakage dẫn đầu, một góc tường đã bị đục thủng, nhưng quân Triều Tiên kiên cường cầm chân quân Nhật đủ lâu để có thể vá lại bức tường gỗ.
Tới tận chiều, quân thủ thành Triều Tiên đã gần kiệt sức, cung tên thì sắp cạn. Những người phụ nữ Triều Tiên ở Hạnh Châu đã cố gắng chi viện cho binh sỹ ở tiền tuyến, họ mang đá lên pháo đài bằng chiếc váy truyền thống của mình để binh sỹ Triều Tiên ném vào quân Nhật. Tinh thần yêu nước của những người phụ nữ này đã cổ vũ to lớn cho binh sĩ nhà Triều Tiên tiếp tục chiến đấu, được sử sách và nhân dân Triều Tiên đời sau mãi ca ngợi (ngày nay ở Hàn Quốc/Bắc Triều Tiên vẫn còn loại váy tên là Haengju chima để tưởng nhớ tinh thần yêu nước này).
Sau 7 đợt tấn công, tưởng chừng như quân Triều Tiên đã hết hy vọng, thì ngay sau đó, chỉ huy hải quân Yi Bun cùng hai chiếc tàu chở viện binh và 10 ngàn mũi tên của mình cập bến sông Hàn, ngay phía sau pháo đài. Thế là, pháo đài Hạnh Châu vẫn đứng vững qua đợt tấn công thứ tám, thứ chín cho tới khi mặt trời chuẩn bị lặn.
Sau 9 cuộc tấn công thất bại với thương vong khoảng 10.000 - 15.000 người, Kato đốt cháy các xác chết và cuối cùng rút quân. Trên đường quay về thành Seoul, một sĩ quan Nhật đã gọi chiến địa bờ sông Hàn là sanzu no kawa (dòng sông địa ngục).
Như vậy, quân xâm lược Nhật tiến vào tỉnh Cholla bị lực lượng của tướng quân Quyền Lật đẩy lùi và đập tan trên những sườn đồi ở Ichiryeong. Quân dân Triều Tiên phải chiến đấu với quân Nhật đông hơn 13 lần, nhưng nhờ tinh thần chiến đấu kiên cường và chiến thuật hợp lý nên đã giành được chiến thắng.
Trận Hạnh Châu là chiến thắng quan trọng của quân Triều Tiên, nâng cao sí khí quân đội Triều Tiên. Trận đánh ngày nay được coi là một trong 3 chiến thắng quyết định nhất của quân Triều Tiên; Trận Hạnh Châu, Cuộc vây hãm Tấn Châu (1592), và Trận đảo Nhàn Sơn.
Ngày nay, ở khu vực Hạnh Châu có một đài kỷ niệm để vinh danh chiến công của vị anh hùng dân tộc Quyền Lật và những quân dân Triều Tiên chiến đấu dưới sự chỉ huy của ông.
Sự can thiệp của nhà Minh
Minh Thần Tông và các quan lại của ông đáp lại lời thỉnh cầu trợ giúp từ Triều Tiên Tuyên Tổ bằng cách gửi đi một đội quân không tương xứng với chỉ 55.000 lính.
Kết quả là, Minh Thần Tông gửi một đội quân lớn vào tháng 1 năm 1593 dưới sự chỉ huy của hai vị tướng, Tống Ứng Xương và Lý Như Tùng, trong đó Lý Như Tùng có tổ tiên là người Triều Tiên/Nữ Chân. Đội cứu binh có khoảng 100.000 người, tạo thành từ 42.000 quân từ năm quận phía Bắc và 3.000 lính giỏi sử dụng hỏa khí từ phía Nam Trung Quốc.
Tháng 1 năm 1593, đại quân Trung Quốc gặp một nhóm dân quân Triều Tiên ở ngoại thành Bình Nhưỡng. Bằng chiếu chỉ của Triều Tiên Tuyên Tổ, tướng quân nhà Minh Lý Như Tùng được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh quân đội Triều Tiên. Lý Như Tùng sau đó dẫn đầu liên quân chiến thắng trong Cuộc vây hãm Bình Nhưỡng (1593) đẫm máu.
Ngày 5/2/1593, 60.000 quân Trung Quốc và Triều Tiên tập trung sát Bình Nhưỡng đang bị quân Nhật chiếm đóng. Các tăng binh của Huyjong là những người tiên phong, họ tiến đánh một đơn vị Nhật đang giữ đồi Moranbong, cao điểm sát thành phố. Mất tới hai ngày đêm cùng 600 người, họ mới chiếm được mục tiêu. Sau đó, vào sáng ngày 8/2, Bình Nhưỡng bị bao vây, cuộc tấn công chính thức bắt đầu. Liên quân đông hơn nhiều quân Nhật trong thành, họ hoàn toàn áp đảo các tuyến phòng thủ ngoài và nhanh chóng áp sát tường thành. Quân của Konishi chưa đầu hàng mà lùi vào một pháo đài ở trung tâm thành phố để cố thủ. Do hao phí nhân lực, Lý Như Tùng ra lệnh cho quân mình rút lui. Trong thời gian tạm lắng, ông gửi thư tới cho Konishi đề nghị quân Nhật nếu rút lui thì sẽ được mở đường an toàn. Konishi đã mất 2.000 người và không thể cố thủ được nữa, bèn đồng ý rút quân từ Bình Nhưỡng về Seoul. Tướng Lý tập hợp quân của mình theo sát Konishi.
Quá tự tin với thành công bước đầu của mình, Lý Như Tùng tự mình dẫn 5.000 kỵ binh đuổi theo, cùng với một đạo quân nhỏ của Triều Tiên, nhưng bị đội hình gần 40.000 quân Nhật phục kích gần Bích Đề quán vào ngày 27/2/1593. Quân Nhật được chỉ huy bởi Kobayakawa Takakage, đóng quân tại Bích Đề quán, cách 15 km theo hướng bắc Seoul. Lý Như Tùng chạy thoát khi 5.000 quân đến giải vây.
Đàm phán và thỏa ước đình chiến giữa nhà Minh và Nhật Bản (1594–1596)
Tại Bình Nhưỡng, tướng Lý Như Tùng khước từ mọi thỉnh cầu tiến quân giải phóng Seoul từ phía Triều Tiên. Ông đã chạm trán quân đội của Hideyoshi hai lần và đều thất bại. Nếu mạo hiểm giao chiến thêm lần nữa, kết quả có thể còn tệ hơn. Thay vào đó, ông quyết định đàm phán ngoại giao với phía Nhật.
Dưới sức ép của quân đội nhà Minh và dân binh địa phương, với lương thực tiếp tế bị cắt đứt và quân đội của ông nay giảm xuống một phần ba vì bỏ trốn, bệnh tật và chết trận, Konishi buộc phải yêu cầu hòa giải. Lý Như Tùng đề nghị Konishi sắp xếp một cơ hội đàm phán để chấm dứt thế thù địch. Khi cuộc đàm phán đang tiến hành vào mùa xuân năm 1593, Trung Quốc và Triều Tiên đồng ý chấm dứt thù địch nếu quân Nhật cũng rút khỏi Triều Tiên. Tướng quân Konishi không còn lựa chọn nào khác trừ việc chấp nhận điều khoản này, nhưng rồi ông sẽ phải rất vất vả mới thuyết phục được Hideyoshi rằng ông không còn cơ hội nào khác.
Hideyoshi đề xuất với Trung Quốc việc phân chia Triều Tiên: phía Bắc là vùng đất vệ tinh tự trị của Trung Quốc, và phía nam vẫn nằm trong tay người Nhật. Đàm phán hòa bình phần lớn được Konishi Yukinaga, người chiến đấu chính với quân Trung Quốc, tiến hành. Lời đề nghị này được cân nhắc tới cho đến khi Hideyoshi yêu cầu thêm một công chúa Trung Quốc làm thiếp của mình. Sau đó, lời đề nghị nhanh chóng bị từ chối. Những cuộc đàm phán này được giữ bí mật với triều đình Triều Tiên.
Cho đến ngày 18 tháng 5 năm 1593, tất cả lính Nhật bắt đầu rút về nước.
Trận Tấn Châu lần 2
Vào tháng 7 năm 1593, quân Nhật hành quân tới thành phố phía nam Tấn Châu (Chinju) để gỡ lại trận thua tháng 11 năm trước, trận chiến mà tướng đồn trú Kim Thời Mẫn và 3.800 quân của mình đã đánh bại cuộc tấn công của lực lượng Nhật đông tới 30.000 quân.
Lần này, quân Nhật quay lại với đội quân 93.000 người. Triều Tiên chỉ có 3.000 – 4.000 quân, dưới sự lãnh đạo của một số vị tướng đáng chú ý như: Hwang Jin, sĩ quan vùng Chungchong; Choi Kyung-hoe, sĩ quan vùng Kyongsang; Kim Chol-Il, một cựu quan lại, nay chỉ huy một nhóm du kích địa phương. Chỉ huy dân quân, Hồng y tướng Quách Thời Hữu khuyên bạn mình, Hwang Jin, hãy rút khỏi Chinju. Tướng Hwang biết rõ Chinju khó giữ, nhưng ông vẫn quả quyết với Chol-Il và những người khác rằng ông sẽ tử thủ tới cùng. Quách Thời Hữu đành buồn bã rời đi, biết rằng người bạn của mình đã quyết lòng hy sinh vì nước. Trong thành, các nghĩa sĩ Triều Tiên bắt đầu dự trữ lương thực, gia cố cổng thành, sẵn sàng nghênh địch.
Vào ngày 19 cùng 7, tòa thành đã trong hoàn cảnh bị bao vây bốn phía. Giao tranh không ngừng, cả ngày lẫn đêm từ ngày 20 tới ngày 24. Quân Nhật thay nhau vây hãm, cố gắng khoét đá khỏi tường thành. Quân Nhật dùng các cỗ xe để phá cổng thành, các chòi bắn cao được dựng lên trước cổng đông và tây, với một bên dựng rào tre để chắn cho xạ thủ. Phía trong tường thành, tướng Hwang Jin, Kim Chon-il, huyện lệnh Yi Chong-in và binh sỹ vẫn chiến đấu dù nhiều người đã gần kiệt sức. Một tay súng Nhật dưới chân thành đã bắn trúng đầu Hwang khiến ông hy sinh.
Vào ngày 27/7, quân Nhật phá sập một mảng tường. Quân Triều Tiên không còn đủ người để tiếp tục kháng cự, mọi người đều đã kiệt sức sau cả tuần chiến đấu và cũng chẳng còn đường nào thể rút chạy. Khi quân Nhật tràn vào thành, Kim Chong-Il cùng con trai cả Kim Sang-gon và các chỉ huy Choi Kyong-hoe, Ko Chong-hu chạy tới đình Choksongnu nhìn ra bờ sông Nam. Sau khi cùng nhau hướng về kinh đô bái lạy nhà vua, họ cùng nhau gieo mình xuống sông tự vẫn. Huyện lệnh Yi Chong-in vẫn ở lại chiến đấu tới cùng. Sau cùng, ông khống chế một lúc hai lính Nhật, tới tảng đá trên bờ sông Nam và hét lớn: “Huyện lệnh Kimhae, Yi Chong-in đã chết tại đây!” rồi kéo cả ba xuống dòng sông.
Người Triều Tiên đến nay vẫn truyền tụng về tấm gương trung trinh ái quốc của người liệt nữ thành Tấn Châu tên là Nongae (hay Joo Nongae, Hangul: 주논개, Hanja: 朱 論 介) (3 tháng 9 năm 1574 - tháng 7 năm 1593). Joo Nongae sinh ra tại Jangsu, là vợ thứ 3 của chỉ huy Choi Kyong-hoe. Sau khi Choi Kyong-hoe hy sinh, Nongae nuôi chí báo thù cho chồng. Để ăn mừng chiến thắng, quân Nhật cho bắt tất cả ca kỹ trong thành tới để biểu diễn, Nongae đã cải trang thành một ca kỹ, cô quyến rũ một vị tướng Nhật (có nguồn nói tướng Nhật này tên là Keyamura Rokusuke), cả 2 đi lên một vách đá, đột ngột Nongae ôm lấy viên tướng Nhật rồi kéo hắn cùng lao xuống biển, cả 2 đều thiệt mạng. Ngày nay, vách đá nơi Nongae tử tiết được gọi là Uiam (Vách đá chính nghĩa), Nongae được nhân dân Triều Tiên ca tụng là tấm gương phụ nữ trung trinh tiết liệt. Năm 1846, vị quan Jeong Jooseok ở huyện Jangsu (quê hương của cô) đã cho xây bia đá khắc dòng chữ “Quê hương sinh thành của Nongae, liệt nữ Chokseok”. Đến năm 1955, người dân Jangsu đã lập Đền thờ Nongae ở núi Namsan, Jangsu.
Quân Nhật tàn sát ít nhất 60.000 người trong thành Chinju. Các tướng Kato, Ukita và Konishi hoàn toàn không nương tay. Trong cơn điên cuồng trả thù, quân Nhật giết tới từng con vật, kéo đổ từng bức tường, đốt từng tòa nhà, lấp từng cái giếng, chặt từng cái cây. Chinju bị xóa sổ theo đúng nghĩa đen. Kể từ lúc Nhâm Thìn chiến tranh bắt đầu, không có nơi nào bị quân Nhật hủy diệt triệt để như Chinju.
Thỏa ước đình chiến
Mùa hè năm 1593, một đoàn sứ thần Trung Quốc viếng thăm Nhật Bản và ở lại triều đình của Hideyshi hơn một tháng. Triều đình nhà Minh rút phần lớn quân viễn chinh về, nhưng vẫn giữ 16.000 lính ở bán đáo Triều Tiên để đảm bảo thực hiện thỏa ước đình chiến.
Một sứ thần của Hideyoshi đến Bắc Kinh năm 1594. Phần lớn quân Nhật đã rời Triều Tiên trước mùa thu năm 1596; tuy vậy vẫn còn một tòa thành nhỏ ở Busan. Thỏa mãn với lời đề nghị của người Nhật, triều đình Bắc Kinh gửi sứ đoàn đến ban cho Hideyoshi tước hiệu "Vua của nước Nhật" với điều kiện hoàn toàn rút quân Nhật khỏi Triều Tiên.
Sứ thần nhà Minh gặp Hideyoshi tháng 10 năm 1596. Khi Hideyoshi gặp sứ thần nhà Minh, ông mặc triều phục nhà Minh, và khấu đầu với sứ thần Trung Hoa, thể hiện địa vị chư hầu của mình với nhà Minh Trung Quốc. Tuy vậy, Hideyoshi không thể nhận được các đòi hỏi khác của mình là kết hôn với con gái của Hoàng đế Vạn Lịch, có một Hoàng tử Triều Tiên làm con tin và 4 đạo phía Nam Triên Tiên từ nhà Minh.
Sau đó, Hideyoshi nổi cơn giận dữ. Ông quăng mũ miện, xé tan áo bào, những thứ được nhà Minh phong tặng. Sứ giả Trung Quốc bị tiễn về nước, Hideyoshi đơn phương hủy bỏ đàm phán. Đàm phán hòa bình nhanh chóng đổ vỡ và chiến tranh chuyển sang giai đoạn thứ hai khi Hideyoshi cử một đội quân xâm lược khác. Đầu năm 1597, cả hai bên trở về thế đối đầu.
Tổ chức lại quân đội nhà Triều Tiên
Đề xuất cải cách
nhỏ|226x226px|Công sự mạnh như [[thành Hwaseong là rất cần thiết khi nổ ra chiến tranh tuy nhiên, nạn tham nhũng đã khiến cho việc xây dựng các công trình tương tự khi đó không thể tiến hành]] Giữa hai cuộc xâm lược của Nhật Bản, triều đình Triều Tiên có cơ hội để kiểm tra lý do tại sao họ lại dễ dàng thất bại đến thế. Tể tướng Yu Seong-ryong nói thẳng bất lợi của Triều Tiên.
Yu chỉ ra rằng việc phòng thủ thành trì quá yếu, một thực tế mà ông đã nói đến từ trước chiến tranh. Ông lưu ý thành Triều tiên có các công sự và tường thành chưa hoàn thiện, quá dễ để leo qua. Ông cũng muốn đặt súng đại bác lên tường thành. Yu đề xuất xây dựng các tòa tháp vững chắc với tháp pháo cho đại bác. Bên cạnh thành trì, Yu muốn tạo lập một tuyến phòng thủ ở Triều Tiên. Ông đề xuất tái xây dựng chuỗi tường thành và đồn lũy bao bọc xung quanh Hán Thành. Với kiểu phòng thủ này, kẻ địch sẽ phải trèo qua nhiều lớp tường thành rồi mới đến được Hán Thành.
Yu cũng chỉ ra quân Nhật chiến đấu hiệu quả thế nào, họ chỉ mất một tháng để tiến đến Hán Thành, tổ chức của họ tốt ra sao. Các đơn vị quân đội tổ chức tốt góp phần lớn vào chiến công của các tướng quân Nhật. Yu ghi lại cách quân Nhật di chuyển các đơn vị trong tiến quân phức hợp, thường làm suy yếu quân địch bằng súng hỏa mai, sau đó tấn công bằng vũ khí cận chiến. Quân đội Triều Tiên thường tiến về phía trước thành một khối đông đảo mà ch