✨Lịch sử quân sự Nhật Bản
Lịch sử quân sự Nhật Bản mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới khi phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Rồi lên đến cực điểm trong hai cuộc thế chiến và cuối cùng kết thúc với sự kiện Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ 2. Kể từ đó, hiến pháp Nhật Bản đã ngăn cấm việc sử dụng lực lượng quân sự để tiến hành chiến tranh với bất kỳ quốc gia nào khác.
Ngoại trừ tính từ lúc quân Đồng Minh chiếm đóng Nhật Bản sau Thế chiến II, theo các tài liệu lịch sử ghi nhận thì đảo quốc Nhật Bản chưa bao giờ bị một thế lực ngoại xâm nào xâm chiếm thành công hoàn toàn.
Tiền sử
thumb|right| Bản sao áo giáp gỗ [[Yayoi. Bảo tàng lịch sử quốc gia Nhật Bản.]]
Theo nghiên cứu của giới khảo cổ học gần đây thì những cư dân ban đầu tại Nhật Bản đã biết sử dụng và chế tạo những công cụ bằng đá như mũi dao, mảnh lưỡi gươm, những cái nạo, lưỡi dao và rìu thông qua những di vật để lại trong những hang hốc con người ở và những bộ xương người được đào lên cho thấy vết tích của một cuộc chiến tranh sơ khai giữa các bộ tộc, bộ lạc khác nhau ở quần đảo Nhật Bản. Một số nhà lý luận tin rằng trong khoảng thời gian ngắn sau thời kỳ Yayoi ngựa được một số nhóm dân cư mang từ bán đảo Triều Tiên sang miền nam đảo Kyushu, sau đó dần dần lan rộng ra đến phía bắc đảo Honshu, Ngựa cưỡi và công cụ bằng sắt lần đầu tiên được người Triều Tiên truyền bá và giới thiệu tại đảo quốc này.
Thời kỳ Jomon (10,000 – 300 TCN)
Người Jōmon là những người định cư đầu tiên của quần đảo Nhật Bản. Thời kỳ Jōmon là khoảng thời gian ở thời tiền sử Nhật Bản giữa 14.000 - 1000 trước công nguyên trong thời gian Nhật Bản sống trong một nền văn hóa săn bắt và hái lượm, đạt đến một mức độ định canh và phức tạp văn hóa đáng kể. Cái tên "đánh dấu dây" lần đầu tiên được áp dụng bởi học giả người Mỹ Edward S. Morse, người đã phát hiện ra mảnh vỡ của đồ gốm vào năm 1877 và sau đó được dịch sang tiếng Nhật là jōmon . Phong cách gốm đặc trưng của các giai đoạn đầu tiên của văn hóa Jōmon được trang trí bằng cách ấn các dây vào bề mặt đất sét ướt và thường được chấp nhận là một trong những lâu đời nhất ở Đông Á và thế giới.
Vào cuối thời kỳ Jomon (khoảng 300 TCN) đã xuất hiện làng mạc và thị trấn được bao quanh bởi tường thành và các hàng rào bằng gỗ do bạo lực gia tăng trong hoặc giữa các cộng đồng dân cư, đôi khi có loại đường hào khô ráo và đường hào chứa nước xung quanh làng mở ra một loại hình thức thiết kế mới nhằm ưu tiên cho việc phòng thủ với các bộ tộc và cư dân thù địch. Một số thi thể đã được khai quật và tìm thấy những chấn thương mũi tên ở đầu và các bộ phận khác. Cư dân Nhật Bản thời kỳ này đã biết sử dụng các chủng loại vũ khí đa dạng trong các cuộc chiến đấu như kiếm, dây quăng đá, giáo, lao, cung và tên.
Thời kỳ Yayoi (300 TCN – 250)
Khoảng đầu thế kỷ thứ 3 TCN, hàng hóa bằng đồng và kỹ thuật chế tạo đồng được du nhập từ lục địa Châu Á vào Nhật Bản, Công cụ và vũ khí bằng sắt cũng như ngựa được giới thiệu vào Nhật Bản vào gần cuối thời kỳ này và đầu thời kỳ Yamato. Giới khảo cổ học phát hiện thấy vũ khí bằng đồng và sắt không được sử dụng cho mục tiêu chiến tranh mãi cho đến sau này, đặc biệt là vào đầu thời kỳ Yamato, vũ khí kim loại được tìm thấy từ phần còn lại dưới các chứng tích đào được lại không thích hợp để làm vũ khí. Việc chuyển đổi từ thời Jomon sang Yayoi, và sau đó đến thời kỳ Yamato, đánh dấu một tiến trình thay đổi bằng các cuộc chiến tranh bạo lực nhằm đẩy những người bản địa nhanh chóng rời đi để rồi được những kẻ xâm lược và công nghệ quân sự tối tân của họ thay thế dần.
Khoảng thời gian này, theo ghi chép của các tài liệu lịch sử thì bắt đầu từ thời nhà Hán lần đầu tiên có nhắc đến sự tồn tại của vương quốc Oa (hay Wa trong tiếng Nhật), lúc bấy giờ người Nhật sống không thành một quốc gia thống nhất như Trung Quốc mà tách ra thành hơn một trăm cộng đồng nhỏ và sau thu gọn lại thành 30 tiểu quốc. Sau 70 – 80 năm, đảo quốc rơi vào cảnh rối loạn và chiến tranh liên miên Một tiểu quốc mà sử sách Trung Quốc quan tâm đến nhất là tiểu quốc được một nữ hoàng vừa là phù thủy có tên Pimiko (hay Himiko trong tiếng Nhật) thống trị. Nữ hoàng chính thức phái sứ thần tên là Nashomi sang cống nạp nô lệ và vải vóc và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc.
Cổ đại
phải|Mũ và áo giáp sắt, được trang trí bằng đồng mạ vàng vào [[thời kỳ Kofun thế kỷ 5 tại Bảo tàng Quốc gia Tokyo.]] Vào cuối thế kỷ thứ 4, nhà nước sơ khai Yamato hình thành và định cư tại đồng bằng Nara với sự kiểm soát số lượng lớn các khu vực xung quanh, những người cai trị Yamato còn thực hiện việc trao đổi đại diện ngoại giao với ba nước ở bán đảo Triều Tiên vào thời Tam Quốc Triều Tiên và các vương triều phong kiến ở Trung Quốc. Theo ghi chép trong bộ Nihon Shoki đã khẳng định nhà nước Yamato có thực lực rất mạnh đủ để gửi quân chống lại sự bành trướng của vương quốc Cao Câu Ly hùng mạnh đang thống trị bán đảo Triều Tiên vào thời điểm đó.
Triều đình Yamato còn có mối quan hệ chặt chẽ với vương quốc Bách Tế ở vùng Tây Nam bán đảo, thông qua sự giao lưu văn hóa với nhau mà Yamato đã du nhập Phật giáo và chữ viết Trung Quốc từ bán đảo Triều Tiên để từ đó dẫn tới sự biến đổi mãnh liệt của nền văn minh Nhật Bản. Khi Bách Tế cầu xin sự giúp đỡ quân sự của Yamato thì vương quốc này đã bị liên minh nhà Đường Trung Quốc và Tân La đánh bại tại trận Baekgang vào năm 663. Kết quả là người Nhật bị xua đuổi khỏi bán đảo Triều Tiên. Để bảo vệ quần đảo Nhật Bản, triều đình Yamato đã cho xây dựng một loạt căn cứ quân sự tại Dazaifu, Fukuoka tại đảo Kyushu.
Gần cuối thời kỳ Heian, các samurai đã trở thành một lực lượng chính trị mạnh mẽ, vì vậy Nhật Bản bắt đầu chuyển sang thời kỳ phong kiến.
Thời kỳ Yamato (250 – 710)
Nhật Bản cổ đại có mối quan hệ chặt chẽ với Liên minh Gaya và vương quốc Bách Tế ở bán đảo Triều Tiên. Liên minh Gaya cũng tiến hành trao đổi và buôn bán hàng hóa với số lượng áo giáp sắt và vũ khí dồi dào sang Oa Quốc.
Năm 552, vua của Bách Tế ở Triều Tiên đã cầu viện triều đình Yamato gửi quân giúp họ chống lại kẻ thù lân cận là vương quốc Tân La và đồng minh nhà Đường ở Trung Quốc. Nhà vua này có gửi đến triều đình Yamato một tượng Phật bằng đồng và vàng cùng một số kinh điển Phật giáo và một bức thư ca ngợi Phật giáo. Những món quà này đã gây ra sự chuyển biến sâu sắc về tôn giáo và mối quan tâm mạnh mẽ của Nhật Bản về Phật giáo.
Trận Baekgang (白 村 江, Bạch Tôn Giang) diễn ra vào năm 663, gần kết thúc của thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên. Theo tài liệu Sử ký Nhật Bản cho biết Yamato đã gửi 32.000 quân và 1.000 tàu chiến để hỗ trợ Bách Tế chống lại liên minh quân sự Tân La-Đường. Tuy nhiên, hạm đội Tân La-Đường đã chặn lại và đánh bại hạm đội tàu chiến này cùng lúc. Bách Tế đứng trước nguy cơ thiếu viện trợ và bị lực lượng Tân La và nhà Đường bao vây trên đất liền, đã bị tiêu diệt. Một nước Tân La thù địch tiến hành ngăn cản Nhật Bản có thêm bất kỳ sự liên hệ có ý nghĩa nào với bán đảo Triều Tiên mãi cho đến sau này. Người Nhật liền sau đó chuyển mối quan hệ ngoại giao và thông thương trực tiếp sang Trung Quốc.
Thời kỳ Nara (710 -784)
Thời kỳ Nara chính là sự khởi đầu của văn hóa và nền văn minh Nhật Bản. Trong giai đoạn này, cũng như nhiều dân tộc khác ở Á Đông, người Nhật chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa Trung Hoa. Nhật Bản lần đầu tiên hình thành và phát triển Phật giáo, hệ thống chữ viết Trung Quốc, và lễ trà. Các tiểu quốc xung quanh được thống nhất thành một nhà nước trung ương tập quyền hùng cường, bắt đầu xuất hiện nền tảng cơ bản của hệ thống phong kiến.
Trong khi phần lớn kỷ luật, vũ khí, áo giáp, và kỹ thuật của các samurai chưa thực sự phát triển nhưng các chiến binh phong kiến Nhật Bản đã sớm hình thành bao gồm các đơn vị quân sự như cung thủ, kiếm sĩ, và lính cầm thương, đa số vũ khí và trang thiết bị đều mang đậm dấu ấn của Trung Quốc.
Thời kỳ Nara chứng kiến việc bổ nhiệm Sei-i Tai - shōgun đầu tiên, Ōtomo no Otomaro bởi Thiên hoàng vào năm 794 sau Công nguyên. Shōgun là nhà độc tài quân sự của Nhật Bản với quyền lực gần như tuyệt đối trên các lãnh thổ thông qua quân đội. Otomaro được tuyên bố là "Sei-i Taishōgun" có nghĩa là "Chinh di Đại tướng quân". Thiên hoàng Kanmu đã trao danh hiệu Sei-i Tai-shōgun thứ hai cho Sakanoue no Tamuramaro vì đã khuất phục Emishi ở phía bắc Honshu.
Thời kỳ Heian (794 – 1185)
Quân sự Nhật Bản vào thời kỳ Heian, chủ yếu bao gồm các cuộc xung đột và những trận đánh giữa các gia tộc samurai đầy quyền lực chính trị và có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt là các cuộc giao chiến nhằm giành quyền thừa kế ngôi vị Thiên hoàng.
Các Thiên Hoàng và triều đình luôn phải đấu tranh chống lại sự kiểm soát chuyên quyền của gia tộc Fujiwara, mà hầu như chỉ độc quyền giữ chức vụ nhiếp chính (Sesshō và Kampaku). Việc cai quản chính quyền bằng quan nhiếp chính trở thành luật lệ. Triều đình mất thực quyền kiểm soát đất nước, chỉ còn nắm vai trò đại diện. Phúc lợi công cộng bị coi nhẹ. Người đứng đầu các tỉnh trở nên tham nhũng và lười nhác. Chủ nhân của các khu trang ấp (shoen) thành lập các nhóm võ sĩ để tự vệ, tạo ra sự mở đầu của hệ thống samurai (võ sĩ, cận vệ có vũ trang) và sự xuất hiện của lực lượng tăng binh. Các cuộc xung đột phong kiến về đất đai, chính trị, quyền lực, và ảnh hưởng cuối cùng lên tới đỉnh điểm trong chiến tranh Genpei giữa gia tộc Taira và Minamoto, cùng một số lượng lớn các gia tộc nhỏ hơn liên minh với bên này hoặc bên kia. Sự kết thúc của Chiến tranh Genpei đánh dấu chấm dứt thời kỳ Heian và bắt đầu thời kỳ Kamakura.
Trong thời gian này, samurai vẫn còn ở dạng sơ khai, chủ yếu ban đầu các samurai bắt nguồn từ các kỵ binh, bộ binh và cung binh ở Nhật vào thế kỷ thứ 6, trước khi hình thành một tầng lớp kiếm sĩ mới như sau này. Gần như tất cả các trận giao chiến trong thời kỳ Heian, trước khi giao chiến giữa hai bên, cung thủ sẽ bắn một loạt tên được tẩm lửa vào quân đối phương, sau đó bộ binh xông lên phía trước với vũ khí cơ bản là kiếm và dao găm, tiến hành đánh giáp lá cà với quân đối phương.
Các cuộc xung đột thế kỷ 12, đặc biệt là cuộc chiến tranh Genpei, và sự kiện thiết lập Mạc phủ Kamakura sau đó, đánh dấu sự nổi lên của tầng lớp quý tộc samurai ở triều đình (公家, Kuge, Công Gia). chế độ Mạc phủ, về cơ bản là chính phủ quân sự, thống trị nền chính trị Nhật Bản trong gần bảy trăm năm (1185-1868), phá vỡ quyền lực của Hoàng đế và của triều đình.
Quân sự nói chung vào thời kỳ này cũng đánh dấu một sự thay đổi quan trọng từ một nhà nước được thống nhất trong hòa bình tương đối chống lại các mối đe dọa bên ngoài, không còn sợ hãi các thế lực ngoại xâm vào xâm chiếm và thay vào đó tập trung vào việc phân chia nội bộ và các cuộc đụng độ, xung đột và mâu thuẫn nội bộ giữa các phe phái xã hội. Ngoại trừ những cuộc xâm lược của quân Mông Cổ của thế kỷ 13, Nhật Bản không còn phải lo đối mặt với mối đe dọa đáng kể từ bên ngoài cho đến khi có sự xuất hiện của người Châu Âu vào thế kỷ 16. Như vậy, lịch sử quân sự trước hiện đại của Nhật Bản chủ yếu được xác định không phải bởi cuộc chiến tranh với các quốc gia khác, mà thường chủ yếu là do các cuộc xung đột nội bộ và tranh chấp quyền lực trong triều đình.
Trung cổ
thumb|[[Áo giáp Nhật Bản|Áo giáp Samurai (kozane dou (dō) gusoku) ]]
Giai đoạn này được đánh dấu bởi sự chuyển hướng từ các trận chiến được thực hiện trên lưng ngựa, chuyển sang một loạt những cuộc xung đột với quy mô lớn giữa các gia tộc nhằm giành lấy quyền kiểm soát Nhật Bản. Trong thời kỳ Kamakura, Nhật Bản đẩy lui thành công cuộc xâm lược của quân Mông Cổ và bắt đầu thay đổi từ quân tình nguyện sang quân đội nhập ngũ với cốt lõi là samurai đóng vai trò như là một lực lượng ưu tú đồng thời còn chỉ huy quân đội. Sau gần năm mươi năm xung đột gay gắt nhằm giành quyền kiểm soát ngôi vị hoàng đế, thời kỳ Muromachi dưới thời Mạc phủ Ashikaga là một giai đoạn hòa bình ngắn ngủi trước khi hệ thống quản lý truyền thống của chính quyền thuộc triều đình sụp đổ. Thống đốc tỉnh và các quan chức khác thuộc chính phủ Hoàng gia chuyển đổi thành một tầng lớp daimyō mới (lãnh chúa phong kiến), đưa quần đảo Nhật Bản vào tình trạng chia rẽ, mất ổn định và chiến tranh liên miên giữa các gia tộc và lãnh chúa phong kiến mới kéo dài suốt 150 năm tiếp theo.
Thời kỳ Kamakura (1185 – 1333)
Trước khi thành lập Mạc phủ Kamakura, quyền lực dân sự ở Nhật Bản chủ yếu được nắm giữ bởi các Thiên hoàng cầm quyền và nhiếp chính của họ. Các nhiếp chính thường được bổ nhiệm từ hàng ngũ quan lại của triều đình và các gia tộc quý tộc đã chiến đấu ở đó. Các vấn đề quân sự đã được xử lý dưới sự bảo trợ của chính quyền dân sự. Sau khi khuất phục gia tộc Taira thù địch, gia tộc Minamoto chính thức thành lập Mạc phủ Kamakura vào năm 1185, mang lại một thời kỳ hòa bình yên ổn sau gần một thế kỷ chiến tranh và loạn lạc. Các trận chiến trong thời kỳ này chủ yếu là các cuộc chiến đàn áp các cuộc nổi loạn của Minamoto. Gia đình vợ của Yoritomo, nhà Hōjō, nắm quyền lực từ các shougun nhà Kamakura. Khi con trai và người thừa kế của Yoritomo bị ám sát, chính shougun đã trở thành một chức vụ cha truyền con nối. Sức mạnh thực sự thuộc về các nhiếp chính Hōjō. Mạc phủ Kamakura kéo dài gần 150 năm, từ 1192 đến 1333. Cuộc xâm lược của người Mông Cổ ở Nhật Bản (1274 và 1281) là những cuộc chiến quan trọng nhất của thời kỳ Kamakura và xác định các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản.
Vị trí từ xa của Nhật Bản làm cho nó an toàn chống lại những kẻ xâm lược từ lục địa châu Á. Quần đảo Nhật Bản được bao quanh bởi những vùng biển rộng lớn và có địa hình đồi núi hiểm trở với những con sông dốc. Kyushu gần điểm cực nam của bán đảo Triều Tiên với khoảng cách . Khoảng cách đó gần gấp 6 lần so với Anh đến Pháp . Trong suốt lịch sử, Nhật Bản không bao giờ bị xâm chiếm hoàn toàn và cũng không bị thực dân xâm chiếm. Nhật Bản chỉ đầu hàng một lần sau Thế chiến II.
, được công nhận là thợ rèn vĩ đại nhất của Nhật Bản. Ông đã tạo ra những thanh kiếm và dao găm tốt nhất (được gọi là tachi và tantō), trong truyền thống Soshu .
Cuộc xâm lược của quân Mông Cổ lần thứ nhất (1274)
[[Samurai Takezaki Suenaga chạm trán quân Nguyên-Mông trong chiến dịch xâm lược Nhật Bản.Mōko Shūrai Ekotoba (蒙古襲来絵詞), circa 1293.]]
Vào thời gian này, người Mông Cổ đã thống nhất hoàn toàn Trung Quốc, thủ lĩnh Mông Cổ Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng đế, thành lập nhà Nguyên, đóng đô tại Bắc Kinh. Sau đó, họ đã cố gắng xâm chiếm Nhật Bản hai lần. Đầu tháng 10 năm 1274, trận Bun'ei bắt đầu với một lực lượng kết hợp giữa quân Mông Cổ và quân Triều Tiên. Họ đến trên tàu và chiếm giữ các đảo Tsushima, đảo Iki, đảo Hirato, Taka và Nokono của Nhật Bản. Người Mông Cổ tàn sát cư dân Tsushima và khoảng 1000 lính Nhật bị giết trên đảo Iki. Khi người Mông Cổ đến lục địa Kyushu của Nhật Bản, họ đã chạm trán với quân đội Nhật Bản thực sự đầu tiên. Trong trận Akasaka, người Nhật đã giành chiến thắng với một cuộc tấn công bất ngờ của lực lượng Kikuchi Takefusa. Chiến thắng thứ hai là tại Trận Torikai-Gata, nơi các samurai của Takezaki Suenaga và Shiraishi Michiyasu giết chết 3.500 người Mông Cổ. Quân đội Mông Cổ và Hong Dagu rút về tàu của họ về phía nhà Nguyên. Quân đội Nhật Bản đã tiến hành các cuộc tấn công ban đêm và giết chết càng nhiều binh sĩ càng tốt. Vào đêm 19 tháng 10, một cơn bão đã khiến một phần ba số tàu trở về của họ bị chìm và nhiều binh sĩ Mông Cổ bị chết đuối. Cơn bão này được gọi là Kamikaze có nghĩa là 'Thần Phong'.
Cuộc xâm lược của quân Mông Cổ lần thứ hai (1281)
Mạc phủ Kamakura đã lường trước một cuộc xâm lược thứ hai nên họ đã xây dựng các bức tường và pháo đài dọc theo bờ biển và tập hợp lực lượng để bảo vệ nó. Cuộc xâm lược của người Mông Cổ lần thứ hai là cuộc xâm lược hải quân lớn nhất trong lịch sử cho đến D-Day. Vào mùa xuân năm 1281, Hốt Tất Liệt đã gửi hai lực lượng riêng biệt. Một hạm đội 900 tàu chứa 40.000 quân Nguyên được gửi đến từ Masan, Hàn Quốc, trong khi một đội quân thậm chí còn lớn hơn 100.000 từ miền nam Trung Quốc trong 3.500 tàu. Người Mông Cổ đã lên kế hoạch cho một cuộc tấn công phối hợp áp đảo của các hạm đội nhà Nguyên. Hạm đội quân Nguyên đã bị trì hoãn do khó khăn trong việc cung cấp và điều khiển một số lượng lớn tàu thuyền.
Trang thiết bị, chiến thuật, và quan điểm quân sự của samurai và đối thủ Mông Cổ của họ khác nhau rất nhiều, và trong khi cả hai cuộc xâm lược thất bại thảm hại, ảnh hưởng và phát triển của họ đã thay đổi đáng kể cách thức tiến hành chiến tranh của các samurai. samurai vẫn gắn liền với những ý tưởng chiến đấu duy nhất, đó là trận chiến danh dự giữa cá nhân các chiến binh, và các yếu tố nghi lễ nhất định của trận chiến, chẳng hạn như một loạt cung thủ sẽ trao đổi tư cách đạo đức trước khi tiến hành cuộc chiến tay đối tay. Người Mông Cổ, tất nhiên, không biết gì về tục lệ của người Nhật, nhưng chiến thuật tấn công của họ có phần hữu hiệu hơn đối phương. Họ không lựa chọn tiến hành trận đấu danh dự giữa các cá nhân thường diễn ra phổ biến ở Nhật Bản lúc bấy giờ, mà thường tấn công trên lưng ngựa, với các loại súng khác nhau và cung Mông Cổ nổi tiếng bấy giờ, đột kích dữ dội vào hàng ngũ kẻ thù, mặc sức chém giết mà không cần quan tâm đến quan niệm về lễ nghi theo kiểu Nhật. Mặc dù kiểu cưỡi ngựa bắn cung và chiến đấu đóng vai trò chính yếu trong các cuộc chiến ở Nhật Bản cũng như tại thời điểm này, quân Mông Cổ ngày nay vẫn nổi tiếng về lòng can đảm và sức chiến đấu mạnh của kỵ binh và kỵ binh bắn cung.
Chiến thuật, thái độ và vũ khí của samurai cũng một phần bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những kinh nghiệm, và cách thức tiến hành chiến tranh của người Mông Cổ. Trong giai đoạn này người Nhật đã bắt đầu chuyển sang sử dụng vũ khí dài, tương tự như đại đao, gọi là naginata (trường đao) và dùng bộ binh thay vì kỵ mã để chiến đấu.
Kusunoki Masashige
thumb|Tượng [[Kusunoki Masashige]]
Một trong những samurai vĩ đại nhất là Kusunoki Masashige. Anh ta sống trong thời kỳ Kamakura và đại diện cho lý tưởng về lòng trung thành của samurai. Kusunoki đã chiến đấu chống lại Mạc phủ Kamakura trong Cuộc chiến Genkō (1331-1333) để khôi phục quyền lực cho Thiên hoàng Go-Daigo. Kusunoki cũng là một nhà chiến thuật và chiến lược gia xuất sắc. Sự bảo vệ của hai pháo đài trung thành chủ chốt tại Akasaka, Cuộc bao vây Akasaka, và Chihaya, Cuộc bao vây của Chihaya, đã giúp Thiên hoàng Go-Daigo để nhanh chóng lấy lại quyền lực. Năm 1333, Go-Daigo đã thưởng cho Kusunoki hai tỉnh Settsu và Kawachi. Chính phủ Meiji truy phong cho Kusunoki tước Nhất đẳng công vào năm 1880. Kusunoki "trong lịch sử của đất nước mình như là một hình mẫu lý tưởng của một chiến binh với đầy đủ các phẩm chất cá nhân và phẩm chất quân nhân cao."
Thời kỳ Muromachi (1336 – 1467)
Vào năm 1331, Thiên hoàng Go-Daigo phát động một cuộc nổi dậy mà sử sách thường gọi là chiến tranh Genko nhằm chống lại Mạc phủ đương thời. Sau một thời gian ngắn dưới sự cai trị thực sự của triều đình, năm 1336, Mạc phủ Ashikaga được thành lập, và một loạt các cuộc xung đột giữa Thiên hoàng và Mạc phủ cùng các gia tộc ủng hộ khác bắt đầu biến thành cuộc chiến tranh Nam Bắc triều (南北朝時代 | Nanbokuchō) kéo dài suốt hơn nửa thế kỷ. Dù thành công trong nỗ lực chống quân Nguyên Mông giai đoạn trước, nhưng cuộc chiến với đối phương không cân sức đến từ lục địa đã đẩy đất nước tới những khó khăn và phân rã sau này, khi phải giải quyết những vấn đề của giai đoạn hậu chiến. Lòng dân ly tán, triều đình phân liệt. Bắc triều do Ashikaga Takauji thành lập ở Kyoto. Nam triều do Thiên hoàng Go-Daigo cai trị đầu tiên ở Yoshino (Nara). Giữa hai triều đình liên tục nổ ra những cuộc chiến nhằm duy trì và củng cố quyền lực, về sau Nam triều thất bại.
Trong giai đoạn này, các trận chiến lớn với số quân đông hơn, và ít nghi thức hơn. Mặc dù các trận giao chiến lẻ tẻ và các yếu tố khác của nghi lễ và chiến đấu danh giá vẫn còn tồn tại, tổ chức chiến lược và chiến thuật dưới quyền của các chỉ huy quân sự bắt đầu xuất hiện, cùng với đội hình tổ chức sâu rộng, lớn và phân chia trong quân đội. Kỹ thuật rèn kiếm bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ này lưỡi dao, linh hoạt nhưng rất cứng và sắc nét; thanh katana, và vô số vũ khí tương tự hoặc liên quan đến lưỡi kiếm, xuất hiện vào thời gian này và sẽ thống trị vũ khí Nhật Bản mãi cho đến tận giữa thế kỷ 20. Kết quả là sự chuyển đổi của samurai từ cung thủ sang kiếm sỹ.
Thời kỳ Sengoku (1467 – 1603)
thumb|[[Lâu đài Himeji]] thumb|Sự miêu tả về trận chiến cá nhân huyền thoại giữa [[Uesugi Kenshin|Kenshin và Shingen trong Trận chiến Kawanakajima lần thứ tư (1561)]]
Sau hơn một thế kỷ kể từ khi chấm dứt chiến tranh Nam Bắc triều, hòa bình được lập lại dưới sự kiểm soát tương đối yếu ớt của Mạc phủ Ashikaga giờ đây đang có nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh Ōnin. Trong gần mười năm chiến tranh kéo dài đã biến thủ đô Kyoto thành bãi chiến trường và nhiều thành phố khác bị tàn phá nặng nề.
Quyền lực của Mạc phủ và triều đình Thiên hoàng dần suy yếu, tạo cơ hội cho các thủ hộ (shugo) và đại danh (daimyō) nổi lên, các tổ chức tôn giáo như Ikkō-ikki cùng các lãnh chúa, gia tộc lớn, nhỏ trên toàn quốc bắt đầu lao vào một cuộc chiến đẫm máu, thôn tính lẫn nhau nhằm mở rộng lãnh thổ kéo dài suốt 150 năm trong lịch sử Nhật Bản được sử sách gọi là thời kỳ Chiến Quốc (戦国; Sengoku) sau thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc Cổ Đại. Có khoảng hơn một trăm lãnh thổ dưới sự cai trị của các gia tộc rơi vào vòng xoáy của chiến tranh và sát phạt đẫm máu, lần đầu tiên có sự xuất hiện của súng hỏa mai và người châu Âu trên quần đảo Nhật Bản.
Rất nhiều sự kiện quan trọng và sự phát triển quan trong về lĩnh vực quân sự đã diễn ra trong giai đoạn này, từ những tiến bộ trong việc thiết kế lâu đài cho tới sự chiến thuật đột kích của kỵ binh, các chiến lược và chiến dịch có quy mô lớn ngày càng phát triển xa hơn nữa, với sự xuất hiện của những vũ khí mới đã thay đổi đáng kể cách thức tiến hành chiến tranh và cách chiến đấu của quân đội.
Thành phần quân đội thay đổi dần cùng với những chiến lược mới ra đời, đặc biện là sự xuất hiện của lính bộ binh đi chân đất ashigaru, được trang bị giáo dài (yari) đóng vai trò phối hợp tác chiến cùng với kỵ binh, cung thủ, và pháo thủ tạo thành một kiểu chiến thuật mới nâng sức chiến đấu của quân đội lên cao và có khả năng gây sát thương nặng nề cho đối phương. Chiến thuật vây hãm và kỹ thuật chế tạo vũ khí càng được cải thiện. Các trận hải chiến có phần thay đổi bằng cách sử dụng thuyền để di chuyển quân sĩ vào bên trong tầm bắn của cung tên hoặc Arquebus, sau đó khi đã áp sát thuyền kẻ địch thì tiến hành chiến đấu cận chiến giữa hai bên tương tự như các trận hải chiến ở châu Âu thời Trung Cổ.
Cuộc cạnh tranh lâu dài giữa daimyo Takeda Shingen của tỉnh Kai và Uesugi Kenshin của tỉnh Echigo là huyền thoại. Trận Kawanakajima giữa quân đội của Shingen và Kenshin (1553–1564) là một trong những câu chuyện đáng trân trọng nhất trong lịch sử quân sự Nhật Bản và là hình ảnh thu nhỏ của sự hào hiệp và lãng mạn của Nhật Bản. Chúng được đề cập trong văn học sử thi, in mộc bản và phim ảnh.
Trong cuộc xung đột đầu tiên giữa Shingen và Kenshin họ đã rất thận trọng, chỉ cam kết với những cuộc giao tranh thiếu quyết đoán. Có tổng cộng năm trận đấu trong Kawanakajima. Chỉ có trận chiến thứ tư là trận chiến quan trọng, toàn diện giữa hai người.Trong trận chiến thứ tư, lực lượng của Kenshin đã quét sạch đường đi qua quân Takeda và Kenshin giao chiến với Shingen trong một trận chiến. Kenshin tấn công Shingen bằng thanh kiếm của mình trong khi Shingen phòng thủ với quạt chiến Nhật Bản (tessen). Cả hai lãnh chúa đều mất nhiều người trong cuộc chiến này và đặc biệt là Shingen mất hai tướng chính của mình, Yamamoto Kansuke và em trai của ông Takeda Nobushige. Sau cái chết của Shingen, Tokugawa Ieyasu đã vay mượn rất nhiều từ những đổi mới của chính phủ và quân đội của Shingen sau khi ông lãnh đạo tỉnh Kai trong thời gian Toyotomi Hideyoshi lên nắm quyền. Nhiều thiết kế trong số này đã được sử dụng bởi Mạc phủ Tokugawa.
Gia tộc Hậu Hōjō, cai trị xung quanh khu vực đồng bằng Kantō, là những người đầu tiên thiết lập mạng lưới gồm các lâu đài vệ tinh, và việc phối hợp các mặt phòng thủ và tấn công của lâu đài cùng sự yểm trợ của súng thần công. Gia tộc Takeda, dưới quyền lãnh đạo của Takeda Shingen, đã phát triển kiểu chiến thuật đội hình kỵ binh đột kích, tỏ ra khá hiệu quả khi sử dụng để tấn công bộ binh, bọc hậu, đánh dọc sườn và phá tan đội hình cùng uy hiếp tinh thần của quân đội đối phương mặc dù cuộc tranh luận vẫn tiếp tục đến ngày nay và sự phù hợp của thuật ngữ này khi so sánh chúng với kiểu đột kích của kỵ binh phương Tây. Thời kỳ này có vô số sự phát triển chiến lược và chiến thuật mới, cùng một số trận vây hãm trận lớn nhất và kéo dài nhất trong lịch sử thế giới cận đại.
Thời kỳ Azuchi-Momoyama (1568 – 1600)
Áo giáp [[Nanban của quân miền Tây vào thế kỷ 16.]] Thời kỳ này được tên cho một lâu đài có tầm mức quan trọng, đánh dấu sự ra đời của súng cầm tay, sau khi tiếp xúc với người Bồ Đào Nha, thứ vũ khí mới này đã làm thay đổi cả chiến thuật và chiến lược, khiến cho các trận giao chiến ngày càng ác liệt và đẫm máu, không còn dựa vào chiến đấu cá nhân và những ảnh hưởng của các khái niệm về lòng dũng cảm và danh dự cá nhân.
Vào năm 1543, arquebus được một nhóm người Bồ Đào Nha lưu lạc trên một chiếc thuyền Trung Quốc bị trôi dạt vào đảo Tanegashima ở phần cực nam đảo Kyushu giới thiệu và được sử dụng lần đầu tiên ở Nhật Bản, mặc dù việc giới thiệu loại vũ khí mới này của họ tỏ ra không có hiệu ứng gì đặc biệt gây ấn tượng với người Nhật trong nhiều thập kỷ, mãi cho đến thập niên 1560, hàng ngàn loại vũ khí có sử dụng thuốc súng mới được các lãnh chúa và các gia tộc lớn nhỏ sử dụng phổ biến tại Nhật Bản, súng ống bắt đầu có tác dụng và ảnh hưởng lâu dài về mặt chiến thuật và chiến lược trong các trận chiến tại Nhật Bản, cả cách bố trí quân đội, và kiến trúc lâu đài.
Trận Nagashino diễn ra vào năm 1575, khoảng 3000 lính cầm súng Arquebus do Oda Nobunaga chỉ huy ra lệnh tấn công hàng ngũ kỵ binh samurai của đối phương đang tiến gần vào trận địa đã bị đốn ngã hàng loạt và bị tiêu diệt hoàn toàn với thiệt hại khá nặng, là một trong những ví dụ chính chứng tỏ hiệu quả của loại vũ khí mới này. Tuy nhiên súng Arquebus có một số nhược điểm như độ chính xác không cao và thời gian nạp đạn quá lâu, lính cầm súng Arquebus hoặc teppō (鉄 炮) trong tiếng Nhật, không phải lúc nào cũng chiếm ưu thế về hỏa lực và giành chiến thắng tuyệt đối trong các trận chiến, Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi, và một số tướng lãnh khác, đã phát triển nhiều kiểu chiến thuật mới cho phù với súng Arquebus và có thể tận dụng tối đa lợi thế lớn nhất của nó trong khi giao tranh với quân thù. Tại Nagashino, Nobunaga re lệnh cho pháo thủ giấu đằng sau rào chắn bằng gỗ, có gắn gai lớn bằng gỗ để ngăn chặn kỵ binh, khi có hiệu lệnh nổi lên thì binh sĩ sẽ thay phiên nhau bắn một loạt đạn và nấp đằng tấm gỗ để nạp đạn lại và cứ thế tiếp tục quy trình này cho đến khi nào quân đội đối phương hoảng loạn và tan vỡ đội hình thì phát động toàn quân tổng tiến công.
Giống như ở châu Âu, thuốc súng hầu như không thể tác chiến được khi trời đổ mưa, súng sẽ bị ướt và hỏa lực suy yếu, có thể gây nguy hiểm trong một số trận đánh. Tuy nhiên một trong những lợi thế chính của thứ vũ khí mới này là chỉ cần mất vài năm huấn luyện là đã có thể tác chiến được, lúc đầu mới du nhập chỉ có tầng lớp samurai mới được phép sử dụng súng, về sau do chiến tranh ngày càng lan rộng ra toàn quốc, một số lãnh chúa đã bắt đầu trang bị hàng loạt cho lính bộ binh, ngay cả những người lính bộ binh không được huấn luyện thường xuyên cũng có khả năng sử dụng được súng, trên chiến trường thì các samurai bị cản trở bởi thanh kiếm và cung tên mà họ mang theo, thường giao chiến theo kiểu chiến thuật đội hình bộ binh hoặc kỵ binh, có nhiệm vụ xông lên tuyến đầu đầu và giữ vững đội hình toàn quân, trong khi đó các ashigaru thì cầm súng và được bố trí, sắp xếp ở tuyến sau có nhiệm vụ phối hợp tác chiến và hỗ trợ phòng thủ. Một số chiến binh hoặc tăng binh của các giáo phái Phật giáo, bắt đầu sản xuất vũ khí trong các xưởng đúc thường được sử dụng để làm chuông đồng cho các chùa, Theo cách này, Ikkō-ikki là một nhóm nhà sư và tín đồ cuồng tín tôn giáo, đã sử dụng súng vào việc phòng thủ Ishiyama Honganji một trong những thánh đường kiêm pháo đài được bảo vệ tốt nhất cả nước. Ikki và một số chiến binh thuộc các phe phái tôn giáo khác nắm giữ quyền lực chính trị và quân sự đáng kể, và họ đã chiến đấu ác liệt trong một số trận chiến nhằm chống lại các lãnh chúa đầy uy quyền và những gia tộc samurai hùng mạnh có ý định đàn áp họ.
Mặc dù mầm móng của thời Chiến Quốc đã bắt đầu nổi lên kể từ khi bùng nổ cuộc chiến tranh Onin vào năm 1467, chiến tranh dần phát triển lớn và xuất hiện thêm nhiều chiến thuật phức tạp hơn nữa, gần giữa và cuối thời Chiến Quốc, cục diện đã có sự thay đổi lớn, từ các cuộc sát phạt và thôn tính lẫn nhau giữa các lãnh chúa và gia tộc lớn khiến cho sự thống nhất ngày càng được hình thành, đầu tiên là Oda Nobunaga, sau đó Toyotomi Hideyoshi tiếp tục kế thừa, và cuối cùng là Tokugawa Ieyasu.
Khoảng năm 1592 đến 1598 Toyotomi Hideyoshi đã phát động một chiến dịch với quy mô lớn mà sử sách thường gọi là cuộc chiến tranh Nhật Bản-Triều Tiên, mục đích nhằm thôn tính bán đảo Triều Tiên, mở một con đường sang Trung Quốc lúc bấy giờ thuộc nhà Minh, sau khi vua Triều Tiên từ chối cho phép quân Nhật được hành quân qua nước này, Mặc dù quân đội Nhật Bản đã chiếm đóng gần như hầu hết lãnh thổ Triều Tiên, thậm chí tiến quân đến tận sông Áp Lục, nhưng về mặt thủy chiến thì lực lượng hải quân Nhật Bản lại bị Hải quân Joseon đánh bại. Ngoài ra, Trung Quốc còn gửi viện trợ quân sự và quyết định gửi quân sang phối hợp với quân Triều Tiên chống lại Nhật Bản. Sau khi Hideyoshi qua đời, năm 1598, Hội đồng Ngũ Nguyên lão ra lệnh cho đám tàn quân Nhật còn lại ở lại bán đảo Triều Tiên buộc phải rút lui toàn bộ về nước, chấm dứt chiến tranh.
Tokugawa Ieyasu, một trong những nhiếp chính trong hội đồng, nắm quyền kiểm soát hầu hết lực lượng quân sự của cựu lãnh đạo. Năm 1600 ông giành chiến thắng tại trận Sekigahara, sau ông đó ra sức củng cố sự cai trị và kiểm soát chặt chẽ các lãnh chúa và gia tộc quy thuận dưới quyền ông. Năm 1603, ông được nhận danh hiệu tướng quân, tuy về mặt danh nghĩa chỉ đứng sau Thiên hoàng nhưng trên thực tế ông đã trở thành một nhà cai trị toàn bộ nước Nhật Bản, đồng thời còn thiết lập Mạc phủ Tokugawa và những quy chế ràng buộc chư hầu đã chấm dứt thời đại Chiến Quốc và bắt đầu bước vào thời kỳ Edo. Mạc phủ Tokugawa là Mạc phủ cuối cùng cho đến khi Minh Trị Duy tân năm 1867.
Thời kỳ Edo (1603 – 1867)
Giai đoạn này tương đối ổn định và yên bình kéo dài suốt gần 300 năm, dưới sự thống trị của Mạc phủ Tokugawa. Đây là một nền hòa bình bị ép buộc, được duy trì thông qua một loạt các biện pháp làm suy yếu và khống chế các daimyo nhằm đảm bảo lòng trung thành của họ đối với Mạc phủ, đồng thời các tướng quân của dòng họ Tokugawa, sau khi tiêu diệt các đối thủ chống đối, đã thực hiện chính sách phi quân sự hóa xã hội bằng cách giới hạn việc sở hữu vũ khí, Mạc phủ còn ra lệnh hủy tất cả vũ khí, ngoại trừ các lâu đài trong những lãnh địa quyền quý là có quyền giữ lại. Ngoài ra các tướng quân Tokugawa cũng ngăn cấm người dân quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua chính sách "bế quan toả cảng", kiểm duyệt mọi sách vở nước ngoài nhất là những sách đề cập đến quân sự và tập trung nền ngoại thương của đất nước vào cảng Nagasaki xa xôi. Nền hòa bình dưới thời Tokugawa đã bị phá vỡ trong một khoảng thời gian ngắn trước khi bạo lực bùng nổ và những mâu thuẫn, xung đột với các phiên (han) ngày càng dâng cao trong những năm 1860, sau cùng các phiên dưới sự lãnh đạo của hai phiên chính là Satsuma và Chosu đã tiến hành cuộc chinh phạt và lật đổ Mạc phủ Tokugawa, dẫn đến công cuộc Minh Trị Duy Tân vào năm 1868 mãi mãi làm thay đổi toàn nước Nhật trong tương lai.
Trận vây hãm Osaka trong hai năm 1614-1615, do Toyotomi Hideyori, người kế thừa của Hideyoshi cùng với liên minh giữa các gia tộc và một số nhóm người thù địch phát động nhằm chống lại Mạc phủ Tokugawa. Đây thực sự là một trận chiến samurai với quy mô lớn, về mặt chiến thuật và chiến lược, cách thức tiến hành cuộc chiến bao vây kéo dài, và những nguyên nhân chính trị đằng sau nó, trận vây hãm Osaka được xem là cuộc xung đột cuối cùng của thời kỳ Chiến Quốc.
Bên ngoài trận vây hãm Osaka, và những cuộc xung đột cuối cùng trong những năm 1850 – 60, bạo lực trong thời Edo bị hạn chế chỉ còn lại những vụ giao tranh nhỏ trên đường phố, những cuộc nổi loạn của nông dân, và việc thi hành những hạn chế hàng hải, cấm đạo Thiên Chúa vào những năm 1630, 40. Sự truyền bá của đạo Thiên Chúa cùng với các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đến Nhật Bản với những thương nhân Trung Quốc và phương Tây ngày càng nhiều, được xem là mối đe dọa đến sự thống nhất và ổn định của nhà nước Mạc phủ Tokugawa. Với một số ngoại lệ rất đặc biệt, người nước ngoài đã bị nhà cầm quyền cấm vào các khu vực bên trong của quần đảo này, và các tín đồ Thiên Chúa giáo người Nhật bị khủng bố và ngược đãi cùng với nạn đói và những khó khăn về kinh tế vào cuối thời kỳ Edo bùng nổ một số cuộc bạo loạn và nổi dậy, lớn nhất và nổi tiếng nhất trong đó là cuộc nổi loạn Shimabara vào năm 1638.
Sau một thời gian dài hưởng thụ hòa bình, sự xuất hiện của những tàu chiến do Phó đề đốc Matthew Perry của Hải quân Hoa Kỳ đến Nhật Bản vào những năm đầu thập niên 1850, đề nghị Nhật Bản mở cửa thương mại với phương Tây sự kiện đã dẫn tới hàng loạt vụ khủng hoảng chính trị của chế độ Mạc phủ ngày càng suy yếu dần và dẫn tới sự sụp đổ vào năm 1868. Mặc dù cuối thập niên 1860, để cứu vãn tình hình khủng hoảng này, Mạc phủ cho thực thi hàng loạt cải cách phỏng theo khuôn mẫu phương Tây để xoa dịu dư luận và giải quyết xung đột, mâu thuẫn giữa các Phiên một cách hòa bình, thông qua kiến nghị chính trị và như thế, những năm xung quanh sự kiện này không phải là một cuộc cách mạng hoàn toàn không đổ máu. Sau khi chế độ Mạc phủ chính thức sụp đổ, Chiến tranh Boshin (戊辰 戦 争 Boshin Sensō) bùng nổ vào năm 1868-1869 giữa quân đội cùng những người còn trung thành với Tokugawa và lực lượng quân sự của một số Phiên ủng hộ danh nghĩa Thiên Hoàng để nắm lấy quyền lực và tiến tới thống nhất toàn quốc, mở ra một thời kỳ mới với những biến động của lịch sử quân sự Nhật Bản.
Hiện đại
Samurai của [[Phiên Satsuma, trong thời kỳ chiến tranh Boshin, năm 1867. chụp bởi Felice Beato]]
Kể từ chuyến thăm đầu tiên của Đô đốc Perry đến Vịnh Edo vào tháng 7 năm 1853, Nhật Bản thiếu sức mạnh công nghiệp và quân sự để ngăn chặn sự ép buộc của phương Tây với các hiệp ước bất bình đẳng đã lợi dụng Nhật Bản. Nhật Bản có các lực lượng quân sự lac hậu và phi tập trung. Các lãnh chúa phong kiến đã bị áp lực ký kết nhiều hiệp ước với người Mỹ được gọi là các Hiệp ước bất bình đẳng.
Sau đó vào năm 1853, sáu công sự trên đảo với nhiều cụm pháo được xây dựng tại Odaiba trong Vịnh Edo bởi Egawa Hidetatsu của Mạc phủ Tokugawa. Mục đích là để bảo vệ Edo khỏi một sự xâm lược khác của Mỹ. Sau đó, sự phát triển công nghiệp bắt đầu để chế tạo các khẩu pháo hiện đại. Một lò phản xạ được xây dựng bởi Egawa Hidetatsu ở Nirayama để đúc đại bác. Nó được hoàn thành vào năm 1857.
Nhật Bản đã quyết tâm tránh số phận của các quốc gia châu Á khác là thuộc địa của các cường quốc phương Tây. Người dân Nhật Bản và chính phủ với Thiên hoàng Minh Trị nhận ra rằng để giữ gìn nền độc lập của Nhật Bản, phải hiện đại hóa để trở thành một nước ngang bằng với các cường quốc thực dân phương Tây. Năm 1868, Tokugawa Yoshinobu đã từ chức chấm dứt triều đại Tokugawa và Mạc phủ cuối cùng. Minh Trị Duy tân đã khôi phục các khả năng thực tế và hệ thống chính trị dưới Thiên hoàng Minh Trị. Điều này gây ra sự thay đổi lớn trong cấu trúc chính trị và xã hội của Nhật Bản từ cuối Thời kỳ Edo đến đầu Thời kỳ Minh Trị. Nhật Bản bắt đầu "thu thập trí tuệ từ khắp nơi trên thế giới" và bắt tay vào một chương trình đầy tham vọng về cải cách quân sự, xã hội, chính trị và kinh tế. Nhật Bản nhanh chóng chuyển đổi trong một thế hệ từ một [cô lập chế độ phong kiến | xã hội phong kiến] thành một quốc gia có nền công nghiệp hiện đại và một cường quốc mới nổi.
Từ năm 1867, Nhật Bản yêu cầu nhiều phái bộ quân sự phương Tây khác nhau nhằm giúp Nhật Bản hiện đại hóa lực lượng vũ trang của mình. Phái bộ quân sự nước ngoài đầu tiên tại Nhật Bản được tổ chức bởi Pháp vào năm 1867.
Vào ngày 29 tháng 6 năm 1869, Thiên hoàng Minh Trị đã thành lập một đền thờ Thần đạo có tên là Tōkyō Shōkonsha ở Kudan, Tokyo (ngày nay là thành phố Chiyoda, Tokyo). Nó được thành lập sau chiến tranh Boshin (1868-1869) để tôn vinh những người đã chết cho Thiên hoàng. Nó được Thiên hoàng đổi tên thành Đền Yasukuni vào năm 1879 có nghĩa đen là "Bình định quốc gia". Thiên hoàng đã viết một bài thơ, tôi cam đoan với những người đã chiến đấu và hy sinh cho đất nước của bạn rằng tên của bạn sẽ tồn tại mãi mãi tại ngôi đền này ở Musashino. Đền Yasukuni tưởng niệm danh dự và thành tựu của hàng triệu đàn ông, phụ nữ, trẻ em và thú cưng đã chết để phục vụ Nhật Bản từ Chiến tranh Boshin đến Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954). Sau đó, ngôi đền sẽ bao gồm việc thờ cúng tất cả những người đã chết phục vụ trong các cuộc chiến liên quan đến Nhật Bản kể từ năm 1853 như thời Đại Chính và Chiêu Hòa.
Năm 1871, các chính trị gia Iwakura Tomomi và Ōkubo Toshimichi lãnh đạo tổ chức một đội quân quốc gia. Nó chỉ có 10.000 samurai mạnh mẽ. Ōkubo cũng là một samurai của Satsuma và ông là một trong ba Duy tân tam kiệt và là một trong những người sáng lập nên Nhật Bản hiện đại.
Năm 1873, chính phủ Hoàng gia đã yêu cầu Bộ trưởng Chiến tranh mới được bổ nhiệm Yamagata Aritomo (山縣 有朋, ngày 14 tháng 6 năm 1838 - ngày 1 tháng 2 năm 1922) để tổ chức một đội quân quốc gia cho Nhật Bản. Vì vậy, Yamagata đã thuyết phục chính phủ và ban hành luật nghĩa vụ quân sự bắt buộc vào năm 1873, thành lập Lục quân Đế quốc Nhật Bản mới. Luật nghĩa vụ quân sự cho nam giới thuộc mọi tầng lớp, trong thời gian 3 năm, với thêm 4 năm dự bị. Yamagata hiện đại hóa và lấy hình mẫu theo Quân đội Phổ. Công tước Yamagata Aritomo sinh ra trong một gia đình samurai đẳng cấp thấp ở Hagi. Ông là một nguyên soái trong Quân đội Hoàng gia Nhật Bản và hai lần là Thủ tướng Nhật Bản. Ông là một trong những kiến trúc sư chính của nền tảng quân sự và chính trị Nhật Bản thời kỳ cận đại. Yamagata Aritomo được coi là cha đẻ của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.
Trường đào tạo sĩ quan chính cho Lục quân Đế quốc Nhật Bản được thành lập là Heigakkō ở Kyōto vào năm 1868. Năm 1874, nó được đổi tên thành thành Học viện Lục quân Hoàng gia Nhật Bản (陸軍士官学校, Rikugun Shikan Gakkō) và chuyển đến Ichigaya, Tokyo. Học viện quân sự thứ hai được xây dựng bởi Phái bộ quân sự thứ hai của Pháp tại Nhật Bản (1872–80). Lễ khánh thành là vào năm 1875. Đây là một Học viện Quân sự quan trọng dành cho các sĩ quan Lục quân Nhật Bản. Nó nằm cùng nơi với Bộ Quốc phòng Nhật Bản hiện đại. Phái đoàn quân sự thứ hai của Pháp cũng giúp tổ chức lại Lục quân Đế quốc Nhật Bản và thiết lập dự thảo luật đầu tiên (tháng 1 năm 1873). Một số thành viên của phái bộ đã trở thành một số sinh viên phương Tây đầu tiên của võ thuật Nhật Bản trong lịch sử. Chẳng hạn như Étienne de Villaret và Joseph Kiehl là thành viên của võ đường Sakakibara Kenkichi và học Jikishinkage-ryu. Đại úy Jules Brunet, ban đầu là cố vấn pháo binh của chính quyền trung ương Nhật Bản, cuối cùng đã cầm vũ khí cùng với quân đội của Shōgun Tokugawa Yoshinobu chống lại quân đội Hoàng gia trong Chiến tranh Boshin.
Sự phân biệt giai cấp chủ yếu được loại bỏ trong quá trình hiện đại hóa để tạo ra dân chủ đại nghị. Samurai mất vị thế là tầng lớp duy nhất có đặc quyền quân sự. Tuy nhiên, trong thời Minh Trị, hầu hết các nhà lãnh đạo trong xã hội Nhật Bản (chính trị, kinh doanh và quân sự) đều là cựu samurai hoặc hậu duệ của samurai. Họ đã chia sẻ một tập hợp các giá trị và triển vọng hỗ trợ chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Do đó, tầng lớp quân sự bắt đầu với samurai vào năm 1192 sau Công nguyên tiếp tục cai trị Nhật Bản.
Hiến pháp Đế quốc Nhật Bản được ban hành vào ngày 29 tháng 11 năm 1890. Đó là một hình thức hỗn hợp giữa quân chủ lập hiến và quân chủ chuyên chế. Thiên hoàng Nhật Bản về mặt pháp lý là nhà lãnh đạo tối cao và Nội các là những người theo ông. Thủ tướng sẽ được bầu bởi một Hội đồng Cơ mật. Trong thực tế, Thiên hoàng là Nguyên thủ quốc gia nhưng Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ thực sự.
Chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895)
thumb| Bộ binh [[Lục quân Hoàng gia Nhật Bản bắn súng trường Murata (1894)]]
Chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1895) hay chiến tranh Thanh - Nhật là cuộc chiến nhằm chống lại các lực lượng quân sự nhà Thanh của Trung Quốc đóng quân ở bán đảo Triều Tiên, Mãn Châu, và duyên hải Trung Quốc. Đó là cuộc xung đột lớn đầu tiên giữa Nhật Bản và một thế lực quân sự ở nước ngoài trong thời hiện đại.
Cuộc xung đột chủ yếu là ảnh hưởng ở Triều Tiên. Sau hơn sáu tháng chiến đấu không ngừng nghỉ của lục quân và hải quân Nhật Bản và mất cảng Uy Hải Vệ, chính quyền nhà Thanh đã cầu hòa vào tháng 2 năm 1895.
Cuộc chiến đã chứng minh sự thất bại của các nỗ lực của nhà Thanh nhằm hiện đại hóa quân đội và chống lại các mối đe dọa đối với chủ quyền của nó, đặc biệt là khi so sánh với Minh Trị Duy tân thành công của Nhật Bản. Lần đầu tiên, sự thống trị khu vực ở Đông Á chuyển từ Trung Quốc sang Nhật Bản; Uy tín của nhà Thanh, cùng với truyền thống cổ điển ở Trung Quốc, đã chịu một tổn thất lớn. Với việc Triều Tiên không còn là một quốc gia phải triều cống của nhà Thanh đã gây ra một sự phản đối công khai chưa từng thấy. Xuyên suốt phần lớn lịch sử Triều Tiên là một quốc gia phải triều cống và chư hầu của nhiều triều đại Trung Quốc. Chiến thắng của Nhật Bản trong Chiến tranh Trung-Nhật đầu tiên đặt Triều Tiên hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Triều Tiên đã trở thành một quốc gia chư hầu của Nhật Bản.
Hiệp ước Shimonoseki (下 关 条约, Shimonoseki Jyoyaku) được ký kết giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã kết thúc chiến tranh. Thông qua hiệp ước này, Nhật Bản buộc Trung Quốc mở cửa thương mại quốc tế và nhượng lại phần phía nam tỉnh Liêu Ninh của Trung Quốc cũng như các hòn đảo của Đài Loan cho Nhật Bản. Trung Quốc buộc phải trả một khoản bồi thường chiến tranh là 200 triệu lượng vàng. Kết quả, Triều Tiên không còn là một chư hầu của Trung Quốc, nhưng rơi vào phạm vi ảnh hưởng của Nhật Bản. Tuy nhiên, nhiều lợi ích vật chất từ cuộc chiến này đã bị Nhật Bản đánh mất do Can thiệp ba cường quốc. Triều Tiên bị Nhật Bản sáp nhập hoàn toàn với Hiệp ước Nhật–Triều, 1910 được ký kết bởi Ye Wanyong, Thủ tướng Triều Tiên và Terauchi Masatake, người trở thành Toàn quyền Nhật Bản đầu tiên của Triều Tiên.
Nhật Bản xâm lược Đài Loan (1895)
Việc Nhật Bản chiếm đóng đảo Đài Loan đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ bên trong nội bộ chính phủ cùng những cuộc nổi loạn của cư dân hòn đảo này, và chỉ được hoàn thành sau một chiến dịch quân sự toàn diện đòi hỏi sự cam kết của Sư đoàn Vệ binh Đế quốc và hầu hết các sư đoàn 2 và 4 tỉnh. Chiến dịch bắt đầu vào cuối tháng 5 năm 1895 bằng cuộc đổ bộ của quân đội Nhật Bản tại Cơ Long, nằm trên bờ biển phía Bắc Đài Loan, và kết thúc vào tháng 10 năm 1895 với việc Nhật Bản chiếm đóng Đài Nam, thủ đô của Cộng hòa Đài Loan theo kiểu tự trị. Việc Nhật Bản đánh bại quân Trung Quốc và dân bản xứ ở Đài Loan tương đối dễ dàng nhưng các cuộc hành quân thường bị các thành phần du kích địa phương quấy rối. Người Nhật đáp trả lại bằng sự trả thù tàn bạo, và sự kháng cự rời rạc, lẻ tẻ của quân du kích chống lại sự chiếm đóng của người Nhật tại Đài Loan vẫn tiếp tục cho đến năm 1902 thì chấm dứt.
Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn
Liên minh Tám Cường quốc là một liên minh quân sự quốc tế được thành lập để đối phó với cuộc nổi loạn Nghĩa Hòa Đoàn ở Đế quốc Đại Thanh của Trung Quốc. Tám quốc gia là Đế quốc Nhật Bản, Đế quốc Nga, Đế quốc Anh, Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Đế quốc Đức, Vương quốc Ý và Đế quốc Áo-Hung. Vào mùa hè năm 1900, khi các quân đoàn quốc tế có thẩm quyền ở Bắc Kinh bị tấn công bởi phiến quân Nghĩa Hòa Đoàn được hỗ trợ bởi chính quyền nhà Thanh, liên minh đã phái các lực lượng vũ trang của họ, nhân danh "can thiệp nhân đạo", để bảo vệ công dân của quốc gia mình, cũng như một số Kitô hữu Trung Quốc đã trú ẩn trong các công sứ quán. Vụ việc kết thúc với một chiến thắng của liên minh và việc ký kết Nghị định thư Nghĩa Hòa Đoàn.
Chiến tranh Nhật – Nga (1904 – 1905)
thumb|right|Một trận chiến kỵ binh giữa quân đội Nhật Bản và Nga.
Sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, và sự sỉ nhục về việc buộc phải trả lại Bán đảo Liêu Đông cho Trung Quốc dưới áp lực của Nga ("Can thiệp ba cường quốc"), Nhật Bản bắt đầu xây dựng sức mạnh quân sự của mình để chuẩn bị cho các cuộc đối đầu tiếp theo. Nhật Bản ban hành chương trình xây dựng hải quân kéo dài mười năm, với khẩu hiệu "Kiên trì và quyết tâm" (Jp:臥薪嘗胆, Gashinshoutan), trong đó trang bị 109 tàu chiến với tổng trọng lượng là 200.000 tấn và tăng số sỹ quan Hải quân từ 15.100 lên 40.800.
Những khuynh hướng này lên đến đỉnh điểm với Chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905). Thiết giáp hạm Mikasa của Nhật Bản là soái hạm của đô đốc Tōgō Heihachirō. Trong trận Tsushima, Mikasa cùng Đô đốc Tōgō dẫn đầu Hạm đội Liên hợp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào nơi được gọi là "trận hải chiến quyết định nhất trong lịch sử". [72] Hạm đội Nga gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn: trong số 38 tàu Nga, 21 tàu bị chìm, 7 bị bắt, 6 bị tước vũ khí, 4.545 quân nhân Nga đã chết và 6.106 bị bắt làm tù binh. Mặt khác, người Nhật chỉ mất 117 người và 3 tàu phóng ngư lôi. Chiến thắng áp đảo này đã khiến đô đốc Tōgō trở thành một trong những anh hùng hải quân vĩ đại nhất của Nhật Bản.
Chiến thắng của Nhật Bản trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905 đánh dấu sự nổi lên của Nhật Bản như một cường quốc quân sự. Nhật Bản đã chứng minh rằng họ có thể áp dụng công nghệ, kỷ luật, chiến lược và chiến thuật của phương Tây một cách hiệu quả. Cuộc chiến kết thúc với Hiệp ước Portsmouth. Chiến thắng hoàn toàn của quân đội Nhật Bản khiến giới quan sát thế giới ngạc nhiên. Kết quả đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở Đông Á.
Trận chiến sông Áp Lục năm 1904 là trận chiến trên bộ lớn đầu tiên trong Chiến tranh Nga-Nhật từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5 năm 1904. Đây cũng là chiến thắng đầu tiên trong nhiều thập kỷ của một cường quốc châu Á với một cường quốc châu Âu. Nó đánh dấu sự bất lực của Nga trong việc bắt kịp sức mạnh quân sự của Nhật Bản.
Các cường quốc phương Tây coi chiến thắng của Nhật Bản trước Nga là sự xuất hiện của một cường quốc khu vực châu Á mới. Với thất bại của Nga, một số học giả đã lập luận rằng cuộc chiến đã tạo ra sự thay đổi trong trật tự thế giới toàn cầu với sự nổi lên của Nhật Bản không chỉ là một cường quốc khu vực mà còn là cường quốc chính của châu Á.
Thời kỳ Đại Chính - Thế chiến thứ I
Đế quốc Nhật Bản là một thành viên phe Đồng minh trong Thế chiến thứ nhất. Là một đồng minh của Vương quốc Anh, Nhật Bản tuyên chiến với Đức vào năm 1914. Nhật Bản nhanh chóng chiếm giữ các đảo thuộc địa của Đức như Quần đảo Mariana, Quần đảo Caroline và Quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương.
Tàu chở thủy phi cơ Wakamiya đã thực hiện các cuộc không kích của hải quân thành công đầu tiên trên thế giới vào ngày 5 tháng 9 năm 1914 và trong những tháng đầu tiên của Thế chiến I từ Vịnh Giao Châu đến Thanh Đảo. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1914, đây là trận chiến trên không đầu tiên trong lịch sử. Một chiếc máy bay Farman do Wakamiya phóng ra đã tấn công tàu tuần dương Áo-Hung SMS Kaiserin Elisabeth và pháo hạm Đức Jaguar ngoài khơi Thanh Đảo. Bốn thủy phi cơ bắn phá các mục tiêu trên bộ của Đức. Người Đức đầu hàng vào ngày 6 tháng 11 năm 1914.
Trong cuộc nội chiến Nga, các cường quốc Đồng minh đã can thiệp vào Nga. Đế quốc Nhật Bản đã phái lực lượng quân sự lớn nhất gồm 70.000 binh sĩ đến khu vực Viễn Đông. Họ ủng hộ lực lượng Bạch vệ chống Cộng ở Nga. Các cường quốc đồng minh đã rút đi vào năm 1920. Quân đội Nhật Bản ở lại đến năm 1925 sau khi ký kết Công ước cơ bản Nhật-Xô. Một nhóm nhỏ tàu tuần dương và khu trục hạm Nhật Bản cũng tham gia vào nhiều nhiệm vụ khác nhau ở Ấn Độ Dương và biển Địa Trung Hải.
Năm 1921, trong thời kỳ giữa hai thế chiến, Nhật Bản đã phát triển và cho ra mắt Hōshō, đây là tàu sân bay được thiết kế có mục đích đầu tiên trên thế giới. Nhật Bản sau đó đã phát triển một đội tàu sân bay không thua kém một quốc gia nào.
Thời kỳ Chiêu Hòa - Thế chiến II
Nhật Bản kiểm soát được khu vực trực tiếp xung quanh đường sắt Nam Mãn Châu, đạo quân Quan Đông của Nhật Bản tiếp tục xâm chiếm Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc) vào năm 1931, sau các sự kiện Phụng Thiên, trong đó họ tuyên bố lãnh thổ bị tấn công bởi người Trung Quốc (một vài mét đường sắt Nam Mãn Châu đã bị phá hủy trong một vụ đánh bom phá hoại). Năm 1937, Nhật Bản đã sáp nhập lãnh thổ phía bắc của Bắc Kinh và sau sự biến Lư Câu Kiều, một cuộc xâm lược toàn diện vào Trung Quốc bắt đầu. Nhật Bản có ưu thế quân sự khi phải phải đối đầu với một đội quân yếu ớt và mất tinh thần của Trung Hoa Dân Quốc cho phép quân Nhật có thể tiến quân nhanh chóng xuống bờ biển phía đông, dẫn đến sự sụp đổ của Thượng Hải và Nam Kinh (Nam Kinh, về sau là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc) cùng năm. Người Trung Quốc bị thương vong rất nhiều trong cả quân sự và dân sự. Ước tính khoảng 300.000 thường dân đã thiệt mạng trong vụ Thảm sát Nam Kinh vào những tuần đầu tiên khi Nhật chiếm đóng Nam Kinh.
Vào tháng 9 năm 1940, Đức, Ý, và Nhật Bản trở thành đồng minh theo Hiệp ước ba bên. Trước đó, Đức đã đào tạo và cung cấp vũ khí cho quân đội Trung Quốc nhưng giờ tạm dừng tất cả các hợp tác Trung-Đức và triệu hồi cố vấn quân sự là Al