✨Quân đội nhà Tây Sơn

Quân đội nhà Tây Sơn

Quân đội Tây Sơn là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802. Họ lấy danh nghĩa chống lại Quốc phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Nhạc đã phất cờ nổi dậy vào năm 1771. Bởi do Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ hoàng tôn Dương và khi đánh trận thường la ó ầm ĩ nên dân gian có câu: :"Binh triều là binh Quốc phó :Binh ó là binh Hoàng tôn"

Tây Sơn ngày càng được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, gồm cả một số sắc dân thiểu số và người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài và Tập Đình. Những năm đầu tiên lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng họ thường nhận được sự giúp đỡ của người dân quanh vùng. Vào lúc đó, một người thuộc giới trí thức tên là Huyền Khê ủng hộ tiền bạc, một phú nông là Nguyễn Thung

Chính sách quân sự

Tờ chiếu gửi Ngô Văn Sở vào năm Thái Đức thứ 11, bản từ tiếng Pháp dịch bởi Đặng Phương Nghi, ghi: vào thời gian đánh Mãn Thanh vượt mức 100.000 quân.

Lệnh tòng quân, bao gồm việc cưỡng bách trong thời gian triển khai ra Bắc đánh quân Mãn Thanh là vô cùng gắt gao. Việc kiểm tra quân số và thi hành kỷ luật quân đội rất nghiêm khắc. Kỷ luật quân đội cũng bù đắp phần nào yếu kém bởi sự huấn luyện vội vã để có thể đánh trận. Dựa theo sự mô tả của các nhà truyền đạo phương Tây lúc đó, Tây Sơn gần như sử dụng "chiến tranh toàn dân", tất cả mọi người đều được huy động, nhà sư cũng bị bắt đi lính, phụ nữ và con gái phải theo trợ chiến. Người già, con nít chừng 15 tuổi trở lên, du thương, cướp biển, dân tộc thiểu số đều được đưa vào quân đội. Theo thư của giáo sĩ La Bartette gửi cho giáo sĩ Blandin ngày 25 tháng 6 năm 1786 thì: "Họ đã phá hủy tất cả những giáo đường đẹp nhất ở đây, họ cũng phá hủy tất cả chùa chiền và bắt tất cả những nhà sư cầm vũ khí để ra trận." Nguyễn Huệ không ngần ngại đốt phá, tàn sát nếu gặp chống cự, để tiêu diệt địch cũng có mà thị uy cũng có. Nắm vững quan điểm kỷ luật là sức mạnh của quân đội, ông hết sức gắt gao trong việc điều quân và nổi tiếng là nghiêm minh. Bertette và Dousssain từng nhiều năm truyền đạo ở miền Thuận Hóa, trong bức thư đề ngày 11-6-1788, đã viết: Nguyễn Huệ đôi khi điều động được từ hai đến ba trăm nghìn quân.

Theo vai trò, quân đội Tây Sơn được tổ chức thành:

  • Trung quân

  • Tiền quân

  • Tả quân

  • Hữu quân

  • Hậu quân

Theo biên chế đơn vị, quân đội Tây Sơn được tổ chức theo nguyên tắc "ngũ ngũ chế":

Quân số của mỗi đội, , đạo không thống nhất, nó thay đổi tùy theo tính chất của binh chủng, tùy theo địa điểm chiến thuật mà các đơn vị đó chiếm đóng. Thông thường mỗi đội có từ 60 đến 100 lính, mỗi từ 300 đến 500 lính, mỗi đạo từ 1.500 đến 2.500. So với quân số ở cấp tương đương của quân đội Lê, Trịnh hoặc Nguyễn, không có sự chênh lệch quan trọng. Doanhđạo là những đơn vị hỗn hợp có cả các thành phần của bộ binh, pháo binh, kị binh và tượng binh (như đơn vị hợp thành của quân đội hiện đại mỗi khi tác chiến).

Theo chức năng, quân đội Tây Sơn được tổ chức thành:

Bộ binh Tây Sơn

Theo truyền thống của Đàng Trong, Nhà Tây Sơn luôn luôn có một đạo thân binh, được trang bị tối tân và rất kỷ luật, tên là đội thân binh Thuận Quảng, bao gồm binh sĩ các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam ở Đàng Trong, trong đó có một số đông người Thượng và người Hoa rất thiện chiến. Tướng thường chít khăn đỏ, người miền Bắc gọi họ với ý khinh rẻ là man binh (quân mọi), cuồng Chiêm (quân Chiêm hung tợn) hay quân Quảng Nam. Những địa điểm quan trọng thường có quân "Quảng Nam" đồn trú. Theo Hoàng Xuân Hãn, "quân Tây Sơn cầm cờ đỏ có tháp lông gà nhuộm đỏ, gọi là cờ hồng mao". Trong Lê quý dật sử thì viết rằng quân Tây Sơn khi đóng ở Nghệ An mặc áo màu đỏ tía, chỏm mũ đính lông chiên đỏ, vũ khí dùng tên lửa buộc trên đầu ngọn giáo gọi là hỏa hổ. Y phục này cũng được nhắc đến trong Đại Nam Quốc sử Diễn ca trong câu 1829-30:

:Quân dung đâu mới lạ nhường,

:Mão mao, áo đỏ chật đường kéo ra.

Theo đánh giá của người châu Âu đến Đàng Trong thời đó thì quân đội Tây Sơn rất tinh nhuệ, trang bị nhiều vũ khí tân kỳ ở thời đó. Họ sử dụng nhiều loại súng ống bao gồm cả súng đại bác và súng hỏa mai. Quân Tây Sơn cũng được huấn luyện để tự pha chế lấy thuốc nổ và người châu Âu đã kinh ngạc vì lính Tây Sơn nạp đạn rất nhanh, trong khi quân Anh phải thực hiện đến 20 động tác cho mỗi lần nạp đạn thì người Việt chỉ cần có 4 động tác.

Pháo binh Tây Sơn

Súng thần công Nhà Tây Sơn tại Bảo tàng Quang Trung, [[Bình Định.]]

Ngay từ thế kỷ 17, lực lượng pháo binh của Trịnh – Nguyễn đã giữ một vai trò quan trọng trong công cuộc phòng thủ bảo vệ thành lũy, và trong tiến công áp đảo quân địch. Súng đại bác được dùng để phòng thủ, nếu đưa ra trận thì dùng voi kéo hay chở nên rất cơ động.

Quân Tây Sơn là một quân đội lấy tiến công làm chính, họ có lực lượng Voi chiến trang bị pháo, và pháo hạm, vừa có tính cơ động vừa mạnh về hỏa lực, hỏa lực sử dụng chiến đấu và yểm trợ bộ binh khi xung trận. Lực lượng pháo binh Tây Sơn gồm các loại đại bác hạng nặng, hạng nhẹ, các loại hỏa hổ (hỏa tiễn cầm tay). Theo báo cáo của các quan sĩ Pháp từng theo phò Nguyễn Ánh cũng như sử sách nhà Nguyễn đều công nhận tính năng phi thường của các đại pháo và hỏa pháo Tây Sơn. Trong các trận đánh dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, lực lượng pháo binh Tây Sơn lúc nào cũng vượt trội và cơ động nhanh, đáp ứng tốt yêu cầu của chiến trường. Các trận đánh lớn của bộ binh đều có pháo binh yểm trợ và hiệp đồng chiến đấu. Trong trận đánh ở chiến lũy Trấn Ninh (Quảng Bình) vào năm 1802, quân Tây Sơn đã huy động cả ngàn khẩu pháo.

Các kiểu súng đại bác cỡ nhỏ thì có thể mang trên lưng và bắn một loại đạn nặng chừng hơn 100 gram. Một người lính cõng cái nòng súng dài chừng 2 thước, trong khi một người lính khác mang cái "giá" là một khúc gỗ tròn dài cũng chừng cái nòng súng. Khi tác xạ, cái "giá" được dựng lên bằng hai cái càng hay một cái chạc cao khỏi mặt đất chừng một mét, nòng súng sau đó để lên trên giá trong một cái ngàm sắt. Người lính có thể điều chỉnh độ nhắm và kiểm soát bằng một cái báng tì lên trên vai. Các loại súng này rất tiện lợi cho việc di chuyển và phục kích quân địch.

Kỵ binh Tây Sơn

Quân Tây Sơn sử dụng ngựa thồ và huấn luyện chúng thành ngựa chiến. Nguyễn Nhạc sau khi lên ngôi, lúc sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, Nguyễn Nhạc đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê, ông muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thị Nại.

Tây Sơn ngũ thần mã, là biểu tượng nổi tiếng của các tướng lĩnh Tây Sơn, trong số này thì có ít nhất ba con là giống ngoại hãn huyết mã. Tây Sơn ngũ thần mã uy dũng được vinh danh trong cuốn Tây Sơn nhân vật chí của Đinh Sĩ An, sau khi nhà Tây Sơn diệt vong, chúng vẫn được người Bình Định tưởng nhớ và tôn thờ như linh thú.

Tượng binh Tây Sơn

Đây là một lực lượng mạnh trong quân đội Tây Sơn, tuy nhiên không rõ có tất cả bao nhiêu voi chiến, ước chừng vài trăm.

Nguyễn Nhạc sau khi lên ngôi vua đã tiến hành chỉnh đốn lực lượng tượng binh, quy định rõ ngạch voi, số đội và các quy định về quản lý, chăm sóc, huấn luyện voi. Theo đó, tượng binh được phiên chế thành các đội, mỗi đội có từ 30-40 con. Đội voi ở mỗi tỉnh có tầu (chuồng) riêng, được các quản tượng trông nom, tập luyện. Hằng năm, trong các đợt tập trận lớn, các đội voi thường được đem ra diễn tập cùng các lực lượng khác.

Trong 5 đạo quân Tây Sơn từ phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn tiến công quân Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 thì có tới 3 đạo quân sử dụng kết hợp tượng binh và kỵ binh, trên mỗi hướng tấn công đều có hàng trăm voi chiến tham gia. riêng trận Ngọc Hồi, 100 voi chiến đã xung trận dưới sự chỉ huy của Bùi Thị Xuân.

Trên mỗi voi chiến, ngoài người quản tượng còn có 3 đến 4 binh sĩ cầm vũ khí vừa bảo vệ voi vừa chiến đấu. Ngoài cung, nỏ, giáo cán dài,...tượng binh Tây Sơn còn được trang bị đặc biệt bằng đại bác, hỏa hổ và hỏa cầu lưu hoàng. Như theo Thánh Vũ Ký thì, quân Tây Sơn đều chở đại bác bằng voi mà xông ra trận. Khi Nguyễn Huệ đánh Ngọc Hồi, sử nhà Thanh có đoạn chép thêm: "đại doanh ta vỡ, bị đội voi chiến đốt cháy, vì trên lưng mỗi con voi, có 3-4 tên lính chít khăn đỏ, ngồi ném, tung hỏa cầu lưu hoàng ra khắp mọi nơi, đốt cháy cả người nữa".

Thủy quân Tây Sơn

Thủy quân Tây Sơn có 673 thuyền chiến, 53.250 lính (hạm đội của Vũ Văn Dũng, Thị Nại, năm 1801).

Về chức năng, có hai loại thuyền:

  • Thuyền lớn để chở quân, lương thực, hàng hóa khác. Thuyền còn được gắn pháo để đánh chìm thuyền địch.

  • Thuyền nhỏ nhẹ và linh động, dùng để bao vây, tấn công và xung kích.

Mô hình thuyền Định Quốc của thủy quân Tây Sơn, Bảo tàng Tây Sơn (Bình Định)

Thuyền chiến bao gồm năm loại:

  • Chiến thuyền loại 1:

:9 thuyền, 700 lính thủy/thuyền, trang bị 60 đại bác, mỗi khẩu bắn đạn nặng khoảng 11 kg. Mỗi khẩu pháo có đường kính nòng khoảng 14 cm, dài khoảng 2,5 m, nặng 2.700 kg với 11 pháo thủ. Đây là minh chứng cho thấy hỏa lực và lực lượng thủy quân trên các chiến hạm Tây Sơn vô cùng mạnh mẽ và đông đảo. Thuyền cỡ lớn nhất Tây Sơn gọi là "Định Quốc" (giống như lớp tàu ngày nay), chính sử nhà Nguyễn gọi đó là loại thuyền Đại hiệu. Sách Hoàng Lê nhất thống chí mô tả thuyền Đại hiệu như một pháo đài di động, trên "lập chòi gác, đặt súng lớn".

:5 thuyền, 600 lính thủy/thuyền, trang bị 50 đại bác, mỗi khẩu bắn đạn nặng khoảng 11 kg.

  • Chiến thuyền loại 2:

:40 thuyền, 200 lính thủy/thuyền, 16 đại bác, mỗi khẩu bắn đạn nặng tương đương 5,4 kg. Đây là loại chiến thuyền vừa lợi hại trong thủy chiến, tấn công có hiệu quả tàu chiến địch do tốc độ và hỏa lực, lại vừa vận chuyển binh lính nhiều, có khả năng tấn công địch ở mục tiêu xa.

  • Chiến thuyền loại 3:

:93 thuyền, 150 lính/thuyền. Trang bị chỉ có 1 khẩu đại bác nhưng lại lớn hơn bất cứ loại đại bác nào khác, bắn đạn nặng khoảng 16,3 kg. Pháo này có nòng dài gần 3 m, nòng rộng 16 cm, nặng 3.700 kg với 14 pháo thủ.

  • Chiến thuyền loại 4:

:300 thuyền, 50 lính/thuyền, 1 đại bác nhỏ.

  • Chiến thuyền loại 5:

:100 thuyền, 70 lính/thuyền.

Và nhiều loại thuyền chiến cỡ nhỏ khác.

Chiến thuyền loại 4 và 5 tuy nhỏ nhưng được đánh giá là rất lợi hại. Vì nhỏ dễ xoay xở, nếu ở sông sẽ chạy bằng chèo, số thủy thủ đủ để thay phiên nhau chèo; nên vừa thủy chiến trên sông hiệu quả, lại vận chuyển binh lính đánh tập kích địch từ xa.

Đến năm 1788, Nguyễn Huệ mâu thuẫn với Nguyễn Nhạc ở phương Nam lại bị áp lực từ phương Bắc khi nhà Thanh chuẩn bị đem quân sang đánh, ông càng gấp rút tổ chức thủy quân để đối phó với tình hình ngày càng quyết liệt. Tổng binh Bảo được cấp thêm 16 đại thuyền nữa và phương tiện để tuyển mộ thêm quân. Barizy- một sĩ quan hải quân Pháp trong hàng ngũ quân Nguyễn Ánh, tường thuật về lực lượng của hạm đội Tây Sơn do Vũ Văn Dũng chỉ huy như sau: "Lực lượng này gồm có 673 chiến hạm đủ cỡ lớn nhỏ. Trong số này, có những chiến hạm lớn trang bị súng đại bác và thủy thủ đoàn nhiều hơn cả những chiến hạm lớn nhất kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có". Trong một bức thư của Jeaptiste Chaigneau cho biết ở Quy Nhơn, thủy quân Tây Sơn có 54 tàu, 93 chiếc thuyền, 300 pháo hạm, 100 tàu buồm, trang bị rất hùng hậu.

Đối với việc vận tải, trong lá thư đề ngày 11.4.1801, Barizy gửi cho Letondal viết về trận hải chiến Thị Nại năm 1801, ghi rằng thủy quân Tây Sơn còn có 4.800 thuyền vận tải trong cảng Thị Nại.

Đối với việc liên lạc, năm 1964 trên báo Hòa Đồng xuất bản ở Sài Gòn, ông Hồ Hữu Tường mô tả quân Tây Sơn có những đoàn "sảo mã" đặc biệt tinh nhuệ, giữ việc thông tin liên lạc, số ngựa trong đoàn sảo mã này phần lớn chọn từ Phú Yên.

Lương thực thường dùng và mang theo trong các cuộc hành quân là bánh tráng, bánh tét,...===

Trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã chọn khúc sông Mỹ Tho, đoạn từ cửa sông Rạch Gầm đến cửa sông Xoài Mút làm khu vực tác chiến chủ yếu để tiêu diệt quân Xiêm. Rạch Gầm và Xoài Mút là hai con sông nhỏ, nhưng giữ vị trí quan trọng trong kế hoạch của quân Tây Sơn. Thủy binh Tây Sơn có thể bố trí ở hai rạch này tạo thành hai mũi tiến công lợi hại chặn đầu và khóa đuôi toàn bộ đội hình quân Xiêm, khi chúng lọt vào trận địa chuẩn bị sẵn đó. Khoảng giữa cửa sông Rạch Gầm và cửa sông Xoài Mút có các cù lao Thới Sơn,.v.v. là nơi thuận lợi để bộ binh Tây Sơn bí mật triển khai pháo binh sẵn sàng đánh vào sườn đội hình quân địch và đón đánh những nhóm quân Xiêm liều mình đổ bộ lên bờ. Những nhánh sông nằm giữa các cù lao và bờ phía nam sẽ là những nơi mai phục và xuất phát của đội thuyền chiến Tây Sơn.

Rút lui

Trong lần đánh Thanh, ngày 20 Tháng Chạp, khi quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ (lúc đó đã lên ngai lấy hiệu là Quang Trung) chỉ huy tiến đến núi Tam Điệp, các tướng Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, Phan Văn Lân đến chịu tội vì đã rút lui làm cho quân Thanh tràn vào Thăng Long. Tưởng đắc tội, không ngờ Quang Trung-Nguyễn Huệ cười:

"Lui quân để tránh thế giặc, trong khuyến khích tướng sĩ, ngoài làm cho giặc phấn khích, kiêu ngạo, dụ địch vào chỗ hiểm yếu của ta như thế là phải. Các khanh không có tội chi cả. Chúng nó sang đây là mua lấy cái chết đó thôi, ta đã định mẹo cả rồi".

Đánh nghi binh

Trong lần đánh Thanh, bên cạnh việc rút lui để bảo toàn lực lượng, để làm tăng thêm lòng kiêu căng của quân Mãn Thanh, Nguyễn Huệ còn sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ 8 người mang lễ vật và thư đến tha thiết xin Tôn Sĩ Nghị dừng quân để tra xét rõ: vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Trung Hoa do tướng cướp Đắc Thiện Tống bắt và sau đó quân Tây Sơn bắt được Tống. Quả thật, Tôn Sĩ Nghị kiêu căng sai chém đầu Trần Danh Bình, luôn cả Đắc Thiện Tống và cầm tù đoàn sứ giả. Trong lúc đó, vua Quang Trung bí mật chỉnh đốn quân tướng, chuẩn bị chiến trận, quyết một trận đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Vào sáng 30 Tháng Chạp, trước khi ra lệnh tấn công, Quang Trung nói:

"Ta đến mà địch không biết là địch ngủ ta thức, ta đánh mà địch không đề phòng là ta chém kẻ tay không. Ta nhất định thắng..."

Chính yếu tố bí mật, quân Thanh không nắm được lực lượng của Tây Sơn lại thêm thói khinh thường, đến khi bất ngờ bị tấn công thì không còn kịp chống đỡ.

Trước đó, trong lần kéo quân ra bắc đầu tiên với danh nghĩa "phò Lê diệt Trịnh", thủy quân Tây Sơn bị quân của chúa Trịnh Khải bao vây trên sông Vị Hoàng. Gặp gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để trên mấy chiếc thuyền, rồi cho đánh trống, kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi. Tướng của Trịnh Khải là Đinh Tích Nhưỡng, tưởng quân Tây Sơn tới đánh bèn dàn thuyền chiến, rồi truyền quân sĩ lấy súng bắn cho đến khi hết đạn mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc này, quân Nguyễn Huệ ùa tới đánh, quân của Nhưỡng không chống cự nổi phải bỏ thuyền mà trốn. Các cánh quân khác của chúa Trịnh cũng bị đánh tan, thành Sơn Nam bị hạ.

Trong lần đánh Xiêm, chỉ sau khi đã bố trí xong lực lượng, Nguyễn Huệ mới chủ động cho quân tới khiêu chiến, nhằm kéo quân Xiêm đến đoạn sông đã chuẩn bị trước để tiêu diệt. Quân Xiêm do khinh thường nên đã mắc mưu.

Đánh tốc chiến

Một trong chiến thuật nổi bật của quân Tây Sơn là đánh tốc chiến, trong bức thư của giáo sỹ tên là Le Breton, ghi ngày 02-08-1788, ông viết: "Như thế Nguyễn Huệ đã trở về Phú Xuân vào đầu tháng 7. Ông đã bắt quân phải về gấp rút đến nỗi có nhiều binh sĩ chết vì mệt mỏi và nắng nực. Ngay cả voi ngựa cũng chết". Lúc ra Thăng Long bắt giết Vũ Văn Nhậm, từ Phú Xuân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã tự đốc thức bộ binh, kỵ binh ngày đêm tiến binh. Chừng hơn 10 ngày đã đến Thăng Long. Trong Nhật ký của Giáo hội Truyền giáo Bắc Hà gửi về cho Giáo hội Trung ương có thuật lại sức tiến quân vũ bão của hoàng đế Quang Trung: "Ông (Nguyễn Huệ) tiến như vũ bão ra Bắc và chỉ mất có 10 ngày, không quản đường xa khó nhọc đã giết chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất 3 hay 4 ngày". Với quãng đường dài hơn 600 trăm cây số, thời gian di chuyển chỉ mất 10 ngày; đường sá lại bị núi sông cách trở, việc di chuyển cả một đoàn quân lớn như vậy thật là phi thường. Sức ngựa voi mà còn chịu không nổi phải chết dọc đường huống hồ sức người. mà chiến thuật đi đôi của Quang Trung là tấn công bất ngờ, Đến trung tuần tháng 5 âm lịch năm 1786, đạo quân bộ của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tập kích bất ngờ nơi này, quân Trịnh không kịp trở tay. Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra chống cự bị tử trận. Đánh chiếm được Hải Vân, Nguyễn Huệ lập tức thúc quân tiến thẳng ra Phú Xuân. Lần thứ 2, quân Trịnh lại bất ngờ. Trịnh Tông tập trung ở bến Tây Long, có 100 voi chiến, Cuối cùng, chính quyền chúa Trịnh sụp đổ.

Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), quân Tây Sơn đã ra đến tận Ninh Bình. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung nói với binh sĩ rằng chỉ trong 10 ngày sẽ quét sạch quân Thanh. Quân Mãn Thanh và Lê Chiêu Thống đang trong thời gian chuẩn bị ăn Tết đã không phòng bị tốt, cộng với thói kiêu ngạo của Tôn Sĩ Nghị khiến họ thật sự bất ngờ. Sớm hơn cả dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày kể từ đêm 30 Tết âm lịch, quân Tây Sơn đã đánh tan vỡ quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết Kỷ Dậu - 1789, quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân bỏ chạy, trên đường chạy liên tiếp bị quân Tây Sơn mai phục chặn đánh. Cuối cùng, Tôn Sĩ Nghị và Lê Chiêu Thống chạy thoát về Trung Quốc.

Sử dụng hỏa lực

Một yếu tố tạo nên sức mạnh vượt trội của quân đội Tây Sơn là việc sử dụng phổ biến và tập trung số lượng lớn vũ khí thuốc súng. Các loại vũ khí cầm tay như hỏa hổ gọn nhẹ đã được trang bị cho toàn quân. Ngoài ra còn sử dụng hỏa cầu lưu hoàng giống như một loại lựu đạn cỡ lớn. Điều này đã tăng khả năng chiến đấu trong quân đội. Đại bác cũng sử dụng với số lượng lớn. Các loại vũ khí thuốc súng được kết hợp với đội hình voi chiến, từ lưng voi binh lính sử dụng cả pháo, hỏa hổ, hỏa cầu lưu hoàng.

Quan hệ với cướp biển Trung Quốc

*Bài chính: Cướp biển trong lực lượng Tây Sơn Nhà Tây Sơn tuyển dụng cả cướp biển Trung Quốc để chiến đấu chống quân Thanh vào năm 1788-1789 và chống quân Nguyễn Ánh. Theo lời khai của một cướp biển bị bắt bởi quan binh nhà Thanh thì có 12 tướng cướp biển chiến đấu cho Tây Sơn với 100 tàu, trong đó tướng Trịnh Thất có 40 tàu.

Đánh giá

Nghĩa quân Tây Sơn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo. Điều này được các giáo sĩ Tây Ban Nha, như Diego de Jumilla ghi lại trong quyển sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam với nội dung như sau: :"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ...".

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Quân đội Tây Sơn** là tổ chức vũ trang của Nhà Tây Sơn, xuất phát từ lực lượng nghĩa quân của phong trào nông dân từ năm 1771 cho đến ngày sụp đổ năm 1802.
**Nguyễn Văn Thiệu** (? – ?) là tướng lĩnh nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Nguyễn Văn Thiệu không rõ thân thế, quê quán. Chỉ biết ông
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Văn Huấn** () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. ## Công trạng Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em
**Nguyễn Văn Danh** () hay **Nguyễn Văn Tứ** là một tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Ông là anh của Hộ giá Thượng tướng quân Nguyễn Văn Huấn. Hai anh em là
**Kinh tế Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế nước Đại Việt vào thời nhà Tây Sơn (1778-1802) trong lịch sử Việt Nam, trong lãnh
**Nguyễn Văn Hòa** (阮文和) là một vị tướng của phong trào Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Hành trạng Nguyễn Văn Hòa tham gia phong trào Tây Sơn, khi Tây Sơn đánh ra
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Văn học thời Tây Sơn** là một giai đoạn của văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ 18, phản ánh các thành tựu về văn, thơ của nước Đại Việt dưới thời Tây Sơn
**Chiến tranh Tây Sơn-Trịnh** là cuộc nội chiến cuối thế kỷ 18 trong lịch sử Việt Nam giữa chính quyền chúa Trịnh và chính quyền nhà Tây Sơn của Nguyễn Nhạc. Cuộc chiến diễn ra
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
nhỏ|Phân bố quân lực thời Hồng Đức (1471) **Quân đội nhà Lê Sơ** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Thái Tổ đến hết
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
**Quân đội nhà Mạc** phản ánh việc tổ chức quân đội và chính sách quân sự của nhà Mạc trong 65 năm tồn tại trong lịch sử Việt Nam. ## Tổ chức Do tình hình
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
Nước Đại Việt dưới **triều đại Tây Sơn**, có **quan hệ ngoại giao** với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn Huệ - tức Hoàng Đế Quang Trung - là
**Tây Sơn** là một huyện nằm ở tỉnh Gia Lai, Việt Nam. Đây là một vùng địa lý quan trọng ở khu vực Duyên hải Nam Trung bộ, nơi tiếp giáp giữa đồng bằng ven
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn** là một phần của nội chiến ở Đại Việt thời gian nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19. Đây là cuộc chiến diễn ra chủ
**Hành chính Việt Nam thời Tây Sơn** ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của nhà Tây Sơn từ năm 1778 đến năm 1802, không chỉ giới hạn trong phạm vi
**Nông nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động nông nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
**Quân đội Hoàng gia Phổ** () là lực lượng quân sự của Vương quốc Phổ (nguyên là lãnh địa Tuyển hầu tước Brandenburg trước năm 1701). Quân đội Phổ đóng vai trò quan trọng trong
thumb|right|Tây Sơn Dynasty coinage in the National Museum of Vietnamese History, (2018)|Tiền tệ Tây Sơn. **Tiền tệ Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào
**Giáo dục khoa cử thời Tây Sơn** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802 trong vùng đất
**Thương mại Đại Việt thời Tây Sơn** phản ánh chính sách và kết quả hoạt động thương mại nước Đại Việt cuối thế kỷ 18 đến năm 1802, trong phạm vi lãnh thổ nhà Tây
**Thủ công nghiệp Đại Việt thời Tây Sơn** trong lịch sử Việt Nam phản ánh chính sách và kết quả hoạt động thủ công nghiệp nước Đại Việt từ năm 1778 đến năm 1802, trong
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**_Quân đội nhà Thục Hán_** phản ánh việc tổ chức quân đội của nhà Quý Hán trong khoảng 42 năm tồn tại chính thức trong thời đại Tam quốc của lịch sử Trung Hoa. Hoạt
**Quân chủng Phòng không – Không quân** là một trong ba quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, Quân chủng có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ không
**Đại đô đốc** là một chức danh quan lại trong triều đại Tây Sơn, được dùng trong quân đội. Chức vụ "đô đốc" được dùng phổ biến trong một số triều đại phong kiến Việt
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Nguyễn Hữu Thận** (chữ Hán: 阮有慎; 01 tháng 3, 1757- 12 tháng 8, 1831), tự **Chân Nguyên**, hiệu **Ý Trai** (hoặc **Ức Trai**, chữ Hán: 意齋); là nhà toán học và nhà thiên văn học,
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
**Ngô Thế Lân** (吳世鄰, ? - ?), tự: _Hoàn Phác_(完璞); hiệu:_ Ái Trúc Trai_; là một dật sĩ xứ Thuận Hóa thời Lê mạt và Tây Sơn (Việt Nam). ## Cuộc đời Ngô Thế Lân
**Sư đoàn 3** (hay **Sư đoàn Bộ binh 3**, **Sư đoàn Sao Vàng**) là một sư đoàn bộ binh chính quy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước đó, đây cũng là sư đoàn
**Quân khu 3** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và chỉ huy
**Doanh nghiệp quân đội** ở Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước do Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý. Doanh nghiệp quân đội được chia ra thành: ***Doanh nghiệp quốc phòng an ninh**:
nhỏ|phải|Quân đội Liên bang Nga đang diễu hành nhân ngày Chiến thắng nhỏ|phải|Quân đội nhân dân Việt Nam đang diễu hành đại lễ **Quân đội** là một tập đoàn người có tổ chức gồm những
**Tổng cục Tình báo Quốc phòng**, gọi tắt là **Tổng cục Tình báo** hoặc** Tổng cục II**, là cơ quan tình báo chiến lược của Đảng, Nhà nước, cơ quan tình báo chuyên ngành quân
**Ngô Thì Trí** (1766-?) là một danh sĩ thời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Trí** là người ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
**Sư đoàn 341** là một sư đoàn bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam, còn có tên gọi **Sư đoàn Sông Lam**. Sư đoàn này đã tham gia Chiến tranh Việt Nam, và
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
nhỏ|200x200px|[[Quân kỳ Quân đội nhân dân Việt Nam]] **Mười lời thề danh dự của quân nhân** trong lực lượng vũ trang Quân đội nhân dân Việt Nam là lời tuyên thệ của tân binh, được