✨Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm hay Ngô Thời Nhiệm (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công lớn trong việc giúp triều Tây Sơn đánh lui quân Thanh.

Sự nghiệp

Ngô Thì Nhậm thông minh, học giỏi, sớm có những công trình về lịch sử. Ông xuất thân trong một gia đình vọng tộc tại Bắc Hà, là con của Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Nhờ truyền thống gia đình văn học và nhờ tư chất thông minh, Ngô Thì Nhậm thành công rất sớm. Mười sáu tuổi đã viết cuốn "Nhị thập tứ sử toát yếu". Mười chín tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương. Hai mươi tuổi viết "Tứ gia thuyết phả".

Năm 1768, 23 tuổi, ông thi đỗ giải Nguyên, được bổ Hiến sát phó sứ Hải Dương.

Năm 1771, 26 tuổi, ông dự khảo thí ở Quốc tử giám, đỗ ưu hạng đồng thời hoàn thành "Hải đông chí lược", một tập địa phương chí của Hải Dương.

Năm 1775, ông thi đỗ thứ năm hàng Tiến sĩ tam giáp, cùng khoa với Phan Huy Ích. Đạt được học vị cao nhất của thang giá trị học vấn thời đó. Được chúa Trịnh Sâm rất quý mến và nhận xét là "Tài học không ở dưới người". Sau khi đỗ đạt, ông được bổ làm quan Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ dưới triều Lê – Trịnh.

Năm 1776, ông được bổ làm Giám sát Ngự sử đài đạo Sơn Nam, sau đó thăng Đốc đồng trấn Kinh Bắc.

Năm 1778, ông vẫn giữ chức Đốc đồng Kinh Bắc nhưng kiêm thêm chức Đốc đồng Thái Nguyên. Khi đó cha ông làm Đốc đồng Lạng Sơn. Cha con đồng triều, nổi tiếng văn chương trong thiên hạ.

Không phụ lòng tin yêu của vương thượng, Ngô Thì Nhậm dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, trong đó có các bài biểu nổi tiếng như Giáo nghị, Pháp nghị và Chính nghị. Tuy nhiên, do triều đại Lê – Trịnh đang ở vào thời suy vi, nên dù rất khen kế sách của ông, Trịnh Sâm cũng không thể áp dụng nó vào thực tế.

Sau Vụ án năm Canh Tý (1780), Ngô Thì Nhậm được thăng làm Công bộ Hữu thị lang. Vụ này khiến cho giới sĩ phu Bắc Hà nghi ngờ Ngô Thì Nhậm là người tố giác Trịnh Khải, nên phải bỏ trốn về quê vợ ở Bách Tính, Nam Định (nay là Bách Tính, xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, Nam Định) lánh nạn.

Cha ông mất cùng năm sau vụ án Canh Tý (Trịnh Sâm dẹp tan âm mưu đảo chính của phe cánh Trịnh Tông muốn diệt trừ phe cánh Đặng Thị Huệ và Quận Huy), do bạo bệnh sau một chuyến đi Nam quan cho việc quan. Do đó Nhậm mới bị cái tiếng "sát tứ phụ nhi thị lang" (giết bốn cha để được chức Thị lang. Bốn cha ý chỉ Ngô Thì Sĩ và ba người bạn vong niên của ông Sĩ là Nguyễn Khản - anh trai Nguyễn Du, Nguyễn Phương Đĩnh và Nguyễn Khắc Tuân).

Với tư tưởng lấy trung làm đầu, khi Nguyễn Huệ mang quân ra đất Bắc lần thứ nhất, Ngô Thì Nhậm đã từng gọi Nguyễn Huệ là giặc, từ bỏ đất kinh kì đi "lánh nạn", hưởng thú vui "nhắm rượu với cua béo".

Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, xuống lệnh "cầu hiền" tìm kiếm quan lại của triều cũ. Danh sĩ Bắc Hà đã đầu quân cho nhà Tây Sơn từ trước đó mới chỉ có Trần Văn Kỉ, Ngô Văn Sở và Đặng Tiến Đông.

Tuy vậy, tới thời điểm này thì cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều đã đổ. Ngô Thì Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch; các tiến sĩ Ninh Tốn, Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan; Đoàn Nguyễn Tuấn (anh rể Nguyễn Du); Vũ Huy Tấn; Nguyễn Huy Lượng (tác giả "Tụng Tây Hồ phú")... lần lượt ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm là người đầu tiên trong đám nhân sĩ Bắc Hà tới trình diện ở bộ Lễ. Sau đó, ông nhận được lòng tín nhiệm tuyệt đối của Nguyễn Huệ.

Sử cũ viết khi được Thì Nhậm, Nguyễn Huệ mừng mà rằng: "Thật là trời để dành ông cho ta vậy", và phong cho ông chức Tả thị lang bộ Lại, tước Tĩnh phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả quan văn võ của triều Lê.

Chỉ chưa đầy một tháng phục vụ chủ mới, Thị lang Ngô Thì Nhậm đã tập hợp được một số cựu thần nhà Lê và soạn ngay một tờ biểu suy tôn để xin Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế. Công việc có chiều hấp tấp và lộ liễu đó không được mấy người hưởng ứng, những người có tư cách đều không ra, có kẻ bị ép thà tự tử.

Không thể đóng quân mãi ở xa đại bản doanh, thả mồi bắt bóng, ngày chậm tháng chầy có thể đưa đến những bất lợi, Nguyễn Huệ đành phải để một đại tướng trấn giữ miền Bắc, hậm hực kéo quân trở về Thuận Hóa chờ cơ hội khác. Sau ông lại thăng làm Thượng thư bộ Lại - chức vụ cao cấp nhất trong Lục bộ.

Cuối năm Mậu Thân (1788), do vua Lê Chiêu Thống cầu viện, 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, với chiêu bài diệt Tây Sơn dựng lại nhà Lê.

Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp – Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn. Ông nhận định: "Nay, ta giữ quân mà rút về chỗ hiểm Tam Điệp, không bị mất một mũi tên. Cho giặc vào Thăng Long ngủ trọ một đêm, rồi tung quân ra đánh, đuổi chúng đi, có mất gì đâu?".

Đánh giá về công lao của Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung nói với tướng sĩ rằng: "Các người đều là chiến tướng, tự nhiên gặp giặc là đánh, mà lâm cơ cần ứng biến thì không đủ tài. Mấy tháng trước, ta phải để Ngô Thì Nhậm ở lại, cộng sự với các ngươi, chính là lo sẵn cho chỗ đó".

Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư. Tuy làm ở bộ Binh, nhưng Thì Nhậm chính là người chủ trì về các chính sách và giao dịch ngoại giao với Trung Hoa. Ông là người đứng đầu một trong những sứ bộ ngoại giao sang Trung Hoa.

Vốn là người văn chương nức tiếng bấy giờ, phần lớn các thư từ bang giao giữa Đại Việt và nhà Thanh đều do chính tay ông soạn thảo. Những văn kiện ngoại giao của Ngô Thì Nhậm thể hiện rõ nguyên tắc về chủ quyền lãnh thổ, danh dự quốc gia với các chính sách mềm dẻo, linh hoạt, cứng rắn. Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm hai lần đi sứ sang nhà Thanh vào những dịp rất quan trọng, khoảng các năm 1790, 1792-1793. Khi đi sứ nhà Thanh năm 1790 (đời vua Càn Long), ông ghé thăm mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu và viết bài thơ Đề Nhạc Vũ Mục vương miếu (nghĩa là "Đề miếu Nhạc Vũ Mục vương"), sau đó ông ghé thăm Miếu thờ Nhạc Phi ở Yển Thành (thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay) và viết bài thơ Đề Yển Thành Nhạc vương miếu (nghĩa là "Đề miếu Nhạc vương ở Yển Thành"). Ông dốc toàn tài năng cho nhà Tây Sơn. Chính sách ngoại giao khôn khéo đối với nhà Thanh, không nghi ngờ gì nữa, là tác phẩm của Ngô Thì Nhậm, không phải là công trạng của Quang Trung.

Theo sách Hoàng hoa đồ phả, trong những lần đi sứ phương Bắc, ông luôn cố gắng để đến tất cả những danh thắng ở Trung Quốc mà người Việt chỉ biết qua sách vở, cũng như tìm kiếm dấu vết của lịch sử Việt Nam trên đất khách.

Sau khi ổn định an ninh một dải đất dài từ ải Nam quan vào tới Bến Ván, Quang Trung đã nghe theo lời cố vấn của hai văn thần quan trọng là Trần Văn Kỷ và Ngô Thì Nhậm để tổ chức lại guồng máy hành chánh, thuế khóa.

Sau một thời gian chiến tranh liên miên, đồng ruộng hoang hóa, xóm làng điêu tàn đổ nát, dân cư xiêu tán, kinh tế kiệt quệ, Quang Trung phải đối phó với những khó khăn chồng chất của thời bình. Trong các kế hoạch bình định, chắc chắn Ngô Thì Nhậm soạn thảo cho Quang Trung kế hoạch tái phối trí dân số và phát triển nông nghiệp, vì văn bản chính thức của kế hoạch này, "Tờ Chiếu Khuyến nông", được dòng họ Ngô Thì lưu giữ và ghi vào tập "Hàn các anh hoa" của Ngô Thì Nhậm.

Năm 1792, sau khi Quang Trung mất, ông không còn được tin dùng, quay về nghiên cứu Phật học. Ông lập thiền viện, soạn công án, trở thành Hải Lượng thiền sư. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt Nam. Ông đã hoàn thành một tác phẩm rất có giá trị là Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh (1796).

Năm 1802, sau khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch và một số viên quan triều Tây Sơn bị đánh bằng roi tại Văn Miếu năm 1803. Nhưng vì có mâu thuẫn trước đó với Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường đã cho người tẩm thuốc vào roi để đánh ông. Sau trận đánh đòn, về nhà, Ngô Thì Nhậm chết.

Câu ứng đối nổi tiếng

Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường có quen biết với nhau.

Chuyện xưa kể lại rằng, học trò của cụ Ngô Thì Sĩ ngày ấy khá đông, nhưng xuất sắc nhất chỉ có người con trai là Ngô Thì Nhậm và con rể của cụ là Phan Huy Ích. Một lần vui miệng, để khuyến khích cả con rể và con trai, cụ Sĩ bảo hai người hãy cố chiếm lấy cho được vị trí trong cuộc tranh đua khoa giáp. Lúc ông bảo ban như vậy có mặt cả một người học trò khác tên là Đặng Trần Thường. Không thấy thầy nhắc gì đến mình, Đặng Trần Thường cảm thấy bị bẽ mặt, từ đó trong thâm tâm nảy sinh ghen ghét, bực bội với hai người kia.

Nhưng quả thực là lực học của Đặng Trần Thường không bằng hai người họ Ngô và Phan được. Sau kỳ thi Hội, hai người này đều đỗ cao, còn Đặng Trần Thường thì bị hỏng. Từ đó, lòng đố kỵ lại tăng lên, Đặng muốn tỏ ra khinh thường bạn để thỏa nỗi bực mình. Vì thế, chọn đúng ngày Ngô Thì Nhậm vinh quy được rước về làng, Thường ra chặn ngay đầu đường kéo quần xuống đái. Các quan và chức dịch sở tại thấy vậy đuổi bắt và đánh Thường mấy chục roi. Thường cho đây là chủ tâm của Ngô Thì Nhậm muốn làm nhục mình, nên từ đó càng căm giận, nhất quyết trả thù cho bằng được.

Lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Trông thấy vẻ khúm núm làm mất phong độ của kẻ sĩ, Nhậm thét bảo Thường: :Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác. Có chuyện lại kể, Nhậm thấy vẻ khúm núm, hèn hạ, xin xỏ của Thường thì khẽ cười mà rằng: :Công hầu, khanh tướng, vòng trần ai (đại ý nói rằng danh tước, công hầu làm con người thành bi kịch chốn trần ai). Đặng Trần Thường nghe mà căm tím ruột, hổ thẹn ra về, rồi vào Nam theo Nguyễn Phúc Ánh.

Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và một số quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi ở Văn Miếu, trong số đó có Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó là Đặng Trần Thường.

Trong thế đối nghịch nhau, nhớ lại chuyện xưa, Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm: :Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai đã biết ai Ngô Thì Nhậm khẳng khái đáp: :Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế Có thuyết nói rằng, nguyên câu đối lại của Ngô Thì Nhậm là: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, dù thời thế, thế nào cũng thế hoặc là: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế nào vẫn thế. Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại như câu nói "thế đành theo thế" (hay thế thời theo thế hoặc là thế thì phải thế). Ngô Thì Nhậm không nói lại. Thường tức giận sai người dùng roi tẩm thuốc độc đánh ông.

Sau trận đòn về nhà, Phan Huy Ích không bị đánh bằng thuốc độc nên còn sống. Còn Ngô Thì Nhậm bị thuốc độc ngấm vào tạng phủ, biết mình không qua khỏi, trước khi qua đời ông có làm bài thơ gửi tặng Đặng Trần Thường như sau: :Ai tai Đặng Trần Thường :Chân như yến xử đường :Vị Ương cung cố sự :Diệc nhĩ thị thu trường Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cục của ngươi rồi cũng thế đó.

Dịch thơ: :Thương thay Đặng Trần Thường :Tổ yến nhà xử đường :Vị Ương cung chuyện cũ :Tránh sao kiếp tai ương? Quả nhiên sau này bài thơ ứng nghiệm, Thường bị Gia Long xử tử.

Tác phẩm chính

Bang giao hảo thoại (văn) Bang giao tập (văn) Kim mã hành dư (văn) Hàn các anh hoa (văn, thơ) Doãn thi văn tập (văn, thơ) Yên đài thu vịnh (thơ) Hoàng hoa đồ phả (thơ) Cúc đường bách vịnh (thơ) Hải Dương chí lược Hy Doãn thi văn tập Xuân Thu quản kiến Tam thiên tự giải âm (tức Tự học toản yếu). Sách này về sau dịch ra quốc ngữ là Tam Thiên Tự. Sách được học giả Đoàn Trung Còn biên soạn, sao lục, Chí Đức tùng thư xuất bản lần đầu năm 1959 là sách căn bản để học tiếng Hán

Hình ảnh công cộng

Ngày nay tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông. Trong khi đó, ở các tỉnh miền Trung và miền Nam lại viết là Ngô Thời Nhiệm.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
**Ngô Thì Trí** (1766-?) là một danh sĩ thời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Trí** là người ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh
**Ngô Thì Hương** (; 1774-1821) còn có tên là **Vị** (位), tự **Thành Phủ** (成甫), hiệu **Ước Trai** (箹齋); là nhà văn Việt Nam ở cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. ##
**Ngô Thì Ức** (; 1709-1736), hiệu: _Tuyết Trai cư sĩ_; là danh sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả đầu tiên có tên trong Ngô gia văn phái.
**Ngô Thì Điển** (吳時典), tự **Kính Phủ**, hiệu **Tĩnh Trai**; là nhà thơ Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. ## Tiểu sử **Ngô Thì Điển** là người
**Ngô Thì Hoàng** (1768-1814), còn có tên là **Tịnh**, hiệu là **Huyền Trai**, biệu hiệu là **Thạch Ổ cư sĩ**; là một danh sĩ ở cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19 trong
**Ngô Thì Chí** (吳時俧, 1753 - 1788) là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 18 thời Lê trung hưng ## Tiểu sử **Ngô Thì Chí** tên chữ là **Học Tốn**, hiệu là **Uyên Mật**,
**Ngô Thì Đạo** (1732-1802), hiệu: _Ôn Nghị_ và _Văn Túc_; là danh sĩ và là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Đạo** sinh năm Nhâm Tý
**Ngô Thì Du** (chữ Hán: 吳時悠, 1772-1840) là nhà văn và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Thì Du** tên tự là _Trưng Phủ_, hiệu là _Văn Bác_,
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Bỉm Sơn** là một thị xã cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Thị xã Bỉm Sơn được xác định là trung tâm kinh tế của vùng kinh tế động lực, đồng thời là cửa
Tinh dầu bưởi từ lâu đã trở thành trợ thủ đắc lực trong chăm sóc sức khỏe của chị em phụ nữ. Được chắt lọc từ những thành phần tinh túy nhất của vỏ bưởi,
Thông tin Dầu gội bồ kết tinh chất bưởi :CAM KẾT : Dầu gội bồ kết không sử dụng công nghệ hiện đại hay công nghệ nano, làm thủ công, nung nấu qua nhiều giờ
MÔ TẢ SẢN PHẨMXịt phòng Daily xuất xứ thái lan, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, mùi hoa ly dễ chịu, lưu hương trong phòng lâuCửa hàng hải yến: số 14, liền kề
MÔ TẢ SẢN PHẨMBông ipek hàng công ty xuất xứ Tây Ban NhaShop chuyên bán buôn bán lẻLiên hệ: 0936669496Địa chỉ: ct2 , cc xuân mai, đường Ngô Thì Nhậm, phường La Khê, Hà Dông
Thông tin Dầu gội bồ kết tinh chất bưởi :CAM KẾT : Dầu gội bồ kết không sử dụng công nghệ hiện đại hay công nghệ nano, làm thủ công, nung nấu qua nhiều giờ
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Đại Việt sử ký tiền biên** là bộ sử biên niên gồm 17 quyển, viết bằng chữ Hán do Ngô Thì Sĩ biên soạn, Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Bộ sử này được khắc in
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Ngô Giáp Đậu** (1853-1929), hiệu **Tam Thanh**, biệt hiệu **Sự Sự Trai**, là nhà văn, nhà giáo và là sử gia đời vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Ngô Giáp
nhỏ|Chân dung ông Ngô vi Liễn **Ngô Vi Liễn** (吳為璉, 1894-1945) là quan lại cuối thời Nguyễn và là tác giả nhiều bộ sách quý về địa chí, tiêu biểu là cuốn _Tên làng xã
nhỏ|phải|Cấu trúc đô thị Udaipur nhìn từ xa **Cấu trúc đô thị** (_Urban structure_) là sự sắp xếp, bố trí, quy hoạch sử dụng đất (hệ số sử dụng đất K) trong khu đô thị,
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Ngô Đình Nhu** (7 tháng 10 năm 19102 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính
**_Bình Ngô đại cáo_** (chữ Hán: 平吳大誥) là một bài cáo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc
**Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền** hay **Trường Bonnal**, trường **Bình Chuẩn** là một ngôi trường nằm trong hệ thống các trường Trung học Phổ thông công lập của Việt Nam được thành lập
**Cao Lãnh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Thành phố Cao Lãnh là đô thị loại II và là đô thị trung tâm quan trọng của tỉnh Đồng Tháp.
**Nhà Ngô** (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: _Ngô triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài
**Ngô Minh Hiếu** (còn được gọi là **Hiếu PC**, sinh ngày 8 tháng 10 năm 1989) là một chuyên gia về an toàn thông tin người Việt Nam, từng là một hacker nhận 13 năm
thumb|[[Hội đồng thương mại Chicago|Chicago Board of Trade Corn Futures market, 1993]] thumb|right|[[Price of oil#Speculative trading and crude oil futures|Oil traders, Houston, 2009]] **Thị trường hàng hóa** () được biết đến là một thị trường
**_Cương Thi Tiên Sinh_** (tựa tiếng Anh: **_Mr. Vampire_**) là một bộ phim kinh dị hài Hồng Kông năm 1985 do Lưu Quán Vĩ đạo diễn và Hồng Kim Bảo sản xuất. Thành công phòng
**Nhâm Ngọ** (chữ Hán: 壬午) là kết hợp thứ 19 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông. Nó được kết hợp từ thiên can _Nhâm_ (Thủy dương) và địa chi
**Tam Điệp** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Thành phố Tam Điệp là một địa danh cổ, nằm bên dãy núi Tam Điệp hùng vĩ, nơi có nhiều di chỉ
**Thái Bình** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Bình cũ, Việt Nam. Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và
**Phạm Ngô Cầu** () tức **Tạo Quận công** là một tướng nhà Lê trung hưng, thời chúa Trịnh Sâm trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Phạm Ngô Cầu dòng dõi Phạm Ngô Thạch
**_Khuê ai lục_** (_Ghi nỗi đau buồn về chuyện phòng khuê_) là một sáng tác văn học của nhà sử học, nhà văn, nhà thơ Việt Nam Ngô Thì Sĩ. ## Giới thiệu sơ lược
**Ngô Hồng Quang** (sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983) là nhạc công và ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam. Quang là một trong số những nghệ sĩ đương đại có công
nhỏ|332x332px|Phông nền của Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia **Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia** (hay còn gọi là **ViSEF**, tiếng Anh: _Vietnam Science and Engineering Fair_) là cuộc
**Tây Thi**(chữ Hán: 西施; bính âm: _xi shi_), còn gọi là **Tây Tử** (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử
**Người Duy Ngô Nhĩ** hay **Người Uyghur** (tiếng Uyghur: ئۇيغۇرلار (chữ Ả Rập), уйғурлар (chữ Kirin), tiếng Trung ) là một sắc tộc người Turk sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung
SỮA TẮM GỘI THẢO DƯỢC BABY TOP TO TOE WASHVới chiết xuất 100% từ thảo dược thiên nhiên Hanayuki Baby Top To Toe Sản phẩm giúp làm sạch 1 cách an toàn và dịu nhẹ
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh** (Tiếng Trung Quốc: **北京市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Běijīng shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Bắc Kinh thị Nhân dân Chính phủ
**Chi Cỏ ngô** là một nhóm các loài cỏ lớn với danh pháp khoa học **_Zea_**, được tìm thấy tại México, Guatemala và Nicaragua. Các loài trong chi _Zea_ bị ấu trùng của một số
Xem bảng danh sách những người thi đỗ Trường Nam Định, khoa Đinh dậu 1897. **Thi Hương** là một khoa thi liên tỉnh, theo lệ 3 năm tổ chức 1 lần về nho học do
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới
**Ngộ độc nước**, hay **nhiễm độc nước** hay **hạ natri máu**, là một sự xáo trộn về chức năng não có khả năng gây tử vong, xảy ra khi các cân bằng điện giải trong
**_Kinh Thi_** () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong _Kinh Thi_ được sáng tác trong