✨Nhà Ngô

Nhà Ngô

Nhà Ngô (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: Ngô triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài từ năm 939 đến năm 965. Khoảng thời gian xen giữa từ 944 đến 950 còn có Dương Bình Vương tức Dương Tam Kha. Khác với các triều đại quân chủ Việt Nam sau này, các vua nhà Ngô vẫn xưng tước vương mà chưa xưng đế hiệu trên phạm vi toàn lãnh thổ do họ cai trị.

Bối cảnh

Sau khi tiêu diệt nhà Tùy, nhà Đường tiếp tục sửa sang chế độ hành chính và sự phân chia châu quận, tiếp tục cai trị An Nam. Cho đến giữa thế kỷ IX, nhà Đường có biến loạn, ngày càng suy yếu. Lợi dụng thời cơ đó, Khúc Thừa Dụ là một hào trưởng người Việt ở Hồng Châu đã tập hợp nhân dân nổi dậy vào năm 905. Khúc Thừa Dụ đánh đuổi quan lại và binh lính nhà Đường, chiếm giữ phủ thành, xưng Tiết độ sứ. Đầu năm 906, nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ An Nam.

Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được hai năm thì mất, con trai là Khúc Hạo lên thay. Khúc Hạo quyết định xây dựng đất nước tự chủ theo đường lối "Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui". Khúc Hạo đã làm được nhiều việc lớn: đặt lại các khu vực hành chính, cử người trông coi mọi việc đến tận xã; xem xét và định lại mức thuế, bãi bỏ các thứ lao dịch của thời Bắc thuộc; lập lại sổ hộ khẩu;... Tất cả những việc làm của Khúc Hạo đều nhằm mục đích mang lại cuộc sống ấm no, yên bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Trong lúc họ Khúc đang tìm cách xây dựng chính quyền tự chủ ở An Nam như thế, ở miền nam Trung Quốc, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Nham đã được sự ủng hộ của quan lại nhà Đường cũ ở đây, tự xưng Hoàng đế, thành lập nước Nam Hán.

Năm 917, Khúc Hạo mất, Khúc Thừa Mỹ lên thay. Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang thần phục nhà Hậu Lương, hành động này làm Nam Hán nổi giận. Mùa thu năm 930, vua Nam Hán là Lưu Cung sai Lý Khắc Chính đem quân sang đánh nước ta. Khúc Thừa Mỹ chống cự không nổi, bị quân địch bắt, Nam Hán chiếm giữ An Nam.

Năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ hay tin, đã đem quân từ Ái Châu ra Bắc đánh bại quân Nam Hán, xưng là Tiết độ sứ, tiếp tục xây dựng nền tự chủ. Bảy năm sau tức năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chức, cướp quyền rồi đi thần phục nhà Nam Hán. Được tin Kiều Công Tiễn phản nghịch và thấy việc quy phục nước Nam Hán là nguy hại cho cuộc tự chủ mà họ Khúc và họ Dương đã xây dựng nền móng, Ngô Quyền là nha tướng và con rể của Dương Đình Nghệ, lúc ấy đang cai quản Ái Châu, phát binh tiêu diệt Kiều Công Tiễn.

Triều vua Ngô Quyền

Năm 938, Ngô Quyền tập hợp lực lượng từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Công Tiễn biết mình không đủ sức chống lại Ngô Quyền nên đã sai sứ sang cầu cứu Nam Hán, hi vọng nhà Nam Hán sẽ bảo vệ tính mạng cho hắn lẫn bảo vệ quyền lực mà hắn ta mới cướp được. Hay tin cầu cứu của Công Tiễn, vua Nam Hán là Lưu Nghiễm phong cho con là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo (hoặc Hồng Tháo) làm Giao vương, rồi sai Hoằng Tháo đem quân sang, lấy cớ là cứu Công Tiễn nhưng thực chất là xâm lược nước ta. Bản thân vua Lưu Nghiễm đóng quân ở Hát Môn, sẵn sàng tiếp ứng cho Hoằng Tháo.

Ngô Quyền hạ thành Đại La, giết Công Tiễn. Ngô Quyền dự đoán là quân Nam Hán sẽ vào nước ta theo đường sông Bạch Đằng nên ông đã bày trận trên sông Bạch Đằng để đón đánh giặc. Tháng 11 năm 938, đoàn thuyền chiến Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy hùng hổ kéo vào nước ta thì bị Ngô Quyền đánh tan trong trận Bạch Đằng. Hoằng Tháo bị giết chết, Lưu Nghiễm hốt hoảng vội thu thập tàn binh quay về. Trận Bạch Đằng của Ngô Quyền kết thúc hoàn toàn thắng lợi.

Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, mưu đồ xâm lược của Nam Hán bị đè bẹp. Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi, tức là Tiền Ngô Vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập Dương Như Ngọc làm Vương hậu; đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục.

Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc, thiết lập một triều đình mới ở trung ương. Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc chính trị, ngoại giao, quân sự; đặt ra các chức quan văn, quan võ, quy định lễ nghi trong triều và màu sắc trang phục của quan lại các cấp.

Ở địa phương, Ngô Quyền cử các tướng có công coi giữ các châu quan trọng. Đinh Công Trứ làm Thứ sử Hoan Châu, Kiều Công Hãn làm Thứ sử Phong Châu,...

Có thể thấy tổ chức bộ máy nhà nước lúc bấy giờ còn sơ khai, đơn giản nhưng được thống nhất từ trung ương đến địa phương. Việc xây dựng chính quyền mới của Ngô Quyền đã thể hiện được ý thức tự chủ giúp đất nước yên bình, nhân dân an vui, đặt nền móng cho một quốc gia độc lập, thống nhất.

Tranh chấp trong cung đình

nhỏ|360x360px|Trung Quốc và Việt Nam (923-936). Năm 944, Tiền Ngô Vương mất, sai Dương Tam Kha giúp lập thái tử. Dương Tam Kha là anh (có sách nói là em) Dương Thái hậu cướp ngôi, tự xưng Dương Bình Vương.

Con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chạy trốn về Nam Sách (Hải Dương). Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ của Ngô Quyền, làm con nuôi. Dương Tam Kha 3 lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không bắt được vì hào trưởng Nam Sách là Phạm Lệnh Công che chở cho Xương Ngập.

Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn đi đánh Thái Bình. Ngô Xương Văn thuyết phục được 2 tướng Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Xương Văn không giết Dương Tam Kha mà giáng xuống làm Chương Dương công.

Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách trở về, cùng nhau trông coi việc nước. Sử gọi thời kỳ này là Hậu Ngô Vương.

Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951 – 954). Lúc đó cùng tồn tại hai vua là Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Lên ngôi vương, Ngô Xương Ngập lấn át quyền hành của Ngô Xương Văn khiến Xương Văn bất bình rút lui việc chính sự.

Nhưng chỉ được 3 năm, đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh chết, chỉ còn một mình Nam Tấn vương Ngô Xương Văn làm vua.

Loạn lạc

Lúc nhà Ngô suy yếu, một số thủ lĩnh địa phương nổi dậy cát cứ không thần phục triều đình.

Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư – con Thứ sử châu Hoan đã mất là Đinh Công Trứ – dựa vào vùng núi khe hiểm yếu, không chịu tuân lệnh triều đình. Hai vua Ngô muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Đinh Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Hai vua Ngô vương trách Bộ Lĩnh không tự mình đến chầu, rồi bắt giữ Đinh Liễn đem theo quân đi đánh Hoa Lư.

Quân Ngô tấn công hơn một tháng, không đánh nổi. Hai vua Ngô bèn treo Đinh Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Nhưng Bộ Lĩnh vẫn không thần phục, lại sai hơn 10 tay nỏ nhắm con mình mà bắn. Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn kinh sợ nói rằng: :"Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì."

Vì vậy hai anh em vua Ngô không giết Đinh Liễn mà đem quân về.

Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi đánh, chém được Chu Thái. Từ trận thắng ấy, Nam Tấn vương sinh kiêu ngạo.).

Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân cát cứ, sử sách gọi là loạn 12 sứ quân, trong đó có người trong hoàng tộc nhà Ngô (Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh), các tướng nhà Ngô (Phạm Bạch Hổ, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Công Hãn) và số lớn là các thủ lĩnh địa phương tự nổi dậy (Kiều Thuận, Trần Lãm, Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp, Nguyễn Siêu, Lý Khuê, Lã Đường). Thời kỳ này kéo dài đến năm 968 thì bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong và lập ra nhà Đinh.

Hành chính

nhỏ|363x363px|Trung Quốc thời [[Hậu Tấn|nhà Hậu Tấn (936-947) và nhà Hậu Hán (947-950). Việt Nam bắt đầu tự chủ ở phía Nam.Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân]] Thời Ngô, lãnh thổ chỉ còn 8 châu (so với 12 châu thời Tự chủ) là:

Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo ý kiến của Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời thì 4 châu này bị Nam Hán chiếm, nhưng không rõ vào thời điểm nào: khi Kiều Công Tiễn cầu viện đã để quân Hán tiến vào (937) và Ngô Quyền chưa kịp tập hợp lực lượng tiến ra Đại La (938) hay sau thời điểm trận Đại La, trước trận Bạch Đằng... (cuối năm 938). Theo Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, không rõ căn cứ theo tài liệu nào, cho rằng Ngô Quyền bàn giao 4 châu này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ", thì việc này có thể xảy ra sau trận Bạch Đằng hoặc Nam Hán đã chiếm được trước đó mà Ngô Quyền chỉ làm việc công nhận vùng bị mất này thuộc về Nam Hán.

Ngoại giao

Ngô Quyền tự xưng là Ngô vương, sử sách không xác nhận việc ông quan hệ ngoại giao với các vương triều nào trong số các nước ở phương Bắc thời kỳ Ngũ đại Thập quốc.

Năm 954, Ngô Xương Văn sai sứ sang giao hảo với Nam Hán và xin tiếp viện. Vua Nam Hán là Lưu Thịnh nhận giao hảo của Xương Văn. Sau đó Lưu Thịnh âm mưu cho Lý Dư làm sứ cầm cờ "tinh" sang chiêu dụ nhận Tĩnh Hải quân là phiên thần và phong chức Tiết độ sứ cho Lý Dự để cai quản Đô hộ cho Ngô Xương Văn.

Được tin Lý Dư sắp vào, Ngô Xương Văn cho ngay người đi sang biên giới ngăn lại. Hai bên gặp nhau ở Bạch châu. Sứ của Xương Văn nói với Lý Dư rằng: :Giặc biển đương làm loạn, đường sá đi lại rất khó.

Lý Dư bèn quay về nước. Đó là lần ngoại giao duy nhất giữa nhà Ngô và Nam Hán trong 21 năm tồn tại.

Danh sách vua

Nhà Ngô được chia làm 2 thời kỳ, Tiền Ngô Vương và Hậu Ngô Vương, tổng cộng có 5 vị vua, trong đó 2 vị không được công nhận.

Thế phả

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Ngô** (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: _Ngô triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài
**Hột Thạch Liệt Nha Ngô Tháp** (chữ Hán: 紇石烈牙吾塔, ? – 1231), họ **Hột Thạch Liệt** (紇石烈), tên Hán là **Chí** (志), còn gọi là **Nha Cổ Tháp** (牙古塔), **Nha Ngô Thái** (牙吾太), **Nha Hốt
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Ngô Xương Văn** (chữ Hán: 吳昌文; 934 – 965) là một vị vua nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ 950 đến 965, trong đó khoảng từ 951 – 954 ông
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
**Ngô Xương Ngập** (chữ Hán: 吳昌岌; ? - 954) là một vị vua nhà Ngô, trị vì từ 951 đến 954 cùng với em trai là Ngô Xương Văn. Sử gọi chung đó là thời
**Hậu Ngô Vương** (後吳王) là thời kỳ cuối cùng của nhà Ngô, tính từ năm 950 đến 965. Hậu Ngô Vương gồm hai vua **Nam Tấn vương** và **Thiên Sách vương**. Một triều đình có
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Trịnh Ngô Dụng** (1684 - 1746) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông đỗ tam giáp đồng tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu (1721), niên hiệu Bảo Thái
**Ngô Tất Tố** (, 1893 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Ngô Đình Nhu** (7 tháng 10 năm 19102 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Nhà Đinh** (chữ Nôm: 茹丁, chữ Hán: 丁朝, Hán Việt: _Đinh triều_) là triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Ngoại giao Việt Nam thời Ngô** phản ánh hoạt động ngoại giao giữa nhà Ngô với các vương triều phương Bắc. ## Hoàn cảnh Năm 937, nha tướng Kiều Công Tiễn giết chết Tiết độ
**Hành chính Việt Nam thời Ngô** phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. ## Chính quyền trung ương
**Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục** (6 tháng 10 năm 1897 – 13 tháng 12 năm 1984) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Ngô Ngạn** (chữ Hán: 吾彦), tên tự là **Sĩ Tắc**, người huyện Ngô, quận Ngô , là tướng lĩnh nhà Đông Ngô cuối thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Về sau ông quy
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
nhỏ|_Zea mays "fraise"_ nhỏ|_Zea mays "Oaxacan Green"_ thumb|_Zea mays "Ottofile giallo Tortonese"_ **Ngô**, **bắp** hay **bẹ** (danh pháp hai phần: _Zea mays_ L. ssp. _mays_), là một loại cây lương thực được thuần canh tại
**Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền** hay **Trường Bonnal**, trường **Bình Chuẩn** là một ngôi trường nằm trong hệ thống các trường Trung học Phổ thông công lập của Việt Nam được thành lập
**Loạn 12 sứ quân** (chữ Hán: 十二使君之亂, _Thập nhị sứ quân chi loạn_) là một giai đoạn nội chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô Quyền
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
Thời [[nhà Hậu Lương (907-923) ]] **Ngô Việt** (tiếng Trung phồn thể: 吳越國; giản thể: 吴越国, bính âm: Wúyuè Guó), 907-978, là một vương quốc nhỏ độc lập, nằm ven biển, được thành lập trong
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Ngô** (Phồn thể: 吳國; giản thể: 吴国), còn gọi là **Câu Ngô** (句吴) hay **Công Ngô** (工吴; 攻吾), là các tên gọi của một nước chư hầu của nhà Chu từ khi triều đại này
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Ngô Nhân Tịnh** (, 1761 – 1813), tự **Nhữ Sơn** (汝山), hiệu **Thập Anh** (拾英); là một trong "Gia Định tam gia" thuộc nhóm _Bình Dương thi xã_ (平陽詩社), và là quan triều Nguyễn trong
**Ngô Tự Lập** (sinh ngày 4 tháng 6 năm 1962 tại Sơn Tây, Hà Tây, nay là Hà Nội) là một nhà sư phạm, nhà văn, dịch giả và nhà nghiên cứu văn hóa. Ông
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Ngô Bảo Châu** (sinh ngày 28 tháng 6 năm 1972), giáo sư tại Khoa Toán, Đại học Chicago, là một nhà toán học Pháp-Việt nổi tiếng với chứng minh bổ đề cơ bản cho các
**12 sứ quân** là những vị thủ lĩnh chiếm giữ các vùng lãnh thổ để hình thành lên thời kỳ loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi của họ được chép
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Dương Tam Kha** (chữ Hán: 楊三哥, ? - 980), tức **Dương Bình Vương** (楊平王), là một vị vua Việt Nam, trị vì từ 944 đến 950, xen giữa triều đại nhà Ngô trong lịch sử
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới
**Ngô Minh Loan** (1915 11 tháng 2 năm 2001) là nhà hoạt động cách mạng và chính khách người Việt Nam, ông là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa III, Cục
**Ngô Thiếu Thành** (chữ Hán: 吳少誠, bính âm: Wu Shaocheng, 750 - 6 tháng 1 năm 810), thụy hiệu **Bộc Dương vương** (濮陽王), là tiết độ sứ Hoài Tây hay Chương Nghĩa dưới triều nhà
**Ngô Đình Cẩn** (1911 – 9 tháng 5 năm 1964), biệt hiệu **Hắc Long**, là em trai của Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa. Ông được anh trai giao
**Micae Ngô Đình Khả** (chữ Hán: 吳廷可; 1856 – 1923) là một quan đại thần nhà Nguyễn. Ông được biết đến như một đại thần đã cộng tác với Pháp để đàn áp cuộc khởi
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Đỗ Cảnh Thạc** (chữ Hán: 杜景碩; 912 - 967) là tướng nhà Ngô, sau trở thành một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt
Thời [[nhà Hậu Lương (907-923) ]] **Ngô** (tiếng Trung: 吳), còn gọi là **Hoài Nam** (淮南) hay **Dương Ngô** (杨吴) hoặc **Nam Ngô** (南吴), là một trong mười nước tại miền Trung Nam Trung Quốc,