✨Ngô Việt

Ngô Việt

Thời [[nhà Hậu Lương (907-923)

]] Ngô Việt (tiếng Trung phồn thể: 吳越國; giản thể: 吴越国, bính âm: Wúyuè Guó), 907-978, là một vương quốc nhỏ độc lập, nằm ven biển, được thành lập trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc (907-960) trong lịch sử Trung Quốc. Nhà nước này do dòng họ Tiền cai trị, các dấu tích còn lại của nhà nước này vẫn còn khá phổ biến trong lãnh thổ trước đây của Vương quốc.

Thành lập

[[Tiền Lưu]] Tiền Lưu (852-932) tự Cụ Mỹ (có sách ghi là Cự Mỹ), người Lâm An, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, người sáng lập ra nước Ngô Việt vào thời Ngũ Đại. Vào cuối đời Đường, do theo tướng Đổng Xương dẹp yên loạn Hoàng Sào, Tiền Lưu lãnh chức Trấn Hải Tiết độ sứ. Năm 886, Đổng Xương đem quân vượt sông Tiền Đường, đánh bại Chiết Đông Quan sát sứ vùng Lưu Hán Hoằng (có nơi ghi là Lưu Hán Hồng), chiếm trọn Việt Châu. Do đút lót với Triều đình, họ Đổng được phong Thái úy, Đồng Trung thư Môn hạ Bình chương sự, Lũng Tây Quận Vương. Năm Càn Ninh thứ hai (895) đời Đường Chiêu Tông, do Triều đình không phong cho Đổng làm vua vùng Ngô Việt, y bèn làm phản, tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Việt La Bình Quốc, lấy niên hiệu Thuận Thiên. Đổng Xương phong Tiền Lưu làm Chỉ huy sứ, không ngờ Tiền Lưu khuyên Đổng nên bỏ đế hiệu. Đổng Xương không nghe, liền bị Tiền Lưu đem quân đánh bại và bị giết chết tại Việt Châu. Sau đó, Tiền Lưu chiếm cứ mười ba châu huyện thuộc vùng Lưỡng Chiết (nay là toàn bộ tỉnh Chiết Giang, phần Đông Nam tỉnh Giang Tô và phần Đông Bắc tỉnh Phúc Kiến. Những vùng đất này thuộc lãnh thổ nước Ngô và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc nên khu vực này được gọi chung là Ngô Việt), Tiền Lưu đã được phong làm Việt Vương năm 902, hai năm sau được phong thêm tước Ngô Vương. Năm 907, nhà Đường sụp đổ và nhà Hậu Lương thay thế ở phía bắc thì các tướng lĩnh tại phương Nam đã tạo ra các vương quốc của mình. Tiền Lưu cũng tự xưng Ngô Việt Vương. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, kéo dài cho đến khi nhà Tống ra đời vào năm 960.

Tên gọi và lãnh thổ

Tên gọi Ngô Việt là sự kết hợp của hai chữ Ngô và Việt, tên gọi của hai quốc gia cổ đại trong thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, từ năm 770 TCN tới năm 221 TCN.

Kinh đô Ngô Việt đặt tại Tây Phủ (nay là Hàng Châu). Vương quốc này bao gồm lãnh thổ các tỉnh Chiết Giang, Thượng Hải cùng phần phía nam tỉnh Giang Tô ngày nay. Sau này, vương quốc này có lẽ đã thu thêm được một số phần phía bắc Phúc Kiến khi Vương quốc Mân sụp đổ năm 945. Lãnh thổ Ngô Việt gần như bao gồm toàn bộ lãnh thổ nước Việt cổ đại, nhưng không phải nước Ngô cổ đại – điều này dẫn tới những lời cáo buộc của vương quốc láng giềng là Ngô (còn gọi là Nam Ngô) rằng Ngô Việt có mưu đồ đối với lãnh thổ của họ, và tên gọi này là nguồn gốc của các căng thẳng trong nhiều năm giữa hai quốc gia.

Trong những thập niên đầu tồn tại, Ngô Việt có biên giới với Mân ở phía nam, với Nam Đường ở phía bắc và phía tây. Với sự nổi loạn của Vương Diên Chính (王延政) năm 943 để lập ra nước Ân, thì trong một thời gian ngắn (943-945), Ngô Việt còn có biên giới với tiểu quốc này. Tuy nhiên, kể từ sau năm 945 thì Nam Đường là nước duy nhất bao quanh Ngô Việt (ngoại trừ phần giáp biển Đông Trung Hoa) do cả Ân lẫn Mân đều bị Nam Đường tiêu diệt.

Trị vì của Tiền Lưu

Dưới thời Tiền Lưu, Ngô Việt là nhà nước thịnh vượng về kinh tế và tự do phát triển nền văn hóa bản địa của mình. Điều đó còn được tiếp diễn đến tận ngày nay. Ông đã cho phát triển nông nghiệp vùng ven biển của vương quốc, xây dựng các đập ngăn nước biển, mở rộng Hàng Châu, nạo vét sông ngòi và các hồ nước, cũng như khuyến khích phát triển vận tải và thương mại đường biển. Tiền Lưu là người làm việc tận tụy, trên giường bệnh ông vẫn còn chủ trương giải quyết ôn hòa mọi công việc của nhà nước. Những lời nói của ông đã được các vị vua kế vị sau này tuân thủ chặt chẽ.

Ngoại giao

Năm 935, Ngô Việt thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Nhật Bản. Vương quốc này cũng nhân ưu thế gần biển của mình để duy trì quan hệ ngoại giao với Bắc Trung Quốc, người Khiết Đan và Triều Tiên.

Là nước nhỏ yếu thời Ngũ Đại, bên ngoài, Ngô Việt tỏ ra thần phục Ngũ Đại cai trị ở Trung Nguyên và dùng niên hiệu của các vua thuộc các triều đại "chính thống" đó.

Sụp đổ

Năm 978, đối mặt với nguy cơ bị tiêu diệt bởi sức mạnh hủy diệt của Quân đội nhà Tống, vị vua cuối cùng của Ngô Việt là Tiền Thục, đã cam kết trung thành với nhà Tống, cứu vớt thần dân của ông khỏi phải gánh chịu các phá hủy trong kinh tế cũng như của nền hòa bình từ cuộc chiến có thể xảy ra này. Trong khi Tiền Thục về danh nghĩa vẫn là vương, nhưng Ngô Việt đã bị sáp nhập vào Tống, kết thúc sự tồn tại của vương quốc này. Ông qua đời năm 988.

Di sản

Văn hóa

trái|Một phần [[Tây Hồ, Hàng Châu|Tây Hồ. Nhà thủy tạ ở mé trái được coi là để đánh dấu nơi bắn cung trong thời kỳ Ngô Việt.]] Ngô Việt đã thắt chặt ưu thế kinh tế và văn hóa của khu vực Ngô-Việt tại Trung Quốc trong nhiều thế kỷ sau này cũng như tạo ra truyền thống văn hóa khu vực bền lâu và khác biệt với phần còn lại của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo của Vương quốc là các nhà bảo trợ có tiếng cho Phật giáo cũng như cho các trang trí kiến trúc, đền miếu, các tượng tôn giáo có liên quan tới Phật giáo. Các khác biệt về văn hóa, đã bắt đầu phát triển trong thời kỳ này và còn tồn tại đến ngày nay, do người dân khu vực Ngô-Việt nói bằng phương ngữ gọi là tiếng Ngô (biến thái đáng chú ý nhất của nó là tiếng Thượng Hải), cũng như họ có các đặc điểm văn hóa khác biệt, như trong nghệ thuật ẩm thực.

Cơ sở hạ tầng

Di sản vật thể mà Vương quốc Ngô Việt để lại là sự hình thành của hệ thống các sông đào và kênh đào, cho phép khu vực này trở thành khu vực giàu có nhất về mặt nông nghiệp của Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Điều đó có thể nhận thấy qua một loạt các đền, miếu thờ Tiền Lưu trong cả khu vực này, trong số đó nhiều đền miếu còn tồn tại đến ngày nay.

Di sản cá nhân

trái|Đền thờ Tiền Vương tại [[Hàng Châu, một trong nhiều miếu thờ các vị vua Ngô Việt còn tồn tại trên lãnh thổ của nhà nước này trước đây.]]

Tiền Lưu còn được gọi là "Long Vương" hay "Hải Long Vương" do các kế hoạch trị thủy to lớn của ông với ý đồ "chế ngự" biển cả. Các vua Ngô Việt vẫn tiếp tục có được sự nhìn nhận tích cực trong sử sách chính thống. Họ được quần chúng sùng kính và yêu mến là do các công trình điều tiết thủy lợi, đảm bảo cho sự thịnh vượng kinh tế trong khu vực, cũng như do sự chấp nhận thần phục nhà Tống, một lựa chọn không phải dễ dàng, nhưng nó đảm bảo cho cả quá trình thống nhất Trung Quốc được diễn ra suôn sẻ lẫn đảm bảo cho khu vực này không bị chiến tranh tàn phá.

Trong thời kỳ đầu nhà Tống, họ Tiền đã từng được coi là chỉ đứng hàng thứ hai sau họ Triệu, là họ của hoàng tộc, như được phản ánh trong Bách gia tính thời nhà Tống. Sau này, nhiều đền miếu đã được xây dựng khắp trong khu vực Ngô-Việt để tưởng niệm các vị vua của nhà nước này, và đôi khi người ta còn đến đây để cầu mưa gió thuận hòa cùng mùa màng bội thu. Nhiều đền miếu, được biết đến như là "miếu Tiền Vương" hay "đền Tiền Vương", còn tồn tại đến ngày nay, trong số đó được nhiều người đến viếng thăm nhất là ngôi miếu gần Tây Hồ, Hàng Châu.

Người ta cho rằng Tiền Lưu có trên 100 con trai, do nhiều bà vợ và thê thiếp sinh ra. Dòng dõi của ông có ở khắp nơi trong lãnh thổ của vương quốc cổ này. Họ Tiền cũng cực kỳ phổ biến trong khu vực. Một vài chi, nhánh được coi là "danh gia vọng tộc" trong khu vực họ sinh sống.

Các vị vua nước Ngô Việt

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Thời [[nhà Hậu Lương (907-923) ]] **Ngô Việt** (tiếng Trung phồn thể: 吳越國; giản thể: 吴越国, bính âm: Wúyuè Guó), 907-978, là một vương quốc nhỏ độc lập, nằm ven biển, được thành lập trong
**Ngô Viết Thụ** (17 tháng 9 năm 19269 tháng 3 năm 2000) là một kiến trúc sư người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến
**Ngô Việt Trung** (sinh ngày 08/05/1953) là một nhà Toán học người Việt Nam. Ông là Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam từ 2007 tới 2013, là Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học
**_Ngô Việt Xuân Thu_** () là một bộ tạp sử do Triệu Diệp (赵晔) thời Đông Hán biên soạn và Hoàng Phủ Tuân thời Đường san định. Sách gồm mười quyển, kể lại những biến
**Tiền Thục** (29 tháng 9 năm 929 - 7 tháng 10 năm 988, biểu tự là **Văn Đức**), được biết đến với tên **Tiền Hoằng Thục** trước năm 960, là vị vua cuối cùng của
Ngô Việt Xuân Thu là một bộ tạp sử ghi chép những biến cố xảy ra ở hai nước Ngô, Việt thời Xuân Thu, tác giả là Triệu Diệp. Triệu Diệp - sống dưới thời
**Việt Nam Quốc Tự** (chữ Hán: 越南國寺) là ngôi chùa tọa lạc tại 244 đường Ba tháng Hai, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh do Hòa thượng Thích Tâm Giác - viện trưởng Viện
**Ngô** (chữ Hán phồn thể: 吳; chữ Hán giản thể: 吴; Hangul: 오; Latin: "Ng", "Wu", "O", "Oh") là một họ người phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam, và Triều Tiên. Tại Việt Nam
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
**Khuông Việt** (匡越, 933-1011) trước tên là **Ngô Chân Lưu** (吳真流), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ
**Tết Đoan Ngọ** hoặc **Tết Đoan Dương** (Hán Việt: 端午節 - Đoan Ngọ Tiết, 端陽節 - Đoan Dương Tiết) (ngày mùng 5 tháng 5 theo âm lịch) là một ngày Tết truyền thống tại một
**Nhà Ngô** (chữ Nôm: 茹吳, chữ Hán: 吳朝, Hán Việt: _Ngô triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, truyền được hai đời nhưng có tới ba vị vua, kéo dài
**Ngô Chi Lan** (吳芝蘭; 1434 - 1497), biểu tự là **Quỳnh Hương** (瓊香), thường được gọi là **Kim Hoa nữ học sĩ** (金華女學士) hoặc **Phù Gia nữ học sĩ** (苻家女學士), là một nữ sĩ dưới
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Ngô Nhật Khánh** (chữ Hán: 吳日慶; ? - 979), Tước hiệu **Ngô Lãm công** (吳覽公) hoặc **Ngô An vương** (吳安王), là một thủ lĩnh thời 12 sứ quân
**Ngô Xương Xí** (chữ Hán: 吳昌熾), còn gọi là **Ngô Sứ quân** (吳使君), được chính sử ghi nhận là một trong những thủ lĩnh thời 12 sứ quân thế kỷ X. Nhiều tài liệu cho
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
nhỏ|phải|Tháp Phước Duyên ở [[chùa Thiên Mụ đã trở thành một trong những công trình biểu tượng của thành phố Huế]] **Tháp chùa Việt Nam** là những công trình tháp được đặt tại các ngôi
**Việt** (), hoặc **Bách Việt** (, _bǎik wyuèt_), là các nhóm dân cư thuộc Ngữ hệ Nam Á và Ngữ hệ Kra-Dai định cư và sinh sống ở tại vùng đất phía Nam Trường Giang
**Ngô Xương Ngập** (chữ Hán: 吳昌岌; ? - 954) là một vị vua nhà Ngô, trị vì từ 951 đến 954 cùng với em trai là Ngô Xương Văn. Sử gọi chung đó là thời
**Ngô Văn thi** (chữ Hán: 吳文楚, ?– 1795), còn có tên là **Ngô Văn**, **Ngô Văn Thi**, là một danh tướng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Ngô** (吳) (229 - 1 tháng 5, 280) sử gọi là **Tôn Ngô** (孫吳) hay **Đông Ngô** (東吳) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc (220-280) trong lịch sử Trung Quốc. Trước đó,
**Ngô Đức Kế** (chữ Hán: 吳德繼; 1878 - 1929) tên thật là **Ngô Bình Viên**, hiệu **Tập Xuyên** (集川); là chí sĩ, và là nhà thơ, nhà báo Việt Nam ở đầu thế kỷ 20.
**Ngọ** (chữ Hán: 午), là một họ của người Trung Quốc và Việt Nam. ## Họ Ngọ Việt Nam Người Việt Nam mang họ Ngọ được ghi nhận trong lịch sử từ thời Lê trung
**_Bách Việt tiên hiền chí_** () là cuốn sách thuộc loại sử bộ do Âu Đại Nhậm đời Minh biên soạn, tổng cộng bốn quyển. Nội dung tác phẩm ghi chép rõ về thời đại,
**Việt Thường ** (chữ Hán: 越裳, còn được viết là 越常, 越嘗), còn gọi là **Việt Thường thị** (越裳氏)_ (尚書大傳) và _Hậu Hán thư '' thì vào năm thứ sáu kể từ khi Chu Công
**_Bình Ngô đại cáo_** là một tác phẩm hội họa bằng sơn mài được họa sĩ Nguyễn Văn Minh thực hiện vào năm 1966, với chủ đề lấy cảm hứng từ văn kiện lịch sử
Tại **Đại hội Thể thao Đông Nam Á thứ 16** được tổ chức tại Manila, Philippines. **Đoàn thể thao Việt Nam** gồm với 100 vận động viên, dưới sự dẫn dắt của các ông Đoàn
thumb|Tranh tuyên truyền chống Việt Nam của lực lượng KPNLF (Campuchia). **Chủ nghĩa bài Việt Nam** là những hành vi có tính bài xích, phân biệt đối xử, khủng bố và quan điểm chống Việt
Nếu trẻ kêu lên được có lẽ chỉ kêu một tiếng Mẹ ơi con cần mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha BS. Đỗ Hồng Ngọc. Lời ngỏ Viết cho các bà
**Việt Nam tham dự Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005** tại Philippines với 516 vận động viên, tranh tài 30 trên 40 môn thể thao. Bùi Thị Nhung là vận động viên mang
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Việt Nam 2000**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Diễn ra trong năm *Hoa hậu Toàn quốc Báo Tiền Phong 2000 ### Thể thao *Việt Nam
**Cán Việt,** còn gọi là **Hàn Việt,** **Cám Việt,** là một vương quốc cổ đại của người Bách Việt, phạm vi của nó chủ yếu nằm ở khu vực xung quanh hồ Bá Dương Giang
Thời [[nhà Hậu Lương (907-923) ]] **Ngô** (tiếng Trung: 吳), còn gọi là **Hoài Nam** (淮南) hay **Dương Ngô** (杨吴) hoặc **Nam Ngô** (南吴), là một trong mười nước tại miền Trung Nam Trung Quốc,
**Viện Toán học** là cơ quan nghiên cứu chuyên sâu cơ bản về toán học trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST). Viện được thành lập năm 1969 theo Nghị định
**Quan hệ Lào – Việt Nam** hay còn được biết đến với tên thông dụng là **Quan hệ hữu nghị Việt – Lào** là mối quan hệ cấp đặc biệt, đồng minh chiến lược theo
Dưới đây nội dung khái quát về những tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) đến nay. ### Hội Phản đế Đồng minh Hội Phản đế Đồng
**Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Atomic Energy Institute_, viết tắt VINATOM, tiền thân là Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt) là tổ chức sự nghiệp khoa học hạng đặc
**Hội Toán học Việt Nam** (_tiếng Anh: Vietnam Mathematicial Society - viết tắt: **VMS)**_ là một cộng đồng về nghiên cứu toán học ở Việt Nam. Được thành lập vào ngày 15 tháng 8 năm
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Ngô Đình Nhu** (7 tháng 10 năm 19102 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**_Đại Việt sử ký toàn thư_** (), đôi khi gọi tắt là **_Toàn thư_**, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt
**_Bình Ngô đại cáo_** (chữ Hán: 平吳大誥) là một bài cáo viết bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, giai đoạn này
**Ngô Thanh Vân** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979), hay còn được biết đến với nghệ danh **Veronica Ngo**, là một nữ diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu, nhà làm phim kiêm
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Trường Trung học Phổ thông Ngô Quyền** hay **Trường Bonnal**, trường **Bình Chuẩn** là một ngôi trường nằm trong hệ thống các trường Trung học Phổ thông công lập của Việt Nam được thành lập
**Ngô gia văn phái** (, thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX) có 2 nghĩa: # Là một nhóm các nhà văn Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện
**Quốc gia Việt Nam** () là một chính phủ thuộc Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa
**Ngô Tất Tố** (, 1893 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn