✨Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục
Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục (6 tháng 10 năm 1897 – 13 tháng 12 năm 1984) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa (Địa phận) Vĩnh Long và sau khi Toà Thánh thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960, ông được chọn đảm nhận chức Tổng giám mục Tổng Giáo phận Huế.
Ông là anh của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu, giữ vai trò quan trọng trong Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963). Ông đóng vai trò lớn với đạo Công giáo tại Việt Nam.
Thân thế
Gia đình
Ngô Đình Thục sinh ngày 6 tháng 10 năm 1897 tại Phủ Cam, Huế trong một gia đình vọng tộc. Ông là con thứ ba trong số chín người con của Micae Ngô Đình Khả (nguyên quán làng Đại Phong, xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình) – một quan đại thần nho giáo của triều Nguyễn, thời vua Thành Thái và Duy Tân. Tháng 11 năm 1919, Giám mục Eugène Allys Lý (1852–1936) gửi ông đi du học trường Truyền giáo Rôma. Trong quá trình du học Roma, Ngô Đình Thục đỗ các bằng cấp: Tiến sĩ Triết học năm 1922, Tiến sĩ Thần học năm 1926, cử nhân Văn chương và được vào yết kiến Giáo hoàng Piô XI năm 1922. Rồi từ Roma Ông được cử sang Pháp dạy đại học Sorbonne ở Paris.
Trên cương vị Giám mục Vĩnh Long, ông đã đặt một kiến trúc tư gia để làm trụ sở Tòa Giám mục, lập Tiểu Chủng viện Á Thánh Minh năm 1944 gồm 3 lớp, khai giảng ngày 15 tháng 8 năm 1944 ban đầu có 15 chủng sinh. Dòng Thầy giảng Cái Nhum được trùng tu và mang tên mới là Dòng Sư Huynh Kitô Vua. Cải tiến Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và Cái Nhum, các nữ tu được gửi đi học các trường trung học và đại học. Tổ chức khoá huấn luyện thanh niên, hoạt động Công giáo Tiến hành.: :Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận :...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.
Năm 1945, Giám mục Thục được mời ra Phát Diệm dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ, nhưng bị kẹt tại Biên Hòa nên phải trở lại Vĩnh Long. Trong thời kỳ rối ren ở Việt Nam những năm 1940, có nguồn tin cho rằng, Giám mục Thục đã tích cực vận động người Nhật bảo vệ cho ông Ngô Đình Diệm, do sợ chính phủ Pháp bắt giam ông Diệm vì ông có tinh thần chống Pháp. Nhật đáp lại bằng việc nhiều lần mời ông Diệm đứng ra lập chính phủ nhưng ông Diệm từ chối, vì ông nghĩ rằng chính phủ do Nhật hậu thuẫn sẽ không có khả năng tồn tại lâu bền tại Việt Nam thời bấy giờ.
Trong một dịp, Giám mục Ngô Đình Thục có cơ hội tiếp xúc với Hồng y Francis Spellman Giáo phận New York, kiêm Tuyên úy quân lực Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ngày 18 tháng 6 năm 1950, cùng với ông Diệm và ông Nguyễn Viết Cảnh, ông sang Hoa Kỳ và đến Rôma tham dự Năm Thánh. Ngày 14 tháng 8 năm 1950, hai anh em nhà Ngô rời Sài Gòn để sang Nhật gặp Cường Để bàn việc lập chính phủ. Như vậy, chính phủ của ông Ngô Đình Diệm đã được thành lập và đi vào hoạt động trên phần lãnh thổ Quốc gia Việt Nam và sau này hậu thân là Việt Nam Cộng hòa.
Sự kiện Phật Đản, 1963 bùng nổ ở miền Nam Việt Nam – nhất là ở Huế, khi chính phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo bên ngoài khuôn viên cơ sở Phật giáo làm Giám mục Thục lâm vào tình thế khó khăn để ứng phó.
Trước dư luận của nhiều người, nhất là người ngoài Công giáo, Giám mục Thục là người có tham vọng nhiều hơn so với các anh em trong Ngô gia, lúc thì ông tìm kiếm sự hỗ trợ của Tòa Thánh, lúc thì của Hoa Kỳ dành cho ông Diệm. Khi ông Diệm nắm chính quyền, theo tinh thần Công giáo, ông đã muốn nhân cơ hội này tích cực truyền bá đức tin Công giáo cho quần chúng Việt Nam. Việc ông làm Tổng Giám mục Huế cũng gây ra những đàm tiếu, chỉ trích và ác cảm vì vùng đất Huế vốn là nơi có nhiều người sùng tín Phật giáo.
Năm 1963, cả bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa được cho rằng ráo riết tổ chức kỉ niệm 25 năm giám mục cho Tổng giám mục Ngô Đình Thục. Linh mục Trần Tam Tỉnh đã thuật lại việc tổ chức mừng lễ này như sau trong quyển biên khảo Thập giá và lưỡi gươm (Nhà xuất bản Sud Est Asie, Paris, 1978): "Từ tháng ba, một ủy ban ngân khánh đã được thành lập do chủ tịch quốc hội là chủ tịch với nhiều vị bộ trưởng và nhân vật tên tuổi làm ủy viên. Người ta tổ chức tại Sài Gòn một bữa tiệc mà mỗi thực khách phải đóng 5.000 đồng (tương đương nửa lượng vàng thời điểm đó, chú thích của TTCN). Người ta muốn biến lễ ngân khánh này thành quốc lễ" (tr.135).
Từ vị trí anh của tổng thống, Thục đã đồng hóa vai trò lãnh đạo tôn giáo của mình với lãnh đạo đất nước. Linh mục Trần Tam Tỉnh viết:
Tông truyền (Công giáo)
Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục được tấn phong giám mục năm 1938, thời Giáo hoàng Piô XI, bởi:
- Chủ phong: Tổng giám mục Antonin-Fernand Drapier, O.P., Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương.
- Hai giám mục phụ phong: Isidore-Marie-Joseph Dumortier, M.E.P, Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Sài Gòn và Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn, nguyên Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Bùi Chu.
Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đóng vai trò chủ phong trong nghi thức truyền chức cho giám mục:
- Năm 1955, giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, hiện là cố giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt.
- Năm 1955, giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, hiện là cố tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
- Năm 1961, giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ, hiện là cố giám mục chính tòa Giáo phận Long Xuyên.
- Năm 1961, giám mục Giuse Trần Văn Thiện, hiện là cố giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho.
- Năm 1961, giám mục Antôn Nguyễn Văn Thiện, hiện là cố giám mục chính tòa Giáo phận Vĩnh Long.
- Năm 1961, giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền, hiện là cố tổng giám mục Tổng giáo phận Huế.
Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức cho các giám mục:
- Năm 1941, giám mục Jean Cassaigne Sanh, hiện là cố Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Sài Gòn.
- Năm 1944, giám mục Paul Raymond-Marie-Marcel Piquet Lợi, M.E.P., hiện là cố giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang.
- Năm 1948, giám mục Jean-Baptiste Urrutia Thi, cố tổng giám mục, Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Huế.
- Năm 1950, giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, cố giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng.
- Năm 1951, giám mục John Jarlath Dooley, S.S.C.M.E., cố Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương, thành viên Phủ Quốc vụ Khanh Tòa Thánh.
- Năm 1953, giám mục Giuse Trương Cao Đại, cố Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Hải Phòng.
- Năm 1956, giám mục Gustave-André-Ferdinand Raballand, M.E.P., cố Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Toà Phnom Penh.
- Năm 1962, giám mục Salvatore Asta, cố Sứ thần Tòa Thánh tại Bồ Đào Nha