✨Nhà Minh
Nhà Minh, quốc hiệu chính thức là Đại Minh, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo. Nhà Minh là hoàng triều Trung Quốc cuối cùng của người Hán. Mặc dù kinh đô chính Bắc Kinh đã thất thủ vào năm 1644, trước cuộc nổi dậy do Lý Tự Thành (người thành lập nhà Đại Thuận sớm bị thay thế bởi nhà Thanh của người Mãn Châu) cầm đầu, nhiều quốc gia tàn dư được cai trị bởi những thành viên còn lại của hoàng tộc nhà Minh – gọi chung là Nam Minh – vẫn tồn tại đến năm 1662.
Minh Thái Tổ ra sức xây dựng một xã hội gồm các cộng đồng nông thôn tự túc được sắp xếp theo một hệ thống khắt khe, bất dịch, nhằm đảm bảo và hỗ trợ một lớp binh lính dài hạn cho triều đại của mình; quân đội thường trực của đế quốc có quân số hơn một triệu người và các xưởng đóng tàu hải quân ở Nam Kinh là lớn nhất thế giới đương thời. Minh Thái Tổ cũng rất cẩn thận trong việc tiêu trừ quyền lực của tầng lớp hoạn quan và các đại thần ngoại tộc, phân phong lãnh thổ cho nhiều người con trai trên khắp Trung Quốc rồi cố gắng răn dạy các vương gia này thông qua Hoàng Minh Tổ huấn, một bộ chỉ thị rường cột được ban hành từ trước. Hoạch định của Minh Thái Tổ sớm đổ bể khi hoàng đế thiếu niên kế vị ông, Minh Huệ Tông, cố gắng hạn chế quyền lực trong tay những người chú của mình, thúc đẩy chiến dịch Tĩnh Nan, một cuộc nổi dậy đưa Minh Thành Tổ lên ngai vàng vào năm 1402. Minh Thành Tổ chọn Yên Kinh làm kinh đô mới, đổi tên nơi này thành Bắc Kinh, cho xây dựng Tử Cấm thành, khôi phục Đại Vận Hà và đưa các kỳ khoa cử trở lại vị trí số một trong công tác tuyển dụng quan lại. Ông tưởng thưởng cho các hoạn quan phò tá mình, dùng họ như một đối trọng chống lại các sĩ đại phu Nho giáo. Hoạn quan Trịnh Hòa là người dẫn đầu bảy chuyến hải trình lớn thăm dò Ấn Độ Dương, đến tận Ả Rập và các bờ biển phía đông châu Phi.
Sự phung phí tài nguyên được các tân hoàng đế và đảng phái mới trong triều đình hạn chế bớt, chấm dứt hoàn toàn sau khi Minh Anh Tông bị bắt trong trận Thổ Mộc bảo năm 1449. Triều đình để cho quân chủng hải quân ngày một xuống cấp trong khi điều động lao dịch xây dựng tường rào Liêu Đông, kết nối và gia cố các đoạn Vạn lý Trường thành như hình hài của nó ngày nay. Các cuộc điều tra dân số rộng khắp đế quốc vẫn được tiến hành mười năm một lần, nhưng mong muốn trốn tránh lao dịch và sưu thuế của dân chúng, cùng với những trở ngại trong việc bảo quản, xem xét các kho lưu khổng lồ ở Nam Kinh khiến người ta khó mà thu được số liệu chính xác. Ước tính dân số cuối thời nhà Minh dao động từ khoảng 160 đến 200 triệu người, các khoản thu cần thiết bị vắt kiệt từ số lượng nông dân ngày càng ít đi do có nhiều hơn những người biến mất khỏi các biên bản chính thức hoặc "tặng" đất đai của mình cho hoạn quan hay nhà chùa được miễn thuế. Luật Hải cấm vốn để bảo vệ bờ biển khỏi "hải tặc Nhật Bản", biến nhiều người dân trở thành tội phạm buôn lậu hoặc cướp biển.
Đến thế kỷ 16, việc châu Âu mở rộng thương mại – mặc dù chỉ giới hạn ở các hòn đảo gần Quảng Châu như Ma Cao – đã mang nhiều loài thực vật, động vật và hoa màu từ châu Mỹ đến Trung Quốc, đưa ớt vào ẩm thực Tứ Xuyên, giới thiệu ngô và khoai tây năng suất cao, những loại lương thực làm giảm nạn đói, thúc đẩy gia tăng dân số. Hoạt động giao thương phát triển của Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan, sản sinh nhu cầu mới đối với hàng hóa Trung Quốc cũng như tạo ra một dòng nhập khẩu bạc khổng lồ từ Nhật Bản và Tân Thế giới. Lượng kim loại dồi dào này đã tái tiền tệ hóa kinh tế nhà Minh khi mà tiền giấy bị siêu lạm phát nhiều lần và không còn được tin dùng. Trong khi các nhà Nho truyền thống phủ nhận vai trò hết sức nổi bật của thương mại cùng lớp người giàu mà nó vừa tạo nên, trường phái Nho giáo phi chính thống được Vương Dương Minh giới thiệu lại có một thái độ ôn hòa hơn. Những cải cách thành công ban đầu của Trương Cư Chính tỏ rõ sự tàn phá khi nền nông nghiệp lâm vào tình trạng đình đốn do tác động của Tiểu băng hà cùng với những thay đổi trong chính sách của Nhật Bản và Tây Ban Nha khiến nguồn cung bạc cần thiết để nông dân nộp thuế nhanh chóng bị cắt đứt. Những nhân tố kể trên kết hợp với mất mùa, lũ lụt và dịch bệnh khiến nhà Minh sụp đổ trước cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành. Không lâu sau, người Mãn Châu lãnh đạo Bát kỳ tiêu diệt Lý Tự Thành, sáng lập nhà Thanh.
Từ nguyên
“Minh” (tức “ánh sáng”) được cho là có liên quan mật thiết tới Minh giáo. Theo tôn giáo này, vũ trụ là chiến trường bất tận giữa hai thế lực ánh sáng (thiện) và bóng tối (ác). Từ năm 1367, triều đình Chu Nguyên Chương đã coi Minh giáo và nhiều tín ngưỡng dân gian khác là ô uế và dị đoan. Nhiều nghi vấn trong việc đặt tên triều đại khi chính Chu Nguyên Chương cũng sớm nhận thức được Minh giáo là một vết nhơ đối với uy tín hoàng gia. Không có lời giải thích nào thực sự thỏa đáng, người ta chỉ phỏng đoán các cố vấn Nho giáo vẫn chưa tẩy được hết sự mê tín khỏi tư duy của tân hoàng đế.
Trái với truyền thống Trung Quốc, Chu Nguyên Chương học theo người Mông Cổ, chọn tên triều đại biểu trưng tư tưởng thay vì theo tên khu vực địa lý. Ông không đặt tên triều đại là "Ngô" dù từng giữ tước Ngô Quốc công và Ngô vương. Hoàng đế có thể đã hy vọng rằng bóng dáng Minh giáo sẽ lu mờ trước những ý nghĩa tốt đẹp của từ “minh” – tượng trưng cho sự thông tuệ của nhà cai trị.
Lãnh thổ
Lãnh thổ do hoàng đế nhà Minh và các quan chức dưới quyền cai quản, rộng lớn hơn lãnh thổ của bất kỳ triều đại người Hán nào kể từ thời Thịnh Đường vào thế kỷ thứ 8, bao quát hầu hết những gì mà người phương Tây vẫn thường gọi là Trung Quốc bản thổ. Nằm trong khoảng từ vĩ độ 40 đến vĩ độ 20 và từ kinh độ 100 đến kinh độ 120, lãnh thổ nhà Minh vuông vức có diện tích chừng 1.500.000 lý vuông. Nó trải dài 1.200 lý về phía nam, từ Vạn lý Trường thành tới Biển Đông và trải rộng 1.200 lý về phía tây, từ bờ tây Thái Bình Dương tới sơn nguyên Tây Tạng. Đầu triều đại, Bắc Bộ Việt Nam ngày nay cũng được sáp nhập vào lãnh thổ nhà Minh. Trong suốt triều đại, quân đội nhà Minh đồn trú và thống trị vùng biên giới phía đông bắc, bắc và tây bắc Trung Quốc bản thổ. Do đó, có thể cảm nhận được quyền lực chính quyền nhà Minh từ Cáp Mật ở Nội Á tới tận Hắc Long Giang và biên giới Triều Tiên ở viễn đông.
Lịch sử
Thành lập
Nổi dậy và cạnh tranh với các tập đoàn phiến quân
Trước khi nhà Minh thành lập, Trung Quốc được cai trị bởi nhà Nguyên (1271–1368) của người Mông Cổ. Thể chế kỳ thị sắc tộc Hán sâu sắc, chế độ thuế khóa nặng nề ở những khu vực bị ảnh hưởng trầm trọng bởi lạm phát và các trận lụt ven sông Hoàng Hà do công tác trị thủy bị bỏ ngõ là ba trong số nhiều nguyên nhân khiến nhà Nguyên diệt vong. Cuối triều đại, tình hình nông nghiệp, kinh tế rơi vào hỗn loạn, các cuộc nổi dậy bùng phát giữa hàng trăm nghìn nông dân được ra lệnh phải tu sửa các con đê dọc sông Hoàng Hà. Năm 1351, vài nhóm phiến quân người Hán bắt đầu tổ chức khởi nghĩa, trong đó có Hồng Cân quân. Hồng Cân quân có liên hệ mật thiết với Bạch Liên giáo, một giáo phái Phật giáo. Chu Nguyên Chương, một nông dân bần cùng kiêm nhà sư, gia nhập Hồng Cân quân vào năm 1352. Ông sớm nổi danh sau khi kết hôn với con gái nuôi của một vị chỉ huy phiến quân. Năm 1356, Chu Nguyên Chương và lực lượng của mình chiếm được thành Nam Kinh, nơi sau này được ông chọn làm kinh đô của nhà Minh.
Trước sự sụp đổ của nhà Nguyên, các nhóm phiến quân bắt đầu tranh giành quyền kiểm soát đất nước để kiến lập nên một triều đại mới. Năm 1363, Chu Nguyên Chương loại bỏ Trần Hữu Lượng, kẻ thù lớn nhất của ông và cũng đang là thủ lĩnh của nhóm phiến quân Đại Hán, trong trận hồ Bà Dương được xem là một trong những trận thủy chiến lớn nhất lịch sử. Nhờ sử dụng hỏa thuyền, 20 vạn thủy quân Minh của Chu Nguyên Chương đã đánh bại quân Đại Hán có quy mô lớn gấp 3 lần với quân số khoảng 65 vạn. Chiến thắng này đặt dấu chấm hết cho tập đoàn phiến quân đối lập cuối cùng, giúp Chu Nguyên Chương giành quyền kiểm soát lưu vực sông Dương Tử trù phú và củng cố quyền lực ở phía nam. Không còn ai có khả năng tranh đoạt ngai vàng với Chu Nguyên Chương sau khi thủ lĩnh Hồng Cân quân chết một cách đáng ngờ trong lúc đang làm khách của họ Chu vào năm 1367. Năm 1368, Chu Nguyên Chương cử một đạo quân tới kinh đô Đại Đô của nhà Nguyên (Bắc Kinh ngày nay) để hiện thực hóa tham vọng đế vương. Hoàng đế Nguyên Mông cuối cùng buộc phải tháo chạy đến Thượng Đô. Chu Nguyên Chương cho san bằng cung điện ở Đại Đô, tuyên bố khai sinh nhà Minh; cùng năm đó, Đại Đô được đổi tên thành Bắc Bình. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, lấy niên hiệu là Hồng Vũ.
Triều đại của Minh Thái Tổ
nhỏ|trái|Chân dung [[Minh Thái Tổ (), hoàng đế khai quốc nhà Minh. |309x309px]] Minh Thái Tổ lập tức nỗ lực tái thiết cơ sở hạ tầng quốc gia. Ông cho xây dựng một bức tường thành dài 48 km bao quanh Nam Kinh, cùng với các cung điện và hội trường chính phủ mới. Minh sử ghi nhận rằng ngay từ năm 1364, Chu Nguyên Chương đã bắt đầu cho biên soạn một bộ luật Nho mới có tên Đại Minh luật, hoàn thành vào năm 1397 và kế thừa một vài điều luật còn sót lại trong bộ luật cũ ra đời năm 653 của nhà Đường. Minh Thái Tổ tổ chức hệ thống quân đội theo chế độ vệ sở, tương tự như phủ binh chế thời nhà Đường (618–907).
Năm 1380, Minh Thái Tổ xử tử Tể tướng Hồ Duy Dung vì nghi ngờ ông này có âm mưu đảo chính. Sau sự kiện trên, Minh Thái Tổ bãi bỏ chức vụ tể tướng, tự mình vừa làm hoàng đế vừa trực tiếp tổng điều hành chính sự, một tiền lệ được đa phần các hoàng đế nhà Minh kế tiếp noi theo. Ngày càng ngờ vực thần dân và giới quan lại đại thần, Minh Thái Tổ quyết định thành lập Cẩm Y vệ, một mạng lưới cảnh sát mật được tuyển chọn từ chính đội cận vệ của ông. Trong những năm Hồng Vũ, khoảng 10 vạn người đã bị hành quyết trong một loạt vụ thanh trừng của hoàng đế khai quốc nhà Minh.
Minh Thái Tổ ban hành nhiều sắc lệnh cấm truyền bá phong tục của người Mông Cổ, tuyên bố ý định thanh lọc hết mọi yếu tố du mục khỏi văn hóa Trung Hoa. Dù vậy, ông vẫn khéo léo sử dụng các di sản của nhà Nguyên để hợp pháp hóa quyền lực trên toàn Trung Quốc và cả nhiều khu vực khác từng được nhà Nguyên cai trị. Minh Thái Tổ duy trì một vài chính sách của nhà Nguyên, chẳng hạn như yêu cầu Triều Tiên cống nạp phi tần, hoạn quan, giữ lại thể chế quân sự cha truyền con nối kiểu Mông Cổ, bảo tồn phong cách quần áo, mũ nón của người Mông Cổ, cổ vũ hoạt động cưỡi ngựa, bắn cung và để một số lượng lớn người Mông Cổ phục vụ quân đội nhà Minh. Cho đến cuối thể kỷ 16, người Mông Cổ vẫn chiếm 1/3 số nhân lực phục vụ trong các đơn vị đóng tại kinh đô như Cẩm Y vệ, cùng với nhiều chủng dân khác, nhất là người Nữ Chân. Minh Thái Tổ thường xuyên gửi thư tới các nhà cai trị của các quốc gia láng giềng ở Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, Mãn Châu, Tây Tạng và phía tây nam Trung Quốc, để cho lời khuyên về đường lối chính sách mà chính phủ và cả triều đại của họ nên áp dụng, cũng như nhấn mạnh việc các nhà lãnh đạo này phải đến tiếp kiến hoàng đế ở Nam Kinh. Ông tổ chức tái định cư cho khoảng 10 vạn người Mông Cổ trên lãnh thổ nhà Minh, rất nhiều trong số đó tập hợp thành các vệ sở ở kinh đô. Hoàng đế cũng thường xuyên quảng bá về sự khoan đãi và vị trí mà ông ban cho giới quý tộc Chinggisid trong triều đình.
Lãnh thổ Tây Nam
Tại Thanh Hải, người Hồi giáo Tát Lạp tự nguyện thần phục nhà Minh khi các tộc trưởng của họ đầu hàng vào khoảng năm 1370. Quân đội Duy Ngô Nhĩ dưới quyền tướng Ha Lặc Ba Sĩ, đàn áp các cuộc nổi dậy của người Miêu trong những năm 1370 và định cư ở Thường Đức, Hồ Nam. Người Hồi cũng định cư ở Thường Đức sau khi phục vụ nhà Minh trong các chiến dịch dẹp loạn thổ dân. Năm 1381, nhà Minh sáp nhập các khu vực phía tây nam từng là một phần của Vương quốc Đại Lý khi quân Hồi đánh bại lực lượng người Hồi và Mông Cổ trung thành với nhà Nguyên, phản kháng ở Vân Nam. Tướng Mộc Anh được bổ nhiệm làm tổng đốc Vân Nam, cho binh lính người Hồi của mình tái định cư ngay tại đây như một biện pháp thuộc địa hóa. Cuối thế kỷ 14, khoảng 20 vạn "thực dân" đã sinh sống trên khoảng 2 triệu mẫu đất ở hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu ngày nay. Trong những giai đoạn tiếp theo, lại có thêm nửa triệu người Trung Quốc di cư đến các vùng đất kể trên. Chính những cuộc di cư này đã gây ra sự thay đổi lớn về thành phần sắc tộc khi mà trước đây hơn một nửa số dân trong khu vực đều không phải là người Hán. Giữa hai năm 1464 và 1466, phẫn nộ trước những biến chuyển sắc tộc quá lớn cũng như bất bình với sự hiện diện và chính sách của chính quyền, người Miêu cùng người Dao đứng lên nổi loạn, nhưng bị 3 vạn quân triều đình (bao gồm 1 nghìn lính Mông Cổ) phối hợp với 16 vạn quân địa phương ở Quảng Tây đè bẹp. Sau khi bình định một cuộc nổi loạn khác trong khu vực, học giả kiêm triết gia Vương Dương Minh (1472–1529) chủ trương quản lý đơn lẻ, thống nhất người Hán với các nhóm dân tộc bản địa, để tiện bề Hán hóa dân địa phương.
Chiến dịch miền Đông Bắc
nhỏ|trái|[[Vạn lý Trường thành; mặc dù công trình này được khởi công từ tận thời nhà Tần, nhưng những đoạn tường thành còn sót lại mà chúng ta thấy ngày nay, chủ yếu được xây dựng vào thời nhà Minh.|190x190px]]Ngay cả khi Đế quốc Nguyên Mông đã bị nhà Minh lật đổ vào năm 1368, vùng Mãn Châu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của nhà Bắc Nguyên định đô ở bình nguyên Mông Cổ. Nạp Cáp Xuất, cựu quan chức nhà Nguyên và là tướng lĩnh vùng Ngột Lương Cáp của Bắc Nguyên, giành được quyền bá chủ các bộ tộc Mông Cổ trên khắp Mãn Châu (trước đây là tỉnh Liêu Dương của nhà Nguyên). Ông khuếch trương quân đội ở miền đông bắc, sở hữu một lực lượng có quân số lên đến hàng chục vạn, đủ để đe dọa xâm lược nhà Minh mới thành lập, khôi phục lại quyền lực cho người Mông Cổ. Nhà Minh quyết định ra tay trước thay vì chờ người Mông Cổ uy hiếp. Năm 1387, họ tổ chức một chiến dịch quân sự tấn công Nạp Cáp Xuất, kết thúc thắng lợi khi bắt Nạp Cáp Xuất đầu hàng và chinh phục được Mãn Châu.
Ban đầu, triều đình nhà Minh không và cũng không thể áp đặt quyền kiểm soát tộc Nữ Chân như người Mông Cổ từng làm ở Mãn Châu, nhưng họ đã tạo ra một bộ quy tắc tổ chức mà sau này trở thành phương tiện chính cho mối quan hệ với các dân tộc dọc biên giới đông bắc. Cuối thời Minh Thái Tổ, những đường lối cốt yếu trong chính sách với người Nữ Chân đã được hình thành. Nhà Minh cho đặt nhiều vệ sở ở Mãn Châu, nhưng đây không hẳn là một động thái mang tính ngầm kiểm soát chính trị khu vực. Năm 1409, triều đình nhà Minh dưới thời Minh Thành Tổ thành lập Nô Nhi Can đô ty đặt bên bờ sông Hắc Long Giang. Diệc Thất Cáp, một hoạn quan gốc Hải Tây Nữ Chân, được cử tới cửa sông Hắc Long Giang để bình định Dã Nhân Nữ Chân. Năm 1435, sau khi Minh Thành Tổ băng hà, Nô Nhi Can đô ty bị giải thể. Triều đình nhà Minh không còn duy trì hoạt động đáng kể ở Mãn Châu, mặc dù vẫn để lại nhiều vệ sở tại đây. Cuối thời nhà Minh, mức độ hiện diện chính trị của người Hán tại Mãn Châu đã suy giảm đáng kể.
Quan hệ với Tây Tạng
nhỏ|Một đường tạp Tây Tạng thế kỷ 17, khắc họa Mật Tập Kim Cương. Triều đình nhà Minh thu nhận nhiều cống phẩm bản địa Tây Tạng, và tặng lại quà cho những người mang cống phẩm.|246x246px
Theo Minh sử – bộ chính sử được triều Thanh biên soạn vào năm 1739, nhà Minh đã cho thành lập nhiều hành đô sứ ty giám sát chính quyền Tây Tạng, đồng thời gia hạn tước vị cho các cựu quan chức nhà Nguyên và phong tước vị mới cho các nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng. Tuy nhiên, theo Turrell V. Wylie, hoạt động kiểm duyệt Minh sử đã góp phần củng cố uy tín và danh tiếng cho hoàng đế nhà Minh khi bằng mọi giá che mờ đi lịch sử sắc thái quan hệ Hán–Tạng trong suốt triều đại.
Các học giả hiện đại vẫn còn đang tranh luận về việc liệu nhà Minh có chủ quyền thực sự đối với Tây Tạng hay không. Một số người tin rằng đó chỉ là mối quan hệ chư hầu lỏng lẻo và đã gần như chấm dứt hẳn sau khi Minh Thế Tông () đàn áp Phật giáo, tôn sùng Đạo giáo trong triều đình. Số khác thì lại cho rằng bản chất tôn giáo quan trọng trong mối quan hệ với các Lạt-ma Tây Tạng, đã không được đề cập đầy đủ trong các phân tích học thuật hiện đại. Cũng có một vài ý kiến tập trung vào việc nhà Minh rất cần chiến mã Trung Á, cũng như luôn muốn duy trì hoạt động đổi trà lấy ngựa với Tây Tạng.
Trong thế kỷ 14, người Tây Tạng chặn đứng thành công nhiều cuộc xâm lược vũ trang của nhà Minh. Vài học giả chỉ ra rằng không giống như người Mông Cổ trước kia, nhà Minh không đóng quân thường trực ở Tây Tạng. Minh Thần Tông () nỗ lực hàn gắn quan hệ ngoại giao Hán–Tạng sau khi liên minh Mông Cổ–Tây Tạng được thành lập vào năm 1578, một liên minh ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của cả triều đình nhà Thanh (1644–1912) sau này trong việc phải ủng hộ các Đạt-lai Lạt-ma phái Mũ vàng. Đến cuối thế kỷ 16, người Mông Cổ chứng minh là họ hoàn toàn có khả năng làm lá chắn vũ trang cho các Đạt-lai Lạt-ma khi ngày càng hiện diện nhiều hơn ở vùng An Đa, đỉnh điểm là vào năm 1642, khi Cố Thủy Hãn (1582–1655) chinh phục Tây Tạng, thành lập Hãn quốc Hòa Thạc Đặc.
Triều đại của Minh Thành Tổ
Thâu tóm quyền lực
trái|nhỏ|Chân dung [[Minh Thành Tổ ().|283x283px]] Minh Thái Tổ chỉ định cháu nội Chu Doãn Văn làm người kế vị. Khi Minh Thái Tổ băng hà vào năm 1398, Minh Huệ Tông Chu Doãn Văn (1398–1402) nối ngôi, lấy niên hiệu là Kiến Văn. Chu Đệ, đứa con quyền lực đồng thời đang nắm giữ binh lực hùng hậu nhất của Minh Thái Tổ, không công nhận tân hoàng đế. Ngay sau đó, Chu Đệ và Minh Huệ Tông bước vào một cuộc đấu chính trị. Trước việc nhiều đồng minh bị Minh Huệ Tông bắt giam, Chu Đệ bắt đầu âm mưu cướp ngôi, dấy lên một cuộc nội chiến kéo dài ba năm. Viện cớ muốn cứu Minh Huệ Tông trẻ tuổi khỏi bè lũ gian thần, Chu Đệ đích thân lãnh đạo phiến quân tiến hành nổi dậy. Ông cho thiêu rụi thành Nam Kinh. Minh Huệ Tông, vợ, mẹ cùng các cận thần của ông đều chết trong trận hỏa hoạn. Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Lạc. Triều đại của Minh Thành Tổ được các học giả xem như "lần khai sinh thứ hai" của nhà Minh vì ông đã đảo ngược nhiều chính sách của cha mình.
Kinh đô mới và quan hệ quốc tế
Nam Kinh trở thành thứ kinh khi Minh Thành Tổ chọn Bắc Kinh là kinh đô mới vào năm 1403. Kinh đô mới được thi công từ năm 1407 đến năm 1420, huy động hàng nghìn nhân công mỗi ngày. Trung tâm của Bắc Kinh là Hoàng thành, nằm giữa Hoàng thành là Tử Cấm thành, một tổ hợp cung điện nguy nga của hoàng đế và gia đình. Năm 1553, Ngoại thành được xây dựng thêm ở phía nam, mở rộng chu vi Bắc Kinh từ khoảng 6,5 lên thành 7 km. nhỏ|[[Thập Tam Lăng|Thập Tam lăng cách Bắc Kinh 50 km về phía bắc; Minh Thành Tổ là người chọn địa điểm đặt khu mộ.|190x190px]] Bắt đầu từ năm 1405, Minh Thành Tổ đã giao cho viên hoạn quan được ông rất sủng ái là Trịnh Hòa (1371–1433) làm đô đốc một hạm đội mới phục vụ cho sứ mệnh triều cống quốc tế. Người Trung Quốc từng cử các phái đoàn ngoại giao đường bộ tới các quốc gia khác từ tận thời nhà Hán (202 TCN–220 CN) và cũng đã giao thương đường thủy từ lâu, nhưng những phái bộ của Trịnh Hòa là lớn chưa từng có. Để phục vụ bảy chuyến hải trình khác nhau, từ năm 1403 đến năm 1419, các xưởng đóng tàu ở Nam Kinh đã đóng hai nghìn con tàu, bao gồm cả các bảo thuyền có chiều dài từ 112 m đến 134 m, chiều rộng từ 45 m đến 54 m.
Minh Thành Tổ khuyến khích kỹ thuật in khắc gỗ để truyền bá văn hóa Trung Hoa. Ông cũng sử dụng sức mạnh quân đội để mở rộng cương vực lãnh thổ. Xâm lược thành công Đại Ngu vào năm 1406, nhà Minh tiếp tục chiếm đóng quốc gia này cho đến năm 1427, khi buộc phải rút quân vì thất bại trước cuộc chiến tranh du kích do Lê Lợingười sáng lập nhà Hậu Lêlãnh đạo.
Sự biến Thổ Mộc bảo và binh lính gốc Mông Cổ
nhỏ|Một con [[hươu cao cổ châu Phi được quốc vương Bengal tặng cho Minh Thành Tổ. Theo một số thuyết thì kỳ lân được cách điệu theo con hươu cao cổ này.|375x375px]] Tháng 7 năm 1449, thủ lĩnh tộc Ngõa Lạt là Dã Tiên, phát động chiến dịch xâm lược nhà Minh. Sau vài chiến bại của quân Minh, hoạn quan Vương Chấn khích lệ Minh Anh Tông () đích thân cầm quân đánh giặc. Minh Anh Tông rời kinh đô, để người em cùng cha khác mẹ Chu Kỳ Ngọc nhiếp chính tạm thời. Ngày 8 tháng 9 năm 1449, Dã Tiên đại phá quân Minh, bắt sống Minh Anh Tông trong sự biến Thổ Mộc bảo. Người Ngõa Lạt định giữ lại Minh Anh Tông để đòi tiền chuộc. Tuy nhiên, kế hoạch của họ phá sản khi em trai hoàng đế lên ngôi với niên hiệu Cảnh Thái (), tức Minh Đại Tông. Quân Ngõa Lạt bị đẩy lùi khi tâm phúc của Minh Đại Tông, Thượng thư Binh bộ Vu Khiêm (1398–1457), giành được quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang của nhà Minh. Chừng nào vẫn còn người khác ngồi trên ngai vàng thì việc lấy Minh Anh Tông để mặc cả là vô ích, vì vậy người Ngõa Lạt đành phải phóng thích Minh Anh Tông. Cựu hoàng bị quản thúc nghiêm ngặt trong hoàng cung cho đến khi lật đổ Minh Đại Tông vào năm 1457, bằng một cuộc đảo chính gọi là "Đoạt Môn chi biến". Minh Anh Tông lên ngôi với niên hiệu mới là Thiên Thuận ().
Triều đình nhà Minh gặp nhiều khó khăn trong những năm Thiên Thuận. Lực lượng Mông Cổ trong cơ cấu quân đội tiếp tục có vấn đề. Ngày 7 tháng 8 năm 1461, Tào Khâm và binh lính gốc Mông Cổ của ông tổ chức một cuộc đảo chính chống lại Minh Anh Tông vì sợ rằng mình sẽ là người tiếp theo trong danh sách thanh trừng sau Đoạt Môn chi biến. Tào Khâm cùng người của mình cố gắng phóng hỏa cổng phía đông và phía tây Hoàng thành (vốn đã dầm mưa trong suốt trận chiến), giết được một vài đại thần trước khi bị dồn vào chân tường rồi buộc phải tự sát.
Trong khi Minh Thành Tổ từng năm lần thảo phạt người Ngõa Lạt và Mông Cổ ở phía bắc Vạn lý Trường thành, triều đình nhà Minh từ cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16 lại phải gia cố Vạn lý Trường thành để đối phó với mối đe dọa xâm lược liên tục từ người Ngõa Lạt. John K. Fairbank lưu ý rằng "điều đó đã được chứng minh là một động thái quân sự vô ích, nhưng thể hiện một cách sinh động tâm thế vây hãm của người Trung Quốc." Vạn lý Trường thành không phải là một công sự phòng thủ thuần túy, hệ thống tháp canh của nó hoạt động như một dạng đèn hiệu và trạm truyền tin, có chức năng cảnh báo nhanh cho những đơn vị lân cận biết về các đợt tiến công của quân địch.
Sự suy tàn và sụp đổ của nhà Minh
Cuối thời Minh Thần Tông
nhỏ|[[Minh Thần Tông () trong bộ triều phục.|255x255px]]
Tình trạng ngân khố kiệt quệ do chiến tranh Nhâm Thìn gây ra là một trong nhiều vấn đề – liên quan tới tài chính và các lĩnh vực khác – mà nhà Minh phải đối mặt trong giai đoạn trị vì của Minh Thần Tông (1572–1620). Đầu triều đại, Minh Thần Tông được bao quanh bởi những cố vấn có năng lực và đã rất tận tâm giải quyết công việc nhà nước. Phụ chính đại thần Trương Cư Chính (1572–82) xây dựng một mạng lưới liên minh hiệu quả giữa các quan chức cấp cao. Tuy nhiên, không còn ai kế tục Trương Cư Chính duy trì sự ổn định của các liên minh này, các quan chức sớm tập hợp thành những bè phái chính trị đối lập nhau. Theo thời gian, Minh Thần Tông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với công việc triều chính và những màn đấu khẩu chính trị giữa các đại thần. Ông chọn nép mình phía sau những bức tường ở Tử Cấm thành, khuất mắt bề tôi của mình.
Giới sĩ đại phu mất dần chỗ đứng trong hoạt động quản lý chính vụ khi các hoạn quan trở thành trung gian giữa họ với vị hoàng đế xa cách. Bất kỳ đại thần nào muốn thảo luận vấn đề quốc gia đều phải hối lộ đám hoạn quan lộng quyền, chỉ để yêu cầu hoặc thông điệp của họ được chuyển đến hoàng đế. Cùng lúc với chiến tranh Nhâm Thìn, loạn Bá Châu cũng đang bùng nổ.
Vai trò của hoạn quan
trái|nhỏ|Tách trà thời [[Minh Hy Tông, từ Bộ sưu tập Nantoyōsō ở Nhật Bản; Minh Hy Tông chịu ảnh hưởng nặng nề và bị kiểm soát bởi hoạn quan Ngụy Trung Hiền (1568–1627).|190x190px]]
Minh Thái Tổ từng cấm hoạn quan được học chữ và tham gia chính trường. Dù những giới luật này có được thực hiện thành công tuyệt đối trong thời Minh Thái Tổ hay không thì các hoạn quan kể từ thời Minh Thành Tổ vẫn quản lý nhiều công xưởng hoàng gia, chỉ huy quân đội và can thiệp công tác bổ nhiệm, thăng chức quan lại. Minh Thành Tổ giao cho 75 hoạn quan phụ trách đối ngoại, họ thường xuyên viếng thăm các quốc gia chư hầu như An Nam, Mông Cổ, Lưu Cầu và Tây Tạng, ít thường xuyên với những nơi xa hơn như Nhật Bản và Nepal. Tuy nhiên, tới cuối thể kỷ 15, các sứ thần hoạn quan chỉ còn thường ghé thăm Triều Tiên.
Giới hoạn quan đã phát triển bộ máy quan liêu của riêng họ, được tổ chức song song nhưng không bị bộ máy công vụ quản lý. Mặc dù có một số hoạn quan tiếm quyền trong suốt triều đại, chẳng hạn như Vương Chấn, Vương Trực, Lưu Cẩn, nhưng quyền lực chuyên chế quá mức của hoạn quan chỉ thực sự rõ ràng khi Minh Thần Tông gia tăng quyền hạn của bộ máy dân sự và trao cho họ quyền thu thuế ở các tỉnh thành trong những năm 1590.
Hoạn quan Ngụy Trung Hiền (1568–1627) khuynh đảo triều chính dưới thời Minh Hy Tông (), ông tra tấn đến chết các đối thủ chính trị của mình, phần đa là người của phái Đông Lâm. Ngụy Trung Hiền dựng nhiều đền đài tôn vinh bản thân trên khắp đất nước, dùng tiền từ quỹ lăng tẩm hoàng gia để xây cất tư dinh. Bạn bè và người thân của ông được nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng mà không cần bằng cấp. Ngụy Trung Hiền cũng cho xuất bản nhiều tác phẩm lịch sử chê bai, coi thường các chính trị gia đối lập. Khi thiên tai, ôn dịch, nội loạn và ngoại xâm chạm tới mức đỉnh điểm, cũng là lúc triều đình nhà Minh trở nên bất ổn. Ngụy Trung Hiền tự sát ngay sau khi bị Minh Tư Tông () bãi nhiệm.
Hoạn quan tổ chức cấu trúc xã hội riêng, cấp dưỡng và hỗ trợ cho những thị tộc sinh ra họ. Hình ảnh người cha nâng đỡ con trai mình được thay thế bằng người chú hoạn quan. Hắc Sơn hội ở Bắc Kinh đã tài trợ cho một ngôi đền tiến hành các nghi lễ thờ cúng, tưởng nhớ tới Cương Thiết, một hoạn quan quyền lực thời nhà Nguyên. Ngôi đền trở thành một địa điểm có ảnh hưởng đối với tầng lớp hoạn quan cấp cao và vẫn tiếp tục giữ vai trò (dần suy giảm) này trong cả thời nhà Thanh.
Suy thoái kinh tế, thiên tai
nhỏ|Bức Hán cung xuân hiểu của Cừu Anh (1494–1552). Giai đoạn Minh mạt đánh dấu sự xa hoa, suy đồi quá mức của hoàng gia, được thúc đẩy nhờ lượng bạc khổng lồ mới cập bến và các giao dịch tư nhân liên quan tới bạc.|190x190px
Cuối thời Minh Thần Tông, xuyên suốt qua triều đại của hai vị hoàng đế tiếp theo, một cuộc khủng hoảng kinh tế đã bùng phát với trung tâm là sự thiếu hụt đột ngột nguồn cung bạc – phương tiện trao đổi chính của đế quốc. Năm 1516, người Bồ Đào Nha lần đầu tiên giao thương với Trung Quốc, đổi bạc Nhật Bản lấy tơ lụa Trung Quốc. Năm 1557, sau một số động thái thù địch ban đầu, họ được nhà Minh cho phép biến Ma Cao thành cơ sở thương mại lâu dài ở Trung Quốc. Vai trò cung cấp bạc của người Bồ Đào Nha dần bị người Tây Ban Nha thay thế, cả người Hà Lan cũng thách thức người Bồ Đào Nha trong việc kiểm soát hoạt động buôn bán. Vua Felipe IV của Tây Ban Nha () bắt đầu trấn áp các đường dây buôn lậu bạc từ Tân Tây Ban Nha và Peru qua Thái Bình Dương, Philippines vào Trung Quốc, ủng hộ việc vận chuyển bạc khai thác từ châu Mỹ qua các cảng của Tây Ban Nha. Năm 1639, Mạc phủ Tokugawa đóng cửa hầu hết hoạt động ngoại thương với các cường quốc châu Âu, cắt đứt một nguồn bạc khác vào Trung Quốc. Những sự kiện trên diễn ra gần như cùng lúc khiến bạc nhanh chóng trở nên đắt đỏ và hầu hết các tỉnh thành đều không thể nộp thuế. Người dân bắt đầu tích trữ bạc quý vốn đang ngày càng khan hiếm, làm cho tỷ giá của tiền đồng so với bạc giảm mạnh. Những năm 1630, một quan tiền đồng tương đương với một lượng bạc, vào năm 1640, là một nửa lượng và đến năm 1643 thì chỉ còn là một phần ba lượng. Đây là thảm họa kinh tế đối với nông dân, vì họ phải nộp thuế bằng bạc trong khi giao thương địa phương và buôn bán cây trồng bằng tiền đồng. Các nhà sử học gần đây đã tranh luận về việc liệu tình trạng thiếu bạc có phải là nguyên nhân trực tiếp khiến nhà Minh diệt vong. nhỏ|Tiền xu đồng thời nhà Minh, từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Đầu thế kỷ 17, dưới tác động của Tiểu băng hà, thời tiết khô hanh và lạnh giá bất thường rút ngắn mùa trồng trọt khiến nạn đói lan rộng khắp miền bắc Trung Quốc. Đói kém, thuế tăng, lính tráng đào ngũ, hệ thống cứu trợ trì trệ, thảm họa thiên nhiên và một chính phủ không có khả năng quản lý thủy lợi, kiểm soát lũ lụt, là những nhân tố lấy đi mạng sống của người dân và cả trật tự xã hội vốn có. Vì thiếu nguồn lực, chính quyền trung ương làm được rất ít việc để giảm thiểu tác động của thiên tai. Mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn khi một đại dịch lan rộng từ Chiết Giang đến Hà Nam, cướp đi vô vàn sinh mạng. Trận động đất Thiểm Tây năm 1556 dưới thời trị vì của Minh Thế Tông đã giết chết khoảng 83 vạn người, đánh dấu trận động đất có thương vong khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại.
Sự trỗi dậy của người Mãn Châu
nhỏ|[[Sơn Hải quan dọc theo Vạn lý Trường thành, cánh cổng nơi người Mãn Châu nhiều lần bị đẩy lui trước khi Ngô Tam Quế mở cửa cho họ vào năm 1644.|190x190px]]
Dù chỉ khởi đầu với một bộ lạc nhỏ, Nỗ Nhĩ Cáp Xích, một thủ lĩnh người Nữ Chân, đã nhanh chóng giành được quyền kiểm soát tất cả các bộ lạc ở Mãn Châu. Trong cuộc chiến tranh Nhâm Thìn diễn ra vào những năm 1590, Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng đề nghị lãnh đạo các bộ lạc, hỗ trợ liên quân Minh–Triều. Dù khước từ lời đề nghị, nhà Minh vẫn phong tặng cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích một tước vị danh dự vì tấm lòng thành của ông. Nhận thấy sự yếu kém của chính quyền nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc lân cận phía bắc và củng cố quyền lực tại các khu vực xung quanh quê hương, như nhà Kim đã từng làm trước đây. Năm 1610, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cắt đứt quan hệ với triều đình nhà Minh. Năm 1618, ông yêu cầu nhà Minh phải triều cống, bồi thường cho "Thất đại hận".
Năm 1636, con trai Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực, đổi quốc hiệu "Hậu Kim" thành "Đại Thanh" tại Thẩm Dương, nơi bị quân Thanh chiếm vào năm 1621 và được chọn làm kinh đô của hoàng triều vào năm 1625. Hoàng Thái Cực tự xưng là hoàng đế, lấy niên hiệu Sùng Đức, đổi tên dân tộc của mình từ "Nữ Chân" thành "Mãn Châu". Năm 1638, người Mãn Châu đánh bại và chinh phục thành công Triều Tiên, đồng minh lâu đời của nhà Minh, trong cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai. Ít lâu sau, Triều Tiên từ bỏ thần phục nhà Minh sau vài thế kỷ.
Nội loạn, ngoại xâm, diệt vong
Đầu những năm 1630, một người lính nông dân tên là Lý Tự Thành, đã cùng đồng nghiệp của mình tổ chức binh biến ở Thiểm Tây khi triều đình nhà Minh không gửi tiếp tế thiết yếu tới nơi này. Năm 1634, Lý Tự Thành bị một viên tướng nhà Minh bắt sống và được trả tự do với điều kiện là ông phải quay trở lại phục vụ quân ngũ. Thỏa thuận trên nhanh chóng bị phá bỏ khi một tri huyện địa phương quyết định xử tử 36 đồng phạm của Lý Tự Thành. Người của Lý Tự Thành giết nhiều quan lại để trả thù và tiếp tục lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa ở Dinh Dương, trung tâm Hà Nam, vào năm 1635. Đến những năm 1640, Trương Hiến Trung (1606–1647), một cựu binh và cũng đang là đối thủ của Lý Tự Thành, đã tạo dựng được một căn cứ khởi nghĩa vững chắc ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Trong khi đó, Lý Tự Thành cũng có riêng căn cứ địa ở Hồ Bắc, ảnh hưởng rộng khắp Thiểm Tây và Hà Nam.
Năm 1640, đông đảo nông dân đói khát, không thể nộp thuế và không còn e sợ trước quân triều đình vốn thường xuyên bại trận, bắt đầu tự hình thành nên các nhóm phiến quân quy mô lớn. Trong bối cảnh bị kẹt giữa những nỗ lực không kết quả nhằm đánh bại quân Mãn Thanh ở phía bắc và dẹp yên các cuộc khởi nghĩa nông dân trong nước, quân đội nhà Minh về cơ bản đã tan rã. Phải chiến đấu không lương, quân Minh bị Lý Tự Thành (lúc này đã tự xưng là Đại Thuận vương) đánh bại và rời bỏ kinh đô với rất ít sự phản kháng. Ngày 25 tháng 4 năm 1644, Bắc Kinh thất thủ trước một cánh quân do Lý Tự Thành chỉ huy khi các nội gián mở toang cổng thành. Giữa loạn lạc, Minh Tư Tông – hoàng đế cuối cùng của nhà Minh – đã treo cổ tự sát trong vườn ngự uyển, bên ngoài Tử Cấm Thành.
Không bỏ lỡ thời cơ, Bát kỳ tràn qua Vạn lý Trường thành khi tướng biên phòng nhà Minh là Ngô Tam Quế (1612–1678) chủ động mở cửa Sơn Hải quan. Ngô Tam Quế làm điều này khi biết tin kinh đô đã thất thủ còn quân Đại Thuận thì đang tiến về phía ông. Sau khi cân nhắc các lựa chọn liên minh, Ngô Tam Quế quyết định đứng về phía người Mãn Châu. Tiêu diệt xong cánh quân được điều tới Sơn Hải quan của Lý Tự Thành, Đa Nhĩ Cổn và Ngô Tam Quế dẫn quân Bát kỳ áp sát Bắc Kinh. Ngày 4 tháng 6 năm 1644, nghĩa quân Đại Thuận tháo chạy khỏi kinh đô. Ngày 6 tháng 6 năm 1644, Ngô Tam Quế và người Mãn Châu tiến vào Bắc Kinh, tuyên bố Hoàng đế Thuận Trị trẻ tuổi là người cai trị Trung Quốc. Sau khi buộc Lý Tự Thành chạy khỏi Tây An, quân Thanh tiếp tục truy sát ông men theo sông Hán tới Vũ Xương. Mùa hè năm 1645, Lý Tự Thành qua đời ở vùng biên giới phía bắc Giang Tây, đặt dấu chấm hết cho nhà Đại Thuận. Một tài liệu nói rằng Lý Tự Thành đã tự sát, cũng có người cho là ông bị nông dân đánh chết vì ăn trộm thức ăn. nhỏ|245x245px|Hoàng tử [[Đa Nhĩ Cổn (1610–1650), người trực tiếp dẫn quân Mãn Thanh tiến vào Bắc Kinh, đặt dấu chấm hết cho nhà Minh. ]] Bất chấp việc hoàng đế băng hà và Bắc Kinh đã rơi vào tay người Mãn Châu, nhà Minh vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Nam Kinh, Phúc Kiến, Quảng Đông, Sơn Tây, Vân Nam đều là những thành trì kháng chiến của nhà Minh. Tuy nhiên, nhà Minh sớm bị chia rẽ khi có nhiều người đều tự nhận mình là hoàng đế. Sau năm 1644, nhiều quốc gia tàn dư của nhà Minh vẫn tồn tại rải rác ở miền nam Trung Quốc, được các sử gia thế kỷ 19 gọi chung là Nam Minh. Từng thành lũy kháng chiến lần lượt bị quân Thanh tiêu diệt cho tới năm 1662 khi hoàng đế Nam Minh cuối cùng là Minh Chiêu Tông Chu Do Lang qua đời. Những vương gia còn phản kháng là Chu Thuật Quế, con trai ông Chu Dĩ Hải và Chu Hoằng Hoàn, người vẫn ở lại với các trung thần của Trịnh Thành Công tại Vương quốc Đông Ninh (Đài Loan) cho đến năm 1683. Chu Thuật Quế tuyên bố rằng ông hành động nhân danh Minh Chiêu Tông đã khuất. Nhà Thanh rốt cuộc vẫn đưa 17 vương gia nhà Minh còn sống ở Đài Loan trở về Trung Quốc đại lục để họ được sống nốt phần đời còn lại tại đây.
Năm 1725, một hậu duệ hoàng tộc nhà Minh là Chu Chi Liễn, được Thanh Thế Tông sắc phong hầu tước. Chu Chi Liễn nhận bổng lộc từ triều đình nhà Thanh và có nhiệm vụ thực hiện các nghi lễ tại Thập Tam lăng. Năm 1750, Thanh Cao Tông phong cho Chu Chi Liễn làm Diên Ân hầu, một tước vị truyền qua 12 thế hệ con cháu hoàng tộc nhà Minh cho đến tận năm 1912, kết thúc thời nhà Thanh. Chu Dục Huân là Diên Ân hầu cuối cùng. Năm 1912, sau khi nhà Thanh sụp đổ trong cuộc cách mạng Tân Hợi, từng có chủ trương nên chọn một người Hán lên làm hoàng đế, người này hoặc là một Diện Thánh công – hậu duệ Khổng Tử, hoặc là một Diên Ân hầu – hậu duệ hoàng tộc nhà Minh.
Chính quyền
nhỏ|231x231px|Lược đồ bộ máy chính quyền nhà Minh Thời nhà Minh được Edwin O. Reischauer, John K. Fairbank và Albert M. Craig nhận xét là "một trong những kỷ nguyên vĩ đại nhất của một chính quyền có trật tự và một xã hội ổn định suốt chiều dài lịch sử nhân loại". Mặc dù triều đại sụp đổ trước áp lực từ các cuộc nội loạn và ngoại xâm, hoàng tộc nhà Minh dường như từng là những nhà cai trị chắc chắn và ít gặp thách thức nhất lịch sử Trung Quốc. Nhà Thanh, triều đại kế tục nhà Minh, thán phục và tiếp tục duy trì các thể chế của nhà Minh.
Hệ thống quản trị trưởng thành vào thời nhà Minh là đỉnh cao của các xu hướng vốn dần rõ ràng sau thời Trung Đường, phát triển rõ rệt thời nhà Tống, và càng được kích thích khi người Mông Cổ cai trị Trung Quốc thời nhà Nguyên. Hoàng đế là nhà chuyên quyền tối cao. Việc thay mặt hoàng đế quản lý đế quốc được giao phó cho các sĩ đại phu Nho giáo, những người được tuyển dụng trên cơ sở thành tích học vấn chứng minh qua các kỳ khoa cử giàu tính cạnh tranh. Họ thăng tiến sự nghiệp phần lớn nhờ những đánh giá thành tích phục vụ từ đồng nghiệp, hình thành nên một tập đoàn quan chức dân sự có khả năng tự điều tiết đáng kể.
Tập đoàn quan chức thống trị chính quyền ở một mức độ chưa từng có. Họ không phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng từ tầng lớp quý tộc hay sĩ quan thế tập, dù thường đánh mất quyền thống trị vào tay hoạn quan hay những kẻ tiếm quyền hoàng đế. Xã hội nói chung được hợp thể thống nhất với nhà nước chặt chẽ đến mức, trong suốt những thập kỷ cuối triều đại, các hoàng đế nhà Minh có thể kiểm soát mọi thứ mà họ muốn, và không một nhóm người nào có thể cạnh tranh vai trò lãnh đạo xã hội tự nhiên của các quan chức.
Địa lý hành chính
nhỏ|Các tỉnh nhà Minh vào năm 1409.|190x190px Hoàng đế nhà Minh tiếp quản hệ thống hành chính cấp tỉnh của nhà Nguyên, 13 tỉnh thời nhà Minh chính là tiền thân cho các tỉnh thành ngày nay ở Trung Quốc. Thời nhà Tống, đơn vị hành chính cấp cao nhất là lộ. Tuy nhiên, sau cuộc xâm lược của người Nữ Chân vào năm 1127, triều đình nhà Tống đã thiết lập bốn hệ thống chỉ huy khu vực bán tự trị phân theo vùng lãnh thổ và đơn vị quân đội, với một hành tỉnh riêng, sau này trở thành chính quyền cấp tỉnh của các triều đại Nguyên, Minh, Thanh. Sao chép mô hình thời nhà Nguyên, cơ quan hành chính cấp tỉnh của nhà Minh có ba ủy ban: một dân sự, một quân sự và một giám sát. Dưới tỉnh là phủ, được quan tri phủ điều hành. Dưới phủ là châu, được quan tri châu điều hành. Đơn vị hành chính cấp thấp nhất là huyện, được quan tri huyện điều hành. Bên cạnh các tỉnh, có hai khu vực lớn không thuộc bất cứ tỉnh nào, mà là hai vùng đô thị (gọi là Kinh hoặc Kinh sư): Nam Kinh và Bắc Kinh.
Nhân sự chính quyền
Nhân sự chính quyền được người dân nhà Minh ủng hộ, gồm đủ hạng người ăn bổng lộc từ nguồn thu nhà nước, tương đối nhỏ nếu so với tổng thể dân số, nhưng lại rất đồ sộ nếu chỉ xét độc lập: không có gì phải nghi ngờ khi là kiến trúc thượng tầng xã hội lớn nhất thế giới đương thời.
Hoàng đế
nhỏ|251x251px|[[Minh Quang Tông (1620) chỉ trị vì trong một tháng của năm 1620. ]]Ngoại trừ những vị vương chủ trì các chế độ tận trung rời rạc ở phía nam trong những năm đầu thời nhà Thanh, 16 người đàn ông đã lần lượt trị vì nhà Minh trong suốt 277 năm, từ năm 1368 đến năm 1644. Sau thời khai quốc, tất cả hoàng đế nhà Minh đều là hậu duệ Minh Thái Tổ. Trong số đó, 11 người đăng cơ với tư cách là con trai cả tiên đế, hai người là em trai tiên đế, một người là cháu đích tôn tiên đế, và một người là em họ tiên đế. Theo quy củ nhà Minh, ngai vàng nên được truyền cho con trai cả của hoàng đế với nguyên phối hoàng hậu, chỉ khi người thừa kế được chỉ định mất sớm mà không có con trai nối dõi mới có ngoại lệ. Nguyên tắc này được thường được tuân thủ tốt, trừ trường hợp Minh Thành Tổ () cướp ngôi cháu họ mình. Dù sao, vào thời điểm đó, Minh Thành Tổ cũng đang là đứa con trai tiên đế lớn tuổi nhất còn sống nên có thể lập luận rằng việc ông cướp ngôi không vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc.
Minh Thần Tông () là hoàng đế trị vì lâu nhất với 48 năm, từ năm 1572 đến năm 1620; con trai ông, Minh Quang Tông, có thời gian trị vì ngắn nhất, chỉ trong một tháng của năm 1620. Với cách tính tuổi mụ của người Trung Quốc – tính tuổi theo năm sinh thay vì theo ngày sinh – có tới tám hoàng đế nhà Minh đăng cơ khi còn chưa thành niên, đăng cơ sớm nhất vào năm chín tuổi. Hoàng đế đăng cơ muộn nhất là vào năm 47 tuổi. Không hoàng đế nào sống thọ hơn Minh Thái Tổ, băng hà năm 71 tuổi. Minh Hy Tông () đoản mệnh nhất, băng hà năm 23 tuổi.
Sĩ đại phu
Từ năm 1373 đến năm 1384, Minh Thái Tổ xây dựng bộ máy quan liêu với các quan chức chỉ được tuyển dụng thông qua hình thức tiến cử. Mãi cho tới sau này, các sĩ đại phu với nhiều cấp bậc mới được tuyển chọn thông qua một hệ thống kỳ thi nghiêm ngặt, được triển khai lần đầu vào thời nhà Tùy (581–618), gọi là khoa cử. Về mặt lý thuyết, khoa cử cho phép bất kỳ ai cũng có thể gia nhập hàng ngũ quan chức triều đình (dù sau này giới thương nhân bị phản đối). Nhưng trên thực tế, thời gian và kinh phí cần thiết để hỗ trợ việc học tập, chuẩn bị cho các kỳ thi, đã giới hạn đối tượng tham gia khoa cử chỉ còn là những người thuộc tầng lớp chủ đất. Tuy nhiên, triều đình cũng đưa ra hạn ngạch tuyển dụng nhân sự phù hợp theo từng tỉnh thành. Đây là một nỗ lực nhằm hạn chế sự độc chiếm quyền lực từ giới thân sĩ sở hữu đất đai ở những vùng thịnh vượng nhất, nơi có nền giáo dục vượt trội. Sự khuếch trương của ngành công nghiệp in ấn từ thời nhà Tống, làm gia tăng khả năng phổ cập kiến thức và số lượng thí sinh tiềm năng trên khắp các tỉnh thành. Trẻ tiểu học được tiếp xúc với bảng cửu chương và sách dạy chữ vỡ lòng. Nho sinh trưởng thành thì có trong tay Tứ thư, Ngũ kinh và những bài làm mẫu, được in hàng loạt với giá thành rẻ.
nhỏ|Khung cảnh thí sinh tham gia khoa cử đang xem bảng vàng, tranh của Cừu Anh (1494–1552).
Cũng như thời trước, trọng tâm của các kỳ thi vẫn là Nho học kinh điển, phần lớn tài liệu kiểm tra tập trung vào bộ Tứ thư do Chu Hi phác thảo vào thế kỷ 12. Kể từ năm 1487, dường như các kỳ thi đã trở nên khó khăn hơn với việc thí sinh phải hoàn thành bài bát cổ văn, một kiểu bài luận không theo trào lưu văn học. Độ khó của kỳ thi tăng tiến theo từng cấp, từ địa phương tới trung ương. Với việc vượt qua mỗi kỳ thi, thí sinh sẽ nhận được các học vị tương ứng. Chức quan được phân làm chín bậc phẩm, mỗi bậc phẩm lại chia thành hai cấp – chính và tòng – với mức lương khác nhau (tính bằng thạch gạo) tùy theo phẩm hàm. Thí sinh vượt qua kỳ thi hội hoặc kỳ thi hương chỉ được bổ nhiệm chức quan phẩm hàm thấp. Trong khi đó, thí sinh vượt qua kỳ thi đình được phong học vị tiến sĩ và bổ nhiệm chức quan phẩm hàm cao. Qua 276 năm cai trị với 90 kỳ thi đình, nhà Minh có 24.874 tiến sĩ. Ebrey khẳng định rằng "chỉ có 2 nghìn đến 4 nghìn tiến sĩ đương nhiệm cùng lúc và cứ 1 vạn người đàn ông trưởng thành thì mới có một người là tiến sĩ." Để dễ hình dung, vào thế kỷ 16, có tới 10 vạn người là sinh viên (cấp học vị thấp nhất).
Mỗi viên quan có thời gian tại chức tối đa là chín năm, nhưng cứ ba năm thì họ lại được cấp trên xếp loại thành tích một lần. Viên quan được thăng chức nếu nhận đánh giá tích cực, bị giáng chức nếu nhận đánh giá tiêu cực và vẫn tại chức nếu nhận đánh giá trung bình. Trong vài trường hợp nghiêm trọng, viên quan có thể bị cách chức hoặc chịu sự trừng phạt. Chỉ có quan tứ phẩm trở lên ở kinh thành là được miễn ghi chép đánh giá, mặc dù họ phải tự nguyện thú nhận những lỗi lầm của bản thân. Hơn 4 nghìn trợ giáo ở các trường cấp huyện và châu, được xếp loại thành tích chín năm một lần. Chiêm Sự phủ là nơi chịu trách nhiệm đào tạo người thừa kế ngai vàng, được đứng đầu bởi một viên quan chính tam phẩm gọi là chiêm sự.
nhỏ|Bức tranh mô tả cảnh viên quan [[Kinh diên viện|Kinh Diên viện Từ Hiển Khanh đang giảng kinh sách cho Minh Thần Tông.]]
Giới sử học tranh luận về việc liệu hệ thống khoa cử đã thúc đẩy hay kìm hãm tính linh hoạt của xã hội theo chiều hướng đi lên. Một mặt, các kỳ thi được phân loại mà không cần quan tâm đến gia cảnh của thí sinh, trên lý thuyết nó dành cho tất cả mọi người. Mặt khác, những thí sinh đỗ đạt là những người có nhiều năm được kèm cặp rất tốn kém, phức tạp, theo cái cách mà các gia đình thân sĩ cấp dưỡng cho đứa con trai tài năng của họ. Trên thực tế, vì thiếu giáo dục nên 90% dân số không thể giành được vị trí cao trong các kỳ thi, nhưng 10% còn lại thì có cơ hội làm điều đó như nhau. Để thành công, những chàng trai trẻ phải được đào tạo chuyên sâu, tốn kém về cổ văn Trung Quốc, văn ngôn Quan thoại, nghệ thuật thư pháp, đồng thời phải nắm vững những yêu cầu phức tạp của bát cổ văn. Không chỉ thống trị hệ thống cai trị, tầng lớp thân sĩ truyền thống còn học được rằng tuân theo chủ nghĩa bảo thủ và chống lại những ý tưởng mới là con đường dẫn đến thành công. Trong nhiều thế kỷ, các nhà phê bình đã chỉ ra những vấn đề kể trên, nhưng hệ thống khoa cử vẫn ngày càng trở nên trừu tượng và ít phù hợp hơn với nhu cầu của đất nước. Nhiều học giả nhất trí rằng bát cổ văn là nguyên nhân chính dẫn đến "sự trì trệ về văn hóa và lạc hậu về kinh tế ở Trung Quốc." Tuy nhiên, Benjamin Ellman lại cho là bát cổ văn vẫn mang lại một số điểm tích cực, vì hình thức bài luận này có khả năng bồi dưỡng "tư duy trừu tượng, khả năng hùng biện, vần điệu thơ ca" và cấu trúc phức tạp của nó không khuyến khích thí sinh làm một bài tường thuật lan man, lạc đề.
Tư lại
nhỏ|[[Minh Tuyên Tông chơi chuỷ hoàn, một trò chơi tương tự đánh gôn, với các hoạn quan của mình, tranh của một họa sĩ triều đình ẩn danh thời Tuyên Đức (1425–35).]]
Các sĩ đại phu được tuyển dụng thông qua khoa cử, đóng vai trò như những quan chức điều hành của một nhóm lớn hơn, gồm nhiều nhân viên không có phẩm hàm, gọi là tư lại. Cứ một quan chức thì có bốn tư lại; Charles Hucker ước tính rằng có thể có đến 10 vạn tư lại trên khắp đất nước. Tư lại thực hiện các nhiệm vụ văn thư và kỹ thuật cho quan chức chính phủ. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn họ với đao phủ, bưu tá, hay cửu vạn thấp hèn. Tư lại cũng được đánh giá thành tích định kỳ như quan chức. Sau chín năm công tác, họ có thể được nhận một phẩm hàm cấp thấp. Một lợi thế của tư lại so với quan chức đó là quan chức thì phải luân chuyển định kỳ và nhận những chức vụ khu vực khác nhau, do đó, họ phải phụ thuộc vào sự phục vụ và khả năng phối hợp tốt của tư lại địa phương.
Hoạn quan, vương gia và tướng lĩnh
trái|nhỏ|Một chi tiết trong bức tranh Minh nhân xuất cảnh đồ, kiệu của Minh Thần Tông được voi kéo ([[:Tập tin:Departure Herald-Ming Dynasty.jpg|toàn cảnh bức tranh ở đây).|190x190px]]
Nhà Minh là triều đại mà hoạn quan có quyền lực lớn chưa từng có trong hoạt động công vụ. Hai cơ quan hoạn quan đáng sợ và hứng nhiều phỉ bang nhất là hai văn phòng mật thám: Đông xưởng thành lập năm 1420 thời Minh Thành Tổ và Tây xưởng thành lập năm 1477 thời Minh Hiến Tông. Hoạt động dưới sự giám sát của ty lễ thái giám và cộng tác chặt chẽ với Cẩm y vệ, hoạn quan tại hai cơ quan này được ủy quyền truy quét và trừng phạt những kẻ phản bội khắp mọi nơi trên đế quốc. Thông qua Đông xưởng và Tây xưởng, các hoạn quan như Vương Chấn, Lưu Cẩn và Ngụy Trung Hiền đã từng bước thăng tiến và đứng sau các giai đoạn khủng bố chính trị là những vết nhơ khó tẩy nhất trong sử sách nhà Minh. Hoạn quan cũng được phân phẩm bậc như quan chức, nhưng chỉ có bốn bậc thay vì chín bậc. nhỏ|253x253px|[[Viên Sùng Hoán (1584–1630), một quan chức dân sự nhưng đồng thời cũng là một tướng lĩnh xuất sắc. ]] Hậu duệ Minh Thái Tổ được phong làm vương gia, được trao binh quyền (thường là trên danh nghĩa), nhận bổng lộc hàng năm và sở hữu những vùng đất đai rộng lớn. Dù đều mang tước vương, nhưng vương gia thời nhà Minh không giống như vương gia thời nhà Hán hay nhà Tấn, đất đai của họ không phải là đất phong kiến. Vương gia thời nhà Minh không phục vụ bất kỳ chức năng hành chính nào, họ cũng chỉ được tham gia hoạt động quân sự dưới thời trị vì của hai vị hoàng đế đầu tiên. Dù bảo vệ quyền lợi của bản thân là một phần nguyên nhân khiến Yên vương Chu Đệ tạo phản, nhưng khi đã lên ngôi, ông ta lại tiếp tục thi hành chính sách của người cháu, tước binh quyền trong tay họ hàng và di dời thái ấp của họ ra khỏi vùng biên giới quân sự phía bắc. Tuy không phục vụ bất kỳ chức năng hành chính nào, nhưng vương gia, phò mã và hoàng thân, vẫn làm việc tại Tông Nhân phủ, nơi giám sát gia phả hoàng gia.
Giống như sĩ đại phu, tướng lĩnh quân đội cũng được xếp hạng theo một hệ thống phân cấp và được đánh giá thành tích 5 năm một lần (thay vì ba năm như với quan chức). Tuy nhiên, sĩ quan quân đội có ít uy tín hơn quan chức. Điều này đến từ việc vị trí mà họ đang có là cha truyền con nối (không dựa trên công trạng) và các giá trị Nho giáo thì bức chế những người chọn nghề chiến đấu (võ) thay vì theo đuổi nghiệp tri thức (văn). Mặc dù bị đánh giá thấp hơn, sĩ quan không bị loại khỏi các kỳ thi dân sự, sau năm 1478, quân đội thậm chí còn tổ chức kỳ thi riêng để kiểm tra kỹ năng quân sự. Ngoài việc tiếp quản cơ cấu quan liêu đã thiết lập từ thời nhà Nguyên, hoàng đế nhà Minh còn đặt ra một chức vụ có vai trò như một tổng đốc lưu động. Vào nửa đầu triều đại, những người đàn ông thuộc dòng dõi quý tộc đã thống trị các chức vụ cao trong bộ máy quân đội; xu hướng này đảo chiều khi họ bị thay thế bởi những người có địa vị khiêm tốn hơn trong nửa sau triều đại.
Thể chế và bộ máy chính quyền
Xu hướng thể chế
nhỏ|[[Tử Cấm Thành|Tử Cấm thành, nơi ở chính thức của hoàng gia nhà Minh và nhà Thanh từ năm 1420 cho đến năm 1924, khi Trung Hoa Dân quốc đuổi Phổ Nghi khỏi Nội đình.|190x190px]] Trên cơ sở một hệ thống hành chính trung ương chính thường gọi là Tam tỉnh Lục bộ, được thiết lập bởi nhiều triều đại khác nhau từ cuối thời nhà Hán (202 TCN–220 CN), chính quyền nhà Minh chỉ giữ lại một "tỉnh" duy nhất là Trung Thư tỉnh có nhiệm vụ kiểm soát sáu bộ. Sau khi Tể tướng Hồ Duy Dung bị hành quyết vào năm 1380, Minh Thái Tổ bãi bỏ Trung Thư tỉnh, Đô Sát viện, Đô Đốc phủ, đích thân phụ trách Lục bộ và Ngũ Quân phủ. Do đó, gần như toàn bộ cấp quản lý trung gian đều đã bị Minh Thái Tổ xóa bỏ và chỉ được xây dựng lại một phần bởi những hoàng đế tiếp theo. Ban đầu Nội các được thành lập, đóng vai trò như một ban thư ký hỗ trợ hoàng đế về các vấn đề liên quan tới thủ tục hành chính, nhưng không có sự góp mặt của thừa tướng, hoặc tể tướng.
Năm 1391, Hoàng thái tử Chu Tiêu được Minh Thái Tổ bổ nhiệm chức tuần phủ, tới Thiểm Tây để "tuần tra và phủ dụ" dân chúng. Năm 1421, Minh Thành Tổ ủy nhiệm 26 quan chức đi khắp đất nước, duy trì các nhiệm vụ thẩm tra và khâm sai tương tự. Năm 1430, tuần phủ trở thành một chức quan chính thức. Đô Sát viện được tái thiết, điều hành bởi các giám sát ngự sử, sau này là các đô ngự sử. Đến năm 1453, tuần phủ đảm nhận chức phó đô ngự sử hoặc hữu đô ngự sử, có quyền gặp mặt trực tiếp hoàng đế. Cũng như các triều đại trước, chính quyền cấp tỉnh được giám sát bởi một viên thanh tra tạm thời đến từ Đô Sát viện. Ngự sử có thể luận tội quan chức bất cứ lúc nào, không giống như quan chức cấp cao chỉ làm điều này với cấp dưới trong các cuộc đánh giá ba năm một lần.
Mặc dù việc phân cấp quyền lực nhà nước trong phạm vi tỉnh đã có từ đầu thời nhà Minh, nhưng xu h