Chu Hoàn (chữ Hán: 朱纨, 1494 – 1549), tự Tử Thuần, hiệu Thu Nhai, người huyện Trường Châu, phủ Tô Châu , quan viên nhà Minh, danh thần kháng Oa trong lịch sử Trung Quốc.
Khởi nghiệp
Năm Chánh Đức thứ 16 (1521), Hoàn đỗ tiến sĩ, ban đầu được trừ chức Cảnh Châu tri châu, rồi điều đi Khai Châu . Năm Gia Tĩnh đầu tiên (1522), Hoàn được thăng làm Nam Kinh Hình bộ Viên ngoại lang. Sau đó Hoàn được làm Tứ Xuyên Binh bị phó sứ; cùng Phó tổng binh Hà Khanh đánh dẹp người dân tộc thiểu số ở các trại Thâm Câu. Trải qua 5 lần thăng chức, Hoàn được làm đến Quảng Đông Tả Bố chánh sứ.
Năm Gia Tĩnh thứ 25 (1546), Hoàn được cất nhắc làm Hữu Phó Đô ngự sử, Tuần phủ Nam Cám. Tháng 7 ÂL năm sau, Oa khấu nổi lên, Hoàn được đổi làm Đề đốc Chiết, Mân hải phòng quân vụ, Tuần phủ Chiết Giang.
Cứng rắn cấm biển
Khi xưa Minh Thái Tổ đặt ra chế ước: người Trung Quốc dùng 1 tấm ván để ra biển cũng không được. Hòa bình lâu ngày, dân buôn lậu lẻn ra vào, cùng người Oa và các nước phương Tây buôn bán. Người Mân là Lý Quang Đầu, người Hấp là Hứa Đống chiếm cứ cảng Song Tự thuộc Ninh Ba làm chúa, rồi nắm giữ khế ước ở đấy. Thế gia bảo hộ bọn chúng, phần nhiều là người Chương, Tuyền, có kẻ còn kết thông gia. Bọn họ mượn tiếng vượt bể, đóng hai con thuyền buồm lớn, để chở vật tư bị cấm, quan tướng không dám hỏi đến. Có người thiếu nợ bọn họ, bị bọn Hứa Đống dẫn dụ tham gia cướp bóc. Con nợ ấy dọa dẫm rằng quan tướng đang đuổi bắt bọn họ, tiết lộ thời điểm ra quân để buộc bọn họ bỏ đi, hẹn ngày khác quay lại. Đến ngày hẹn, con nợ lại giở trò cũ. Người Oa rất oán hận, liên kết với bọn Hứa Đống càng chặt chẽ. Bấy giờ việc hải phòng ở Chiết, Mân hư nát từ lâu: thuyền chiến, thuyền sáo (để đi tuần) 10 phần chỉ còn 1, 2; Cung binh của Tuần kiểm tư ở Chương, Tuyền theo ngạch cũ có hơn 2500, chỉ còn hơn ngàn người . Bọn cướp được đắc chí, ngày càng không kiêng kỵ, nối nhau kéo đến.
Hoàn tuần tra đường biển, nghe theo Thiêm sự Hạng Cao và giới sĩ phu, cho rằng không dẹp bỏ nhà đò thì đường biển không thể được dọn sạch, không nghiêm khắc thi hành chế độ bảo giáp thì công tác hải phòng không thể khôi phục, bèn dâng sớ trình bày tình hình. Vì thế Hoàn dẹp nhà đò, nghiêm bảo giáp, lùng bắt dân buôn lậu. Cơm áo của người Mân đều dựa vào biển, đột nhiên mất món lợi lớn, dù là gia đình sĩ đạo phu cũng không hài lòng, muốn phá hoại việc này. Đầu tiên Hoàn bình định phản tặc ở núi Phúc Đỉnh, năm sau sắp tiến đánh cảng Song Tự, sai Phó sứ Kha Kiều, Đô chỉ huy Lê Tú chia nhau đóng giữ Chương, Tuyền, Phúc Ninh, ngăn ngừa kẻ địch bỏ trốn; nhường Đô tư Lư Thang đem quân đội Phúc Thanh từ cửa biển tiến ra. Gặp lúc Cống sứ của Nhật Bản là Chu Lương trái ước cũ, đem theo 600 người tranh vào trước kỳ hạn. Hoàn nhận chiếu được tùy nghi xử lý, nhắm chừng không thể đuổi đi, bèn đòi Chu Lương tự cầu xin triều đình, không cho lấy dịp này làm tiền lệ; đăng ký thuyền của người Nhật Bản, đưa Chu Lương vào dịch quán của phủ Ninh Ba. Dân buôn lậu ném thư kích động biến loạn, Hoàn đề phòng cẩn mật, khiến kế của họ không thành công. Tháng 4 ÂL mùa hạ, Lư Thang gặp địch ở bể Cửu Sơn, bắt được người Nhật Bản là Kê Thiên, còn bắt cả Hứa Đống. Đồng đảng của Đống là bọn Uông Trực đem tàn dư bỏ trốn, Lư Thang lấp cảng Song Tự rồi trở về. Thuyền nước ngoài từ ấy về sau không thể vào cảng, chia nhau đỗ ở các đảo Nam Kỷ, Tiều Môn, Thanh Sơn, Hạ Bát.
Thế gia đã chịu thua thiệt, bèn đánh tiếng những kẻ bị bắt đều là lương dân, không phải bọn giặc, nhằm mê hoặc lòng người; lại khống chế quan viên xử án, lấy cớ bọn chúng bị ép theo giặc để phán tội nhẹ, không phải cường đạo chống cự bắt giữ mà cần đến pháp luật xử lý. Hoàn dâng sớ nói: "Nay Hải cấm rõ ràng, không cần biết bị ép thế nào, tòng phạm thế nào!? Nếu như dẫn đường cho giặc Phiên vào cướp bóc không phải là cường đạo, đối địch ngoài biển không phải là chống cự bắt giữ, thì thần thật ngu muội, không thể lý giải được." Triều đình bèn cho phép Hoàn tùy nghi kết tội chết.
Hoàn chấp pháp cứng rắn, thế gia đều sợ. Vai trò của Cống sứ Chu Lương đã không còn giá trị, người Mân là Lâm Mậu Hòa làm việc ở Chủ khách tư , đánh tiếng rằng ông ta nên được trở về. Hoàn dâng sớ tranh luận, nói: "Đuổi cướp là người nước ngoài dễ, đuổi cướp là người trong nước khó. Đuổi cướp là người trong nước ven biển còn dễ, đuổi cướp là người trong nước theo giặc rất khó." Khiến người Mân, Chiết càng hận ông. Rốt cục Hoàn ép Chu Lương phải đỗ thuyền ở Hải Tự, đợi đến kỳ hạn triều cống. Bộ Lại dùng lời của người Mân là Ngự sử Chu Lượng và Cấp sự trung Diệp Thang, xin đổi Hoàn làm Tuần thị, để giảm quyền của ông. Hoàn phẫn nọ, vào mùa xuân năm sau dâng sớ nói: "Thần chỉnh đốn hải phòng, phải làm từng bước; Lượng muốn tước đoạt quyền của thần, khiến quan viên cấp dưới không chịu nghe mệnh." Rồi trình bày 6 việc: Minh quốc thị , Chánh hiến thể, Định kỷ cương, Ách yếu hại, Trừ họa bổn, Trọng đoán quyết, lời lẽ phẫn khích. Sĩ đại phu trong triều trước đã bị dẫn dắt bởi dư luận của người Mân, Chiết, hơn nữa cũng không thích thái độ của Hoàn.
Phẫn uất tự vẫn
Hoàn trước tiên đánh dẹp bọn giặc ở các nơi Ôn, Bàn, Nam Kỷ, liên tiếp chiến đấu trong 3 tháng, đại phá được; sau đó quay về trấn áp bọn cướp quặng ở Xử Châu. Tháng 3 năm ấy, thuyền Phật Lãng Cơ tiến hành cướp bóc Chiếu An; Hoàn đánh bắt được thủ lãnh là bọn Lý Quang Đầu 96 người, liền tùy nghi giết chết. Sau đó Hoàn trình bày với hoàng đế, lời lẽ chỉ trích thế gia. Ngự sử Trần Cửu Đức bèn hặc Hoàn tùy ý giết chóc. Triều đình miễn chức của Hoàn, mệnh cho Binh khoa Đô cấp sự Đỗ Nhữ Trinh tra án. Hoàn nghe tin, khẳng khái rơi nước mắt, nói: "Tôi nghèo lại bệnh, nhờ ý chí chống đỡ mà thôi, không thể đối chất ở công đường. Nếu thiên tử không giết tôi, thì người Mân, Chiết ắt giết tôi. Cái chết của tôi, tự mình giải quyết, không đợi kẻ khác." Hoàn tự soạn mộ chí, làm thư tuyệt mệnh, rồi uống thuốc mà chết.
Năm thứ 29 (1550), Đô cấp sự Đỗ Nhữ Trinh, Tuần án ngự sử Trần Tông Quỳ về triều, nói dân buôn lậu là phường buôn bán chống cự bắt giữ, không hề tiếm hiệu và cướp bóc, luận tội Hoàn tự ý giết chóc. Triều đình giáng chiếu bắt Hoàn, nhưng ông đã chết; bọn Kha Kiều, Lư Thang cũng bị phán tội chết.
Đánh giá
Sử cũ nhận xét: Hoàn thanh liêm thẳng thắn, dũng cảm đảm nhiệm trọng trách; ông muốn vì quốc gia mà chôn lấp căn nguyên loạn lạc, nên bị thế gia hãm hại, khiến triều dã than thở. Từ khi Hoàn mất, triều đình không đặt chức Tuần thị đại thần, trong ngoài lắc đầu không dám nói đến việc Hải cấm. Chiết Trung có 41 vệ sở, chiến thuyền có 439 cỗ, quân tịch mất hết. Hoàn đem hơn 40 cỗ thuyền của bọn cướp đã bị bắt ở Phúc Thanh, phân bố theo đường biển, riêng tại Hải Môn vệ thuộc Đài Châu có 14 cỗ, làm chướng ngại bên ngoài cho Hoàng Nham; phó sứ Đinh Trạm đem toàn bộ phát tán, triệt tiêu việc giữ gìn Hải cấm. Chẳng bao lâu sau, nạn Oa khấu nổi lên, gây vạ cho đông nam nhà Minh hơn 10 năm.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱纨, 1494 – 1549), tự **Tử Thuần**, hiệu **Thu Nhai**, người huyện Trường Châu, phủ Tô Châu , quan viên nhà Minh, danh thần kháng Oa trong lịch sử Trung Quốc.
**Trần Hoàn** (chữ Hán: 陈桓, ? – 1393), người Hào Châu , tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Ban đầu Hoàn hưởng ứng nghĩa quân
**Chu Trinh** (chữ Hán: 朱橚; 5 tháng 4 năm 1364 – 22 tháng 3 năm 1424), được biết đến với tước hiệu **Sở Chiêu vương** (楚昭王), là hoàng tử của Minh Thái Tổ Chu Nguyên
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Hoàng tộc nhà Minh** của người Hán xuất hiện khi nhà Minh được thành lập nên ở Trung Quốc năm 1368 do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thành lập và lực lượng khởi nghĩa
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
**Quan chế nhà Minh** liệt kê chức vụ chính thức trong triều đại nhà Minh, không đầy đủ. ## Tước hiệu ### Ngoại thích * Công * Hầu * Bá * Quận công * Quận
**Công tước** thời nhà Minh thường được phong cho công thần khai quốc như Từ Đạt,Thường Ngộ Xuân,Lý Thiện Trường,Quách Dũ Sau này đây thường là tước truy phong cho công thần.Công thần được phong
**Phạm Thông** (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự **Bình Phủ**, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Tổ tiên của Thông
**Huyết án Ngọ môn nhà Minh** () là một sự kiện xảy ra vào ngày 12 tháng 9 năm 1449 (ngày 26 tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 dưới triều Minh Anh Tông) tại
**Ứng Thiên phủ** (phồn thể: **應天府**; giản thể: **应天府**), là một phủ được thành lập thời nhà Minh. Ban đầu nơi này là kinh sư của nhà Minh, về sau được trở thành thủ đô
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
**Vương Vũ** (chữ Hán: 王宇, ? – 1463), tự **Trọng Hoành**, người Tường Phù, Hà Nam , quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Từ khi còn bé, Vũ hằng ngày chép hơn vạn câu,
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Minh Thái Tổ** (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10 năm 1328 – 24 tháng 6 năm 1398), tên thật là **Chu Trùng Bát** (朱重八 ), còn gọi là **Hồng Vũ Đế** (洪武帝), **Hồng Vũ quân**
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh**, **Chiến tranh Hồ – Minh**, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là **cuộc xâm lược của nhà Minh**, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
**Chu Hoàn Vương** (chữ Hán: 周桓王; trị vì: 719 TCN - 697 TCN), tên thật là **Cơ Lâm** (姬林), là vị vua thứ 14 của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Xung đột
**Trương Dực** (chữ Hán: 张翼, ? – 1393), người Lâm Hoài , tướng lĩnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Cha Trương Dực là Trương Tụ, giữ
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Minh Tư Tông** (chữ Hán: 明思宗; 6 tháng 2 năm 1611 - 25 tháng 4 năm 1644) tức **Sùng Trinh Đế** (崇禎帝), là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Minh và cũng
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Viên Sùng Hoán** (; tên tự: Nguyên Tố (元素) và Tự Như (自如); 6 tháng 6 năm 1584 – 22 tháng 9 năm 1630) là một danh tướng chống Mãn thời Minh. Tuy xuất thân
**Minh Vũ Tông** (chữ Hán: 明武宗; 26 tháng 10, 1491 - 20 tháng 4, 1521) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1505 đến
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Loạn Chu Cao Hú** (), còn được gọi là **Loạn Cao Hú** () hoặc **Biến cố Định Nan** (), là một sự kiện xảy ra vào năm đầu niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh (1426),
**Chu Thần Hào** (chữ Hán: 朱宸濠; ? - 1521) còn gọi là **Ninh Vương** (寧王) (cai trị 1499 - 1521) là một trong số những phiên vương thời nhà Minh. Ông là cháu 5 đời
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱桓, 176 - 238), tên tự là **Hưu Mục**, người huyện Ngô, quận Ngô , tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
[[Minh Quang Tông Thái Xương Đế, tại vị chỉ được 29 ngày]] **Án hồng hoàn** (chữ Hán: 紅丸案), là vụ án thứ hai trong Ba vụ án thời Minh mạt, liên quan đến nguyên nhân
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Minh Hiếu Tông** (chữ Hán: 明孝宗, 30 tháng 7, 1470 – 8 tháng 6, 1505), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì 18
**Nam Minh** (, 1644–1662) là một Triều đại Trung Quốc được chính dòng dõi con cháu và các quan lại trung thành của nhà Minh thành lập ở phía Nam Trung Quốc ngay sau khi
**Vương Dương Minh** (phồn thể: 王陽明, giản thể: 王阳明, bính âm: Wang Yangming, 1472-1528), tên thật là **Thủ Nhân** (守仁), tự là **Bá An** (伯安) là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng
**Minh Tuyên Tông** (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tây Lương Minh Đế** (西梁明帝, 542 – 585), tên húy **Tiêu Khuy** (), tên tự **Nhân Viễn** (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Án văn tự đầu đời Minh** hay **Ngục văn tự đời Minh** là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, ngay sau khi nhà Minh được thành lập ở
nhỏ|Một phần của _Cổ Cầm Phổ_ do chính Chu Quyền viết nên **Chu Quyền** (chữ Hán: 朱權; 27 tháng 5, 1378 - 12 tháng 10, 1448), còn gọi là **Ninh Hiến vương** (寧獻王), là Hoàng
**_Hoàng Minh Tổ huấn_** là một bộ di chiếu gồm những lời khuyên răn của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế khai quốc của nhà Minh, dành cho con cháu của ông. Bộ
**Mãn Châu dưới sự cai trị của nhà Minh** đề cập đến sự thống trị của nhà Minh trên lãnh thổ Mãn Châu, kể cả vùng Đông Bắc Trung Quốc và Priamurye hiện nay. Sự
**Tư Lăng** (chữ Hán: 思陵) là nơi an táng Minh Tư Tông (hay **Sùng Trinh**) – Hoàng đế thứ 17 và cuối cùng của nhà Minh cùng hai người vợ ông là Chu Hoàng hậu
**Minh Mục Tông** (chữ Hán: 明穆宗, 4 tháng 3, 1537 - 5 tháng 7, 1572), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1567 đến năm
Nhà Chu (1066 TCN - 256 TCN) là triều đại dài nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc, nếu tính từ Hậu Tắc được Đường Nghiêu phân phong thì sự hiện
**Cảnh Trọng Minh** (; 1604 – 1649), tự **Vân Đài** (雲臺), là vị tướng lĩnh thời Minh mạt Thanh sơ. Ông quê ở Cái Châu, Liêu Đông, từng giữ chức Tham tướng Đăng Châu đầu
**Chu Cương** (朱棡; 18 tháng 12, 1358 - 30 tháng 3, 1398), còn gọi là **Tấn Cung vương** (晋恭王), là Đích tử thứ ba của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra
**Chu Dị** (chữ Hán: 朱异, 483 – 549) là quan viên nhà Lương thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Dị tự Ngạn Hòa, người Tiền Đường, Ngô Quận .