Chu Dị (chữ Hán: 朱异, 483 – 549) là quan viên nhà Lương thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Dị tự Ngạn Hòa, người Tiền Đường, Ngô Quận . Ông nội là Chu Chiêu Chi, nhờ học vấn mà nổi danh ở quê nhà. Cha là Chu Tốn Chi tự Xử Lâm, có chí hướng và tiết tháo. Khi Tốn Chi còn bé, Cố Hoan gặp anh ta thì lấy làm lạ, bèn gả con gái cho Tốn Chi, sanh ra Dị.
Năm Trung Đại Thông đầu tiên (529), Dị được thăng làm Tán kỵ thường thị. Biểu – sớ của địa phương, văn thư của triều đình, đủ các vấn đề, được chất đầy trước bàn; Dị miệng nói tay viết, đọc rồi quyết định, xử lý rất nhanh, không hề dừng bút, chỉ trong chốc lát thì mọi việc đều xong.
Đến khi Trinh Dương hầu Tiêu Uyên Minh thua trận bị bắt, từ Đông Ngụy sai sứ trở về, kể rằng quyền thần Cao Trừng muốn hòa mục; Vũ đế sắc cho hữu tư bàn bạc, Dị cho rằng hòa là việc nên làm, đế nghe theo. Tháng 6 ÂL năm ấy, nhà Lương sai Kiến Khang lệnh Tạ Đĩnh, Thông trực lang Từ Lăng đi sứ phương bắc để thông hảo. Bấy giờ Hầu Cảnh trấn thủ Thọ Xuân, nhiều lần khải xin cắt đứt hòa ước, đề nghị đuổi theo gọi sứ giả trở về. Hầu Cảnh còn gửi 200 lạng vàng kèm với thư cho Dị, lời lẽ thiết tha. Dị nhận vàng của Hầu Cảnh, chỉ đem sắc – chỉ của hoàng đế thông báo với ông ta, chứ không dừng việc đi sứ. Tháng 8 ÂL, Hầu Cảnh mượn danh nghĩa thảo phạt Dị và Lục Nghiệm để dấy binh nổi loạn. Trước đó Dị mộ được 3000 binh, nay phản quân đến, bèn lấy họ giữ cửa Tư Mã.
Hầu Cảnh đến dưới thành, bắn thư vào để khải rằng: “Bọn Chu Dị miệt – lộng triều quyền, khinh tác úy phúc, thần bị sàm thần hãm hại, muốn giết chết bọn chúng. Bệ hạ trị tội bọn Dị, thần sẽ giật dây cương quay về phương bắc.” Vũ đế hỏi Hoàng thái tử Tiêu Cương: “Có đúng không?” Thái tử đáp: “Đúng!” Vũ đế triệu Hữu tư đi bắt Dị, Thái tử nói: “Giặc riêng lấy bọn Dị làm danh nghĩa, hôm nay giết Dị, không cứu được nguy, chỉ để lại tiếng cười cho đời sau. Đợi việc được giải quyết, giết hắn chưa muộn.” Vũ đế mới thôi.
Tính cách
Dị giỏi lắm trò, trong cờ vây được xếp vào nhóm tay chơi thượng phẩm. Từ khi Dị được làm Thị trung, trở nên tham ăn của đút, lừa dối mọi người, quen thói dò xét ý vua, không chịu tiến hiền truất ác. Các nơi biếu xén, Dị chưa từng từ chối, nên xa gần chẳng ai không căm ghét. Dị xây nhà ở Đông Pha, vô cùng đẹp đẽ, cuối ngày kéo đến, say sưa ở đấy. Gần đến hoàng hôn, Dị lo cửa thành sắp đóng, bèn dẫn cận vệ từ nhà đến thành, sai chúng giữ cửa không cho khóa lại. Quyền thế của Dị ngày một lớn, lấn át trong ngoài triều đình, tài sản sánh ngang với Dương Khản. Dị thích ăn uống, lấy việc thưởng thức hình sắc hương vị làm vui, các món ngỗng non, lươn chín dùng không biết chán; dẫu gặp buổi chầu, trong xe cũng mang theo bánh ngọt. Dị ngạo mạn với quan viên trong triều, không kiêng dè quý thích. Có người khuyên can, Dị nói: “Ta là hàn sĩ đấy, gặp thời mới được như hôm nay. Các quý tộc đều cậy xương khô (của tổ tiên) mà xem thường (người khác), ta cúi đầu trước họ, ắt bị khinh miệt quá lắm. Ta phải ra tay trước với họ!”
Sau khi Từ Miễn, Chu Xá mất, ngoài triều dựa vào Hà Kính Dung, trong tỉnh dựa vào Dị. Hà Kính Dung chất phác thật thà, giữ kỷ cương mà làm việc, còn Dị tài hoa mẫn tiệp, mưu cầu tiếng tăm. Cả hai hành xử khác biệt nhưng đều được hoàng đế sủng hạnh. Dị ở trong tỉnh hơn 10 năm, chưa từng bị khiển trách. Tư nông khanh Phó Kỳ từng nói với Dị rằng: “Nay thánh thượng gởi gắm chánh sự cho anh, sao việc gì cũng nghe lời chỉ ý như vậy!? Đôi khi phải nói gì khác biệt chứ!” Dị nói: “Lời nói đúng thì tôi không thể can ngăn. Bây giờ thiên tử thánh minh, tôi còn có thể làm gì trái ý bề trên kia chứ!?”
Dị nắm giữ đại quyền hơn 30 năm, giỏi dò xét nội tâm của hoàng đế, hay a dua để làm theo ý chỉ, nên đặc biệt được sủng tín. Quan chức của Dị từ Viên ngoại thường thị cho đến Thị trung, cả bốn quan vị đều được ban Nhị điêu ; từ Hữu vệ soái đến Trung lĩnh quân, cả bốn chức vụ đều đứng đầu đội ngũ nghi vệ, là chuyện chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc.
Dị cùng các con trai từ dãy nhà ở Triều Câu đến Thanh Khê, ở đấy có đên đài – ao hồ để vui chơi, mỗi khi nhàn rỗi thì cùng khách khứa du ngoạn. Dị được khắp nơi hối lộ, nên rất giàu có, nhưng tính keo kiệt, chưa từng bố thí cho ai; thức ăn trong bếp bị hư hỏng, mỗi tháng phải bỏ đi đến mười mấy xe; các con trai dẫu có nhà riêng nhưng không được chia nhiều tài sản.
Hậu nhân
Con trai trưởng là Chu Túc, được làm quan đến Quốc tử bác sĩ; con trai thứ là Chu Nhuận, được làm quan đến Tư đồ duyện. Cả hai đều mất trong chiến loạn.
Tác phẩm
Dị soạn Giảng sơ của các kinh Lễ, Dịch cùng Nghi chú, Văn tập hơn trăm thiên, phần lớn thất lạc trong chiến loạn.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu Dị** (chữ Hán: 朱异, 483 – 549) là quan viên nhà Lương thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Dị tự Ngạn Hòa, người Tiền Đường, Ngô Quận .
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là **Hưu Viễn**, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, ? – ?), người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Thanh là thành viên của
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
**Tiêu Tông** (, 501-531), tên tự **Thế Khiêm** (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Chu Địch** (chữ Hán: 周迪, ? – 565), người Nam Thành, Lâm Xuyên , nhân vật quân sự cuối Lương đầu Trần vào thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Làm tướng
**Lương Nguyên Đế** (梁元帝), tên thật là **Tiêu Dịch** (chữ Hán: 蕭繹; 508 – 555), là vị vua thứ ba của nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
**Lương Giản Văn Đế** (梁簡文帝, 503–551), tên húy **Tiêu Cương** (蕭綱), tên tự **Thế Toản** (世纘), tiểu tự **Lục Thông** (六通), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱纨, 1494 – 1549), tự **Tử Thuần**, hiệu **Thu Nhai**, người huyện Trường Châu, phủ Tô Châu , quan viên nhà Minh, danh thần kháng Oa trong lịch sử Trung Quốc.
**Chữ Lô Lô** hay **chữ Di** (tiếng Lô Lô Bắc: , tiếng Lô Lô Nam: File:Yunnan guifan yiwen.svg /ɲe̠33 su55 su33 so21/) là một thuật ngữ chung cho các chữ viết sử dụng bởi người
**Khương Tử Nha** (chữ Hán: 姜子牙, 1156 TCN - 1017 TCN), tính **Khương** (姜), thị **Lã** (呂), tên **Thượng** (尚), tự **Tử Nha** (子牙), lại được gọi là **Thượng Phụ** (尚父), là khai quốc công
**Chu Lai** có tên khai sinh là **Chu Văn Lai**, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên nay là huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, hiện đang ở
**Chiến tranh Tiền Lý - Lương** là cuộc chiến bùng nổ từ năm 545 đến năm 550 kéo dài 5 năm do Triệu Quang Phục lãnh đạo chống quân Lương. ## Nguyên nhân Năm Giáp
**Chu Phù** (朱榑; 23 tháng 12, 1364 - 1428), còn gọi là **Tề Cung vương** (齊恭王), là Hoàng tử thứ bảy của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra triều Minh. Mẹ
**Chu Tấn** (chữ Hán: 周缙, ? - ?), tự Bá Thân, người huyện Vũ Xương, phủ Vũ Xương, hành tỉnh Hồ Quảng , quan viên nhà Minh. ## Cuộc đời Tấn nhờ thân phận Cống
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo
**Nhà Tần** (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Tần được đặt tên theo nước Tần - nước đã chiến
**Chủ nghĩa tư bản** (Chữ Hán: 主義資本; tiếng Anh: _capitalism_) là một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và hoạt động sản xuất vì
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
nhỏ|phải|Triết gia [[Friedrich Engels|F. Engels với các tác phẩm của mình đã đặt nền tảng cho Lý luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin về nhà nước.]] **Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa
**Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Science and Technics Publishing House_) thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
**Trương Lương** (chữ Hán: 張良; trước 250 TCN - 186 TCN), biểu tự **Tử Phòng** (子房), là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người
**Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng** là một vườn quốc gia của Việt Nam, nằm tại xã Bố Trạch và Minh Hóa, tỉnh Quảng Trị, cách phường Đồng Hới khoảng 50 km về phía
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
**Nhà nước Mới** (tiếng Bồ Đào Nha: **_Estado Novo_**, ) là chế độ chính trị theo chủ nghĩa xã đoàn của Bồ Đào Nha từ năm 1933 đến năm 1974. Tiền thân của Nhà nước
nhỏ|phải|[[Nhà máy điện hạt nhân Ikata, lò phản ứng nước áp lực làm lạnh bằng chất lỏng trao đổi nhiệt thứ cấp với đại dương.]] nhỏ|phải|Ba loại tàu năng lượng hạt nhân, từ trên xuống
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
thumb|[[Max Schreck vai Bá tước Orlok trong bộ phim _Nosferatu_ (1922). Nhà phê bình kiêm nhà sử học Kim Newman cho rằng đây là bộ phim thiết lập khuôn mẫu cho phim kinh dị.]] thumb|Chiếc
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
[[Hiệu ứng giọt đen khi Sao Kim đi vào đĩa Mặt Trời trong lần đi qua năm 2004.]] nhỏ|Hình ảnh Mặt Trời qua tia cực tím và xử lý màu sai cho thấy Sao Kim
nhỏ|ngọc [[bích thuộc văn hóa Lương Chử. Đồ tế lễ là biểu tượng cho sự giàu có và sức mạnh quân sự.]] **Văn hóa Lương Chử** () (3300 — 2300 TCN) là nền văn hóa
**Chủ nghĩa tự do hiện đại Hoa Kỳ** là phiên bản chủ đạo của chủ nghĩa tự do tại Hoa Kỳ. Nó kết hợp ý tưởng của tự do dân sự (_civil liberty_) và bình
**Tả Lương Ngọc** (chữ Hán: 左良玉, 1599 – 1645), tên tự là **Côn Sơn**, người Lâm Thanh, Sơn Đông, là tướng lĩnh cuối đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Phòng vệ Liêu Đông
**Dân chủ** là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi thành viên đều có quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định. Dân chủ cũng được hiểu là một hình
**Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ** phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kỳ tự chủ Việt Nam (đầu thế kỷ 10 sau hơn 1000
**Lương Khải Siêu** (1873 - 1929), tự là **Trác Như**, hiệu là **Nhiệm Công**, bút hiệu là **Ẩm Băng Tử**, **Ẩm Băng Thất chủ nhân**. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động
**Tần Lương Ngọc** (chữ Hán: 秦良玉, 1574 -1648), tự **Trinh Tố**, người Trung Châu, Tứ Xuyên, là nữ danh tướng kháng Thanh cuối đời nhà Minh. Bà là một phụ nữ thuộc dân tộc Hán,
**Dữu Lượng** (chữ Hán: 庾亮, 289 - 340), tên tự là **Nguyên Quy** (元規), nguyên quán ở huyện Yên Lăng, quận Dĩnh Xuyên, là đại thần, tướng lĩnh xuất thân từ ngoại thích dưới thời