✨Tiêu Tông (Nhà Lương)

Tiêu Tông (Nhà Lương)

Tiêu Tông (, 501-531), tên tự Thế Khiêm (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu Bảo Quyển triều Nam Tề.

Thời gian ở Lương

Mẹ của Tiêu Tông nguyên là cung nhân của Nam Tề Phế Đế Tiêu Bảo Quyển, sau khi Tiêu Bảo Quyển bị giết chết thì bà trở thành thiếp của Tiêu Diễn, được lập làm thục viện, bảy tháng sau thì sinh hạ Tiêu Tông. Trong cung có nhiều nghi ngờ rằng Tiêu Tông là con của Tiêu Bảo Quyển song Tiêu Diễn không tin theo. Sau khi Ngô thục viện bị thất sủng, đem sự việc này kể với nhi tử. Sau khi biết chuyện, Tiêu Tông bí mật lập thất miếu thờ triều Tề, lại lén đi lễ bái lăng của Nam Tề Minh Đế. Tuy nhiên, Tiêu Tông không có cách nào xác tín bản thân mình là con trai của Tiêu Bảo Quyển. Sau khi nghe nói về việc "tích huyết nghiệm thân", Tiêu Tông liền bí mật phát quật mộ táng của Tiêu Bảo Quyển, nhỏ máu lên trên di cốt, máu ngấm vào xương cốt. Sau đó, Tiêu Tông lại giết chết một nhi tử của chính mình, lấy hài cốt để thử nghiệm. Từ đó, Tiêu Tông thực sự tin rằng mình là di phúc tử của Tiêu Bảo Quyển.

Ngày 15 tháng 8 năm 504, Tiêu Tông được phong làm Dự Chương quận vương, thực ấp 2000 hộ. Ngày 27 tháng 2 năm 506, Tiêu Tông thụ chức sứ trì tiết, đô đốc Nam Từ châu chư quân sự, Nhân Uy tướng quân, Nam Từ châu thứ sử. Không lâu sau, Tiêu Tông được tiến hiệu Bắc trung lang tướng. Ngày 20 tháng 2 năm 511, cải nhiệm làm đô đốc Tư, Dĩnh, Hoắc tam châu chư quân sự; Vân Huy tướng quân, Dĩnh châu thứ sử. Ngày 23 tháng 5 năm 513, cải nhiệm làm An Hữu tướng quân, lĩnh thạch đầu thú quân sự. Ngày 27 tháng 5 năm 516, cải nhiệm làm kiêm hộ quân. Ngày 13 tháng 12 năm 516, cải nhiệm An Tiền tướng quân. Ngày 30 tháng 3 năm 517, cải nhiệm Bắc trung lang tướng, Nam Từ châu thứ sử. Ngày 28 tháng 1 năm 521, cải nhiệm thị trung, Trấn Hữu tướng quân.

Ngày 28 tháng 4 năm 523, Tiêu Tông được cải nhiệm là sứ trì tiết, đô đốc Nam Duyện, Duyện, Thanh, Từ, Ký ngũ châu chư quân sự, Bình Bắc tướng quân, Nam Duyện châu thứ sử. Ngày 30 tháng 1 năm 524, Tiêu Tông được tiến hiệu là Trấn Bắc tướng quân.

Tiêu Tông được biết Kiến An vương Tiêu Bảo Dần của Nam Tề ở tại Bắc Ngụy, xem người này là thúc phụ, hứa đem vùng trấn thủ quy hàng Bắc Ngụy. Năm 525, Lương Vũ Đế tiến hành Bắc phạt, tướng Bắc Ngụy là Nguyên Pháp Tăng (元法僧) đem Bành Thành hàng Lương. Lương Vũ Đế lệnh cho Tiêu Tông lãnh đạo quân lính trấn thủ Bành Thành. Sau đó, Lương Vũ Đế lệnh cho Tiêu Tông thoái quân. Tiêu Tông nghĩ rằng nếu về Nam thì sau này sẽ không còn có cơ hội gặp Tiêu Bảo Dần, vì thế vào ngày 12 tháng 7, Tiêu Tông đã cưỡi ngựa chạy trốn thâu đêm đến chỗ tướng Bắc Ngụy Nguyên Diên Minh. Tiêu Diễn vô cùng phẫn nộ nên đã phế Ngô thục viện làm thứ nhân, không lâu sau thì bà bệnh mất, có thuyết nói bị hạ độc giết chết. Ngô thục viện bệnh mất, Lương Vũ Đế mủi lòng, hạ chiếu khôi phục phong hiệu cho Tiêu Tông, ban cho Ngô thục viện thụy hiệu "Kính" (敬).

Thời gian ở Bắc Ngụy

Sau khi chạy sang Bắc Ngụy, Tiêu Tông thụ chức "tư không", được phong tước "Cao Bình quận công", "Đan Dương vương", thực ấp 7.000 hộ, thưởng 3 triệu tiền đồng, 3.000 thất vải lụa, 1.000 thất tạp thái, 50 con ngựa, 500 con dê, 100 nô tì. Tiêu Tông đoạn tuyệt quan hệ phụ-tử với Lương Vũ Đế, đổi tên thành "Tán" (贊), cải tự "Đức Văn" (德文), mặc áo tang nhận Tiêu Bảo Quyển làm cha ruột. Sau khi Lương Vũ Đế biết chuyện đã tước bỏ tước hiệu và đất phong của Tiêu Tông, cắt đứt thuộc tịch, đổi họ Tiêu Trực (con trai của Tiêu Tông) thành Bội (悖). Không quá 10 ngày, Lương Vũ Đế lại khôi phục thuộc tịch của Tiêu Tông, phong Bội Trực làm Vĩnh Tân hầu, thực ấp 1.000 hộ.

Năm 527, Tiêu Bảo Dần làm phản ở Trường An, Tiêu Tán muốn rời khỏi Lạc Dương đến hưởng ứng. Chiếu theo luật pháp Bắc Ngụy, khi qua cầu không được cưỡi ngựa, song Tiêu Tán lại cưỡi ngựa đi qua, cuối cùng bị lính giữ cầu bắt đưa đến Lạc Dương. Đến khi triều đình Bắc Ngụy nghị, nhận định Tiêu Tán không liên can đến cuộc phản loạn của Tiêu Bảo Dần, cuối cùng xá miễn. Tháng 10 năm Vĩnh An thứ nhất (528), Tiêu Tán nhậm chức "tư đồ". Tháng 11, cải nhiệm thái úy. Sau đó, Tiêu Tán kết hôn với hoàng tỉ của Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế là Thọ Dương trưởng công chúa, được trao chức phò mã đô úy, xuất nhiệm Tề, Tế, Tây Duyện tam châu chư quân sự; Tề châu thứ sử; Phiếu Kị đại tướng quân; Khai Phủ Nghi Đồng tam ti.

Tháng 12 năm Vĩnh An thứ 3 (530), Nhĩ Chu Triệu (爾朱兆) và Nhĩ Chu Độ Luật (爾朱度律) đánh chiếm Lạc Dương, sát hại Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế. Cùng tháng, Triệu Lạc Chu (趙洛周) ở Tề châu chiếm thành hưởng ứng cuộc phản loạn của Nhĩ Chu Triệu, đánh đuổi Tề châu thứ sử Tiêu Tán. Thọ Dương trưởng công chúa bị bắt đưa đến Lạc Dương, Nhĩ Chu Thế Long (爾朱世隆) muốn chiếm hữu trưởng công chúa, trưởng công chúa không thuận theo nên bị giết. Sau khi Tiêu Tán bị đánh đuổi, xuất gia làm sư, đến ẩn tại Trường Bạch Sơn. Không lâu sau đó, Tiêu Tán đi đến Dương Bình, bị bệnh mất tại đây, hưởng dương 30 tuổi. Đến năm 531, thời Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế, triều đình Bắc Ngụy tiến hành an táng theo vương lễ cho Tiêu Tán, hợp táng với Thọ Dương trưởng công chúa tại Tung Sơn.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tiêu Tông** (, 501-531), tên tự **Thế Khiêm** (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là **Hưu Viễn**, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Tống Phúc Lương** (chữ Hán: 宋福樑, thường đọc **Tống Phước Lương**, 1771 - 1834) là ngoại thích, tướng lĩnh phục vụ cho dòng họ Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Phúc Thuần cho đến đời vua
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Tiêu Tiển** () (583–621) là một hậu duệ của hoàng tộc triều Lương. Ông đã nổi dậy chống lại sự cai trị của triều Tùy vào cuối thời gian cai trị của Tùy Dạng Đế.
**GNP** (viết tắt cho _Gross National Product_ bằng tiếng Anh) tức **Tổng sản lượng quốc gia** hay **Tổng sản phẩm quốc gia** là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế
**Tiêu Tông** () hay **Tây Lương Hiếu Tĩnh Đế** (西梁孝靖帝), tên tự **Ôn Văn** (溫文), là hoàng đế cuối cùng của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ thân, Tiêu
**Tây Lương Minh Đế** (西梁明帝, 542 – 585), tên húy **Tiêu Khuy** (), tên tự **Nhân Viễn** (仁遠), là một hoàng đế của chính quyền Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như phụ
**Bảo tồn năng lượng** đề cập đến nỗ lực để giảm tiêu thụ năng lượng. Tiết kiệm năng lượng có thể đạt được thông qua tăng sử dụng năng lượng hiệu quả, kết hợp với
**Lương Giản Văn Đế** (梁簡文帝, 503–551), tên húy **Tiêu Cương** (蕭綱), tên tự **Thế Toản** (世纘), tiểu tự **Lục Thông** (六通), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
Kiên Giang – Năm 2021, LĐLĐ tỉnh Kiên Giang thực hiện đạt, vượt nhiều chỉ tiêu Tổng LĐLĐ Việt Nam giao.Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Kiên Giang Trương Thanh Thúy phát biểu tại hội nghị. Ảnh:
**Tiêu Chính Đức** (, ?- 549), tên tự **Công Hòa** (公和), là một thân vương của triều Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong một thời gian ngắn, ông đã yêu cầu hoàng vị của
**Tổng nha Tài chính và Thanh tra Quân phí** là một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Tổng nha có nhiệm vụ chuyên lo về tài chính và quân phí
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia** (tiếng Anh: _Commission for the Standards, Metrology and Quality of Viet Nam_, viết tắt là **STAMEQ**) là cơ quan trực thuộc Bộ Khoa học và
**Tiêu Đống** (, ?- 552), tên tự **Nguyên Cát** (元吉), đôi khi được biết đến với tước hiệu trước khi đăng cơ là **Dự Chương vương** (豫章王), là một hoàng đế có thời gian trị
Trong kinh tế học quản trị, **tổng sản lượng** (ký hiệu là **TP**) là mức sản lượng được sản xuất ra từ các mức khác nhau của một yếu tố đầu vào kết hợp với
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Tiêu Vũ** (574–647) chữ Hán - 蕭瑀, tên tự **Thời Văn** (時文), ông được phong Tống Quốc Công, là một hoàng tử của triều đại Tây Lương, người sau này trở thành một quan chức
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Liêu Thái Tông** (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là **Nghiêu Cốt**, tên tiếng Hán **Gia Luật Đức Quang** (耶律德光), tên tự **Đức Cẩn**, là vị hoàng đế thứ hai
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Bản đồ các nền kinh tế thế giới theo quy mô GDP (danh nghĩa) tính bằng USD, nguồn _[[World Bank_, 2014|thế=|390x390px]] Trong kinh tế học, **tổng sản phẩm nội địa**, tức **tổng sản phẩm quốc
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Nhà Thanh** hay **Trung Hoa Đại Thanh quốc**, **Đại Thanh Đế Quốc**, còn được gọi là **Mãn Thanh** (chữ Hán: 满清, ), là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn
nhỏ|phải|Gió, sóng và thủy triều chiếm hơn 80% năng lượng tái tạo tiềm năng của Scotland. Việc sản xuất **năng lượng tái tạo ở Scotland** là một vấn đề hàng đầu trong kỹ thuật, kinh
**Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Science and Technics Publishing House_) thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy
Công ty chuyên cung cấp các sản phẩm bê tông chất lượng cao, thi công các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, giao thông,… với đội ngũ kỹ
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà