Vương Quân (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là Nguyên Lễ, tự khác là Đức Nhu, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Thiếu thời
Quân là thành viên của sĩ tộc họ Vương quận Lang Da, cháu 7 đời của thừa tướng Vương Đạo. Ông cụ là Tả Quang lộc đại phu, Dự Ninh Văn hầu Vương Đàm Thủ nhà Lưu Tống (Đàm Thủ là em trai của Vương Hoằng). Ông nội là Tư không Vương Tăng Kiền nhà Nam Tề – con trai thứ của Vương Đàm Thủ (Tăng Kiền là em trai của Vương Tăng Xước); ông ngoại là Tư đồ Viên Sán – thành viên của sĩ tộc họ Viên quận Trần, chống đối quyền thần Tiêu Đạo Thành thất bại, nên bị giết. Cha là Vương Tiếp hay Vương Ấp – con trai thứ 3 của Vương Tăng Kiền, được làm đến Thái trung đại phu (Tiếp/Ấp là em trai của Vương Từ, Vương Chí).
Quân từ nhỏ đã cơ cảnh, thông minh, lên 7 tuổi có thể làm Thuộc văn. Lên 16 tuổi, Quân làm Thược dược phú, được người đời khen là rất đẹp. Đến khi trưởng thành, Quân trở nên thanh tĩnh hiếu học, tề danh với anh họ Vương Thái (con trai của bác cả Vương Từ). Ở Nam triều, họ Vương quận Lang Da và họ Tạ quận Trần là 2 dòng dõi sĩ tộc có danh vọng cao nhất. Bấy giờ họ Tạ có anh em Tạ Lãm và Tạ Cử được khen ngợi về tài năng, người đương thời có câu rằng: “Tạ có Lãm Cử, Vương có Dưỡng Cự.” Dưỡng là tên lúc nhỏ (tiểu tự) của Quân, Cự là tên lúc nhỏ của Thái. Thượng thư lệnh Thẩm Ước cho rằng Quân không chỉ có ngoại hình, mà phong vận đều tương tự với Viên Sán, bộc xạ Trương Tắc cũng cho rằng 2 người chỉ khác nhau 1 điểm: Sán gặp người ta thì nghiêm nghị, còn Quân thì vui cười.
Sự nghiệp
Ban đầu Quân được nhận chức Trung quân Lâm Xuyên vương Hành tham quân, thăng Thái tử xá nhân, trừ chức Thượng thư Điện trung lang. Từ khi nhà họ Vương sang miền nam, chưa có ai phải làm Lang, có người khuyên Quân tạm thời đừng nhận, ông nói: “Lục Bình Nguyên (tức Lục Cơ) là sao sáng đông nam, Vương Văn Độ (tức Vương Thản Chi) độc bộ Giang Đông, tôi được làm người tiếp bước của họ, có gì đáng hận?” rồi vui vẻ nhận chức.
Quân được Thẩm Ước thưởng thức tài năng, nên dần thăng làm Thái tử tẩy mã, Trung xá nhân, còn được làm Chưởng Đông cung quản ký. Thái tử Tiêu Thống yêu mến kẻ sĩ có văn tài, thường cùng Quân và bọn Lưu Hiếu Xước, Lục Thùy, Đáo Hiệp, Ân Vân bày tiệc ở vườn Huyền Phố , từng một tay nắm lấy tay áo của Quân, một tay vỗ lên vai của Hiếu Xước mà nói rằng: “Đây có thể nói là trái nắm tay áo Phù Khâu, phải vỗ vai Hồng Nhai .” Quân lại cùng Ân Vân lấy lễ cao nhã mà chào nhau. Sau đó Quân được ra làm Đan Dương doãn thừa, Bắc trung lang Tư nghị tham quân, thăng làm Trung thư lang. Quân phụng sắc làm văn bia của nhà sư Bảo Chí ở chùa Khai Thiện (开善寺宝志法师碑文, Khai Thiện tự Bảo Chí pháp sư bi văn), được khen là lời hay ý đẹp; lại phụng sắc soạn Trung thư biểu tấu (中书表奏) 30 quyển, kèm theo phú, tụng của mình dâng lên hoàng đế, đưa vào 1 tập. Ít lâu sau Quân được kiêm chức Ninh viễn, Tương Đông vương Trưởng sử, tạm coi (tức là Hành) việc của phủ, (vương) quốc, quận. sau đó Quân được trừ chức Thái tử gia lệnh, trở lại làm Chưởng quản ký.
Năm Phổ Thông đầu tiên (520), Quân gặp tang mẹ nên rời chức. Quân tính hiếu thảo, vì thương xót quá đỗi nên phát bệnh, mãn tang rất lâu vẫn chưa thể trở lại làm việc. Năm thứ 6 (525), Quân được trừ chức Thượng thư Lại bộ lang. thăng Thái tử Trung thứ tử, lĩnh Vũ Lâm giám, rồi đổi lĩnh Bộ binh. Năm Trung Đại Thông thứ 2 (530), Quân được thăng làm Tư đồ Tả trưởng sử.
Năm thứ 3 (531), Tiêu Thống mất, Quân nhận sắc làm Ai sách văn, lại được khen ngợi. Ít lâu sau Quân được ra làm Trinh uy tướng quân, Lâm Hải thái thú. Ở quận, Quân hà khắc, từng chiếm đoạt 2 phảng (thuyền đáy bằng) dép cỏ gai, còn những thứ khác nữa; hành vi của ông bị tố giác lên triều đình, khiến ông nhiều năm không được thăng chức.
Năm Đại Đồng đầu tiên (535), Quân được khởi làm Vân huy, Dự Chương vương Trưởng sử, thăng Bí thư giám. Năm thứ 5 (539), Quân được trừ chức Thái phủ khanh. Năm sau (540), Quân được thăng làm Độ chi thượng thư. Năm Trung Đại Đồng đầu tiên (546), Quân được ra làm Minh uy tướng quân, Vĩnh Gia thái thú, xưng bệnh từ chối, được dời làm Quang lộc đại phu, ít lâu thăng làm Vân kỵ tướng quân, Tư đồ Tả trưởng sử.
Cái chết
Năm Thái Thanh thứ 2 (548), Hầu Cảnh vây kinh sư, khi ấy Quân không ở trong thành. Năm sau (549), Lương Giản Văn đế nối ngôi, Quân được làm Thái tử chiêm sự. Nhà cũ của Quân bị phản quân đốt mất, nên ông ở nhờ Quốc tử tế tửu Tiêu Tử Vân. Trong đêm có kẻ cướp xông vào, Quân sợ hãi nhảy xuống giếng mà chết, hưởng thọ 69 tuổi. Cả nhà 13 người đều bị hại, ném thây xuống giếng.
Tính cách
Quân có vóc người thấp bé, cao chưa đến 6 thước. Nhà có đến ngàn vàng, nhưng Quân có tính tằn tiện, áo mặc thô xấu, ngay đến con bò kéo xe của mình cũng cho ăn cỏ tươi (thay vì cỏ khô). Dù vậy Quân đối với người ngoài lại tỏ ra ưu hậu, không nhận mình có tài năng hơn người. Quân từ bé đã có tiếng tăm, cùng Lưu Hiếu Xước rất được người đương thời xem trọng.
Tác phẩm
Thẩm Ước là thủ lãnh của văn đàn đương thời, kế tục văn đàn Vĩnh Minh đời Nam Tề, nhưng mỗi khi gặp tác phẩm của Quân thì e a ngâm vịnh, cho rằng mình không theo kịp. Thẩm Ước so sánh mình gặp được Quân chẳng khác gì Thái Ung gặp được Vương Sán cuối đời Đông Hán, rồi trở thành tri âm của nhau. Nhân dịp Thẩm Ước dựng các trai (nhà riêng có gác) ở Giao cư trạch, Quân làm 10 bài vịnh cây cỏ (Thảo mộc thập vịnh) không đặt đầu đề, chép ở trên vách; đáp lại, Ước làm Giao cư phú, nhờ ông chép lại bản thảo; đôi bên không tiếc lời ca ngợi lẫn nhau.
Ngoài những tác phẩm dâng lên hoàng đế đã kể trên, Quân tự soạn văn chương của mình, cứ 1 chức quan thì đóng thành 1 tập: Tẩy mã, Trung thư, Trung thứ tử, Lại bộ, Tả tá, Lâm Hải, Thái phủ đều có 10 quyển; còn có Thượng thư 30 quyển, cả thảy 100 quyển. Ngày nay tác phẩm của Quân được Trương Phổ tập hợp trong Vương chiêm sự tập, đưa vào Hán Ngụy Lục triều bách tam gia tập.
Đánh giá
Quân có thể gieo vần khó (cường vận), ở mỗi buổi tiệc trong triều đình đều làm ra tác phẩm, luôn có lời hay ý đẹp. Theo Ngọc giản tạp thư của Diệp Mộng Đắc, trước khi thơ Đường luật ra đời, khái niệm “cường vận” trong chánh sử duy nhất được đề cập trong Vương Quân truyện của Lương thư. Vì thế Quân nhiều lần được nhận mệnh sáng tác để dâng lên hoàng đế, Thẩm Ước từng vui vẻ khải với Lương Vũ đế rằng: “Danh gia xưa nay, chỉ thấy Vương Quân độc bộ.” Trong dịp Ngự diên (tiệc rượu của hoàng đế), Thẩm Ước lại nói với bác hai của Quân là Vương Chí rằng: “Cháu anh nắm giữ cái đẹp của văn chương, có thể nói là độc bộ trong đám hậu sinh. Tạ Thiểu từng nói: ‘Thơ hay lưu chuyển hoàn mỹ như hòn đạn.’Gần đây đọc mấy bài của hắn, mới biết lời ấy là thật.”
Quân thường làm thơ gởi cho Thẩm Ước; đối với thể loại thơ thù xướng này, thành tựu của Quân nhìn chung không có gì đặc biệt, bởi vì đối tượng thù xướng của ông chỉ là những thành viên sĩ tộc đang tận hưởng đỉnh cao quyền lực của nhà Lương: Lương Vũ đế, thái tử Tiêu Cương, thượng thư lệnh Thẩm Ước và Ngô Quân,... Ví dụ: Tiêu Cương từng làm Mông dự sám hối thi, Vũ đế đáp lại với Hòa thái tử sám hối thi, còn Quân đáp lại với Hòa hoàng thái tử sám hối thi. Về nội dung, bài Hòa Ngô chủ bộ (tức Ngô Quân) có thể xem là tiêu biểu của Quân ở thể loại này: hầu như chỉ đề cập đến tâm tình bản thân, ít quan tâm đến hoàn cảnh bên ngoài.
Theo Thi phổ của Trần Dịch Nguyên, Thẩm Ước, Hà Tốn và Vương Quân là những nhà thơ có công gây dựng nền tảng cho Đường luật. Trần Dịch Nguyên ca ngợi Quân mạnh ở khả năng gieo vần, ví dụ: Sở phi ngâm, Khuê tình, Tạp khúc nhị thủ kì 2, Xuân du dùng bình vận, Tặng Tiêu đại phu, Tam phụ diễm thi dùng trắc vận. Hơn nữa, Quân được cho là đi trước thời đại về mặt thể thơ, ví dụ: Thảo mộc thập vịnh được làm theo phép liên chương, phải đến đời Đường mới thông dụng, Sở phi ngâm rất gần với từ,... Nhìn chung, Quân là nhà thơ được đánh giá cao về kỹ thuật, nhưng về nội dung thì không có gì đặc sắc.
Tác phẩm tiêu biểu
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là **Hưu Viễn**, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, ? – ?), người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Thanh là thành viên của
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Vương Du** (chữ Hán: 王瑜, 522 – 561), tự Tử Khuê, người Lâm Nghi, Lang Tà , quan viên, nhà ngoại giao đời Trần thời Nam bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
**Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế** (tiếng Anh: _International Renewable Energy Agency_, viết tắt là **IRENA**) được thành lập năm 2009 để khuyến khích gia tăng việc sử dụng và phổ biến năng
**Cung thái hậu** (chữ Hán: 龔太后), không rõ tên thật, (?-562), thụy hiệu: **Nguyên thái hậu** (元太后) là một hoàng thái hậu của triều đại nhà Lương. Bà là thiếp thất của Chiêu Minh thái
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Quân phiệt Lương châu** là lực lượng quân phiệt cát cứ cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Đây là một trong những lực lượng ly khai nhà Đông Hán sớm nhất, mở
**Tiêu Tông** (, 501-531), tên tự **Thế Khiêm** (世謙), là hoàng tử thứ hai của Lương Vũ Đế, mẹ là Ngô thục viện, ông tự xem mình là di phúc tử của hoàng đế Tiêu
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
**Vương Quan Dật** (Tên tiếng Anh: Lawrence Wong, sinh ngày 5 tháng 8 năm 1988) là diễn viên, ca sĩ, người dẫn chương trình, người mẫu Singapore. Là diễn viên ở các thể loại: phim
**Vương Kiệt** (chữ Hán: 王杰, 1725 – 1805), tự **Vĩ Nhân**, người Hàn Thành, Thiểm Tây , quan viên nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là trạng nguyên người Thiểm Tây đầu tiên
**Vương Quán Trung** (; sinh tháng 2 năm 1953) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVIII,
**Cơ quan Năng lượng hạt nhân** (tiếng Anh: _Nuclear Energy Agency_) là cơ quan liên chính phủ đa quốc gia của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Cơ quan được thành lập
**Nguyễn Tấn** (阮縉, 1822-1871), tự là **Tử Vân**, là một võ quan nhà Nguyễn đời vua Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. Ông thành danh là nhờ công đánh dẹp các cuộc nổi dậy
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Lương Nguyên Đế** (梁元帝), tên thật là **Tiêu Dịch** (chữ Hán: 蕭繹; 508 – 555), là vị vua thứ ba của nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
**Vương Lâm** (chữ Hán: 王琳, 526 – 573) là tướng lãnh nhà Lương và nhà Bắc Tề thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Lâm tự Tử Hành, người huyện
**Tư Mã Lượng** (司馬亮) (mất 291) tên tự _Tử Dực_ (子翼), tước hiệu _Nhữ Nam Văn Thành vương_(汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ
thumb|281x281px|Dấu ấn lịch sử tại [[Dinh tổng thống (Nam Kinh)|Dinh tổng thống Nam Kinh nhắc đến chữ "Thiên Vương" trong lời tựa ()]] **Thiên vương** () là tước hiêu của Trung Quốc dành cho các
nhỏ|Lãnh binh Mai Lượng **Mai Lượng** là võ tướng, lãnh tụ khởi nghĩa phong trào Cần Vương chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam ở vùng hữu ngạn sông Gianh
**Vương Tử Trực** (chữ Hán: 王子直, ? – ?), tự **Hiếu Chánh**, người huyện Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu , quan viên, tướng lãnh nhà Bắc Ngụy, nhà Tây Ngụy cuối thời Nam bắc triều.
**Marguerite xứ Anjou** (tiếng Pháp: _Marguerite d'Anjou_; 23 tháng 3, 1430 - 25 tháng 8, 1482), hay **Margaret** trong tiếng Anh, là Vương hậu nước Anh với tư cách là vợ của Henry VI của
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
**Chung Quân** (chữ Hán: 终军, ? – 112 TCN), tự Tử Vân, người quận Tế Nam , nhà văn, nhà ngoại giao, quan viên đời Tây Hán. Ông tham gia sứ đoàn đến Nam Việt,
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Vương Tăng Biện** (chữ Hán: 王僧辩, ? – 555) là tướng lãnh nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn Hầu Cảnh. ## Khởi nghiệp Nhà họ
**Nguyên Quân** (chữ Hán: 元均, 478 – 529), hay **Thác Bạt Quân** (拓跋均), tự **Thế Bình**, là hoàng thân, quan viên nhà Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông tổ 5
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
**Chiến tranh Tiền Lý - Lương** là cuộc chiến bùng nổ từ năm 545 đến năm 550 kéo dài 5 năm do Triệu Quang Phục lãnh đạo chống quân Lương. ## Nguyên nhân Năm Giáp
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后, không rõ năm sinh năm mất) là một hoàng thái hậu tại vị trong thời gian ngắn ngủi của triều đại nhà Lương. Bà là mẹ của Phế Đế
**Vương Quân Chính** (tiếng Trung giản thể: 王君正; bính âm Hán ngữ: _Wáng Jūn Zhèng_; sinh ngày 17 tháng 5 năm 1963, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
**Công ước chung về An toàn Quản lý Nhiên liệu đã qua sử dụng và về An toàn Quản lý Chất thải phóng xạ** (tiếng Anh: **Joint Convention on the Safety of Spent Fuel Management
**Vương Độ** (chữ Hán: 王度, 584? – 621?), người đất Kỳ, Thái Nguyên, là quan lại và sử gia cuối thời Tùy đầu thời Đường. Ông là con của Vương Long giữ chức bác sĩ
**Vương Vũ** (chữ Hán: 王宇, ? – 1463), tự **Trọng Hoành**, người Tường Phù, Hà Nam , quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Từ khi còn bé, Vũ hằng ngày chép hơn vạn câu,
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**