✨Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý Lê Tư Thành (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên thực tế của vương triều Lê Sơ trong lịch sử Việt Nam (Lê Nghi Dân tạo phản cướp ngôi nên các sử gia thời đó không công nhận là hoàng đế chính thống), trị vì từ năm 1460 đến khi băng hà vào năm 1497, là vị vua tại vị lâu nhất thời Lê Sơ và lâu thứ hai thời Hậu Lê sau Lê Hiển Tông với 46 năm (1740 - 1786). Thời kỳ của ông đã đánh dấu sự hưng thịnh của triều Hậu Lê nói riêng và chế độ quân chủ Việt Nam nói chung với tên gọi Hồng Đức thịnh trị (洪德盛治).

Trong 37 năm trị quốc, Lê Thánh Tông đã ban bố nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy quan chế, hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp và áp dụng Tân Nho giáo vào việc trị an, khiến Đại Việt trở thành một quốc gia ổn định và văn minh. Ông là người đã ban hành Bộ Luật Hồng Đức. Ông xây dựng một hệ thống quan liêu đồ sộ từ trung ương tới địa phương,

Thân thế và niên thiếu

Lê Thánh Tông có tên húy là Lê Tư Thành, là con trai út của Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Đại Việt sử ký toàn thư miêu tả ông: "Thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước".

Ngày 27/7 âm lịch năm Nhâm Tuất (1442), Lê Thái Tông băng hà. Thái tử Lê Bang Cơ, con của Thần phi Nguyễn Thị Anh, anh trai khác mẹ mới 1 tuổi của Tư Thành lên ngôi thuận theo di chiếu, tức Lê Nhân Tông, Thái hậu Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Năm 1445, Tư Thành được phong tước Bình Nguyên vương, vào ở kinh sư, học cùng các vương khác tại Kinh diên. Các quan Kinh diên thấy Tư Thành dáng điệu đường hoàng, trí tuệ hơn người, cho là bậc khác thường. Ông sống kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra ngoài, vui với sách vở thánh hiền, ưa điều thiện, thích người hiền, chăm chỉ không biết mệt mỏi, nên được Thái hậu yêu mến như con đẻ, và được Nhân Tông coi như người em hiếm có. Nghi Dân sau khi lên ngôi thì tin dùng nịnh thần, sát hại bề tôi cũ và thay đổi pháp chế nên không được lòng mọi người

Năm 1460, các huân hựu đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, Lê Yên, Lê Giải, Lê Nhân Thuận, Lê Nhân Khoái, Lê Vĩnh Trường, Trịnh Đạc, Trịnh Văn Sái, Nguyễn Đức Trung, Nguyễn Yên...cùng bàn nhau làm binh biến. Ngày 6/6/1460 âm lịch, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đến Nghị sự đường tại cửa Sùng Vũ, sai đóng các cửa, đem cấm binh dẹp nội loạn, cùng các đại thần kéo vào bức tử Lê Nghi Dân, rồi bàn nhau rằng: Vừa lên ngôi, ông đại xá thiên hạ, xử tử tướng cai quản cấm binh Lê Đắc Ninh vì tiếp tay cho Nghi Dân tạo phản, truy phong Nội quan Đào Biểu (tử tiết cùng Nhân Tông trong đêm đảo chính) tước một tư và ban 5 mẫu ruộng công để cúng tế. Sau đó ông phát tang cho Lê Nhân Tông, rước bài vị vào Thái miếu, thụy hiệu là Tuyên Hoàng đế, Thái hậu Nguyễn Thị Anh được đặt thụy Tuyên Từ Hoàng thái hậu. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước đó trời đã lâu không mưa, nhưng ngay sau khi rước bài vị Nhân Tông vào Thái miếu, đêm hôm sau liền có mưa lớn.

Ngày 1/10 âm lịch, Thánh Tông ban tước cho các đại thần tham gia lật đổ Lê Nghi Dân: Nguyễn Xí tước Quỳ quận công, Đinh Liệt tước Lân quận công, Lê Niệm tước Thái phó, Lê Thọ Vực tước Tả Đô đốc tham nghị triều chính chưởng Điện tiền ty; Nguyễn Lỗi tước Đại Đô đốc Chưởng Hình bộ, Lê Khang tước Văn Chấn hầu. Ngày 11/10 ban ruộng đất: Nguyễn Xí và Đinh Liệt nhận 350 mẫu, Lê Lăng nhận 300 mẫu, Lê Niệm nhận 200 mẫu, Lê Nhân Thuận nhận 150 mẫu, Nguyễn Sư Hồi, Lê Nhân Khoái, Lê Thọ Vực và Nguyễn Kế Sài nhận 130 mẫu. Đại Việt Sử ký Toàn thư có lời bàn về những việc làm của Thánh Tông sau khi lên ngôi:

Tuy nhiên, với những người đảo chính thất bại như Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang thì Thánh Tông không chấp thuận truy phong tiết liệt theo đề nghị của Nguyễn Xí, ngược lại còn coi họ như tội thần:

"Đã xem hết tờ tâu, thấy xin cho bọn Lê Ê, Lê Thụ, Đỗ Bí, Lê Ngang theo lệ công thần đã mất, nhưng khoảng năm Diên Ninh, Đỗ Bí, Lê Ê chức cao nhất hàng tể thần; Lê Ngang, Lê Thụ cầm cấm quân, đáng lẽ phải dẹp yên giặc loạn, chuyển nguy thành an, thế mà chỉ biết sắp gà vào nồi mà để cá kình lọt ra ngoài lưới. Đến sau mưu việc không kín, phải phơi thây bên đường. Đó lại thêm một tội khác, sao được để cùng với những công thần đã mất?"

Trước đây, triều đình phải chứng kiến xung đột giữa công thần Lam Sơn với nhau, cũng như giữa công thần Lam Sơn với tầng lớp quan lại Nho học mới. Khi Thánh Tông lên ngôi, phe tướng lĩnh Lam Sơn đã suy yếu. Dù vậy, Nguyễn Xí, công thần Lam Sơn và là người đưa Thánh Tông lên ngôi, vẫn có sức ảnh hưởng lớn trong triều đình đến khi mất. Thánh Tông cần trông cậy vào Nguyễn Xí để giữ ngai vị mới đạt được. Tháng 3/1462, con trai Nguyễn Xí là Nguyễn Sư Hồi làm một bài thơ nặc danh với ý định vu cáo các đại thần Lê Niệm, Nguyễn Lỗi, Trịnh Văn Sái và Lê Thọ Vực làm phản rồi vứt ra đường. Nhưng bài thơ chưa kịp lưu truyền thì bị bại lộ. Cả bốn đại thần đều xin trị tội Sư Hồi, nhưng Thánh Tông phải bênh vực cho ông ta, với lý do đây chỉ là hiềm khích cá nhân, và bài thơ cũng không có ý tạo phản hay phạm thượng. Tháng 8/1462, Thánh Tông xử tử Lê Lăng, thuộc phe đối lập Nguyễn Xí, vì từng có ý lập Lê Khắc Xương, anh trai thứ của Thánh Tông lên ngôi. Tuy nhiên, sau khi Nguyễn Xí qua đời, Thánh Tông thắt chặt kỷ cương quân đội và không có ưu ái ngoại lệ, khiến giới tướng lĩnh chịu vào khuôn phép hơn. Cùng lúc đó, tầng lớp văn quan được tuyển qua khoa cử ngày càng lớn mạnh, tạo nên chỗ dựa mới cho hoàng đế trong việc trị quốc. Để các sĩ phu vốn tự phụ vào chữ nghĩa của bản thân phải kính nể và phục tùng mình, Thánh Tông đã cho thấy sự am hiểu sâu sắc của mình với Nho học.

Lê Khắc Xương, anh trai duy nhất còn sống của Thánh Tông giữ tước Cung vương trong 14 năm đầu triều. Đến tháng 6 âm lịch năm Bính Thân (1476), ông ta bị khép vào tội âm mưu tạo phản và bị bắt giam. Ngày 6/8 âm lịch năm đó thì lâm bệnh mất. Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư, sử quan Đại Việt đời Lê Trung hưng phê phán Thánh Tông "tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng nhân ái".

Cai trị Đại Việt

Quan chế – hành chính

192x192px|thumb|left|Tượng gốm Chu Đậu thời Hồng Đức, lưu trữ tại [[Cleveland Museum of Art|Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland.]] Đầu thời Lê Sơ, quan chế triều đình theo thời Trần – Hồ, đứng đầu là Tả, Hữu Tướng quốc Bình chương quân quốc trọng sự, dưới là Lễ bộ, Lại bộ, Nội các, Trung thư, Hoàng môn, ba sở Môn hạ, Hành khiển ở năm đạo để quản lý quân dân ngoài kinh. Năm 1459, Lê Nghi Dân đặt thêm bốn bộ Binh, Hộ, Hình, Công cùng sáu khoa Trung thư, Hải, Đông, Tây, Nam, Bắc. Sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông ban hành những chính sách mới để hoàn thiện bộ máy quan chế – hành chính Đại Việt.

Tháng 10 âm lịch năm Nhâm Ngọ (1462), Thánh Tông cho các quan văn, võ từ 65 tuổi và các thư lại, giám sinh từ 60 tuổi được đệ đơn xin trí sĩ (nghỉ hưu) với Lại bộ. Ông còn bãi bỏ đặc cách cho phép cha con được thế tập chức tước với các gia đình có công từ thời Lê Thái Tổ. Tháng 12 âm lịch năm Giáp Thân (1464), vua ra chỉ dụ:

Tháng 3 âm lịch năm Ất Dậu (1465), Thánh Tông bỏ sáu bộ, đặt sáu viện, do Thượng thư và Tả, Hữu Thị lang đứng đầu mỗi viện. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, sáu viện này gồm Nghi lễ, Khâm hình, Ty bình, 3 viện còn lại không rõ tên. Các khoa Trung thư, Hải, Đông, Nam, Tây, Bắc lần lượt được tổ chức lại thành Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công; Đô sự cấp trung đứng đầu mỗi khoa, có Cấp sự trung trợ thủ,

Tháng 4 âm lịch năm Bính Tuất (1466), Thánh Tông lại đổi sáu viện thành sáu bộ như trước năm 1465, do Thượng thư và Tả Hữu Thị lang cai quản mỗi bộ. Dưới các chức này, Thánh Tông đặt chức Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ. Thánh Tông cũng lập ra sáu tự để phụ việc cho sáu bộ; sáu tự gồm Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự. Mỗi tự do các quan Tự khanh, Thiếu khanh, Tự thừa phụ trách. Trong sáu tự, Đại lý tự bổ trợ cho Hình bộ, bốn tự Thượng bảo tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự phụ việc Lễ bộ. Đối với Thái bộc tự, không rõ cơ quan này bổ trợ cho bộ nào, nhưng sử gia K. W. Taylor phỏng đoán rằng Thái bộc tự ít ra đã phải cộng tác với Binh bộ, Hộ bộ và Lễ bộ.

Tháng 6 âm lịch năm Bính Tuất (1466), Lê Thánh Tông ban quy chế về màu áo các quan văn võ: quan từ nhất phẩm đến tam phẩm phải mặc áo hồng; quan tứ phẩm và ngũ phẩm thì mặc áo màu lục; các viên chức còn lại đều mặc áo xanh.

Mùa thu năm Tân Mão (1471), sau khi chinh phục Chiêm Thành, vua Thánh Tông ban bố Hoàng triều quan chế, khẳng định rằng: "Đất đai bờ cõi ngày nay so với trước kia khác nhau nhiều lắm, không thể không thân hành nắm quyền chế tác, làm trọn đạo biến thông", cho nên phải thay đổi, mở rộng bộ máy quan lại, hành chính. Theo đó nhà vua bỏ các chức Tướng quốc, Bình chương và Bộc xạ; đặt Thái sư, Thái úy, Thái phó, Thái bảo, Thiếu sư, Thiếu úy, Thiếu phó, Thiếu bảo làm các chức quan đầu triều, coi cả văn lẫn võ. Dưới các chức này, ban văn trong triều có các cơ quan sáu bộ, sáu tự, sáu khoa, Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Đông các, Quốc tử giám, Quốc sử viện, Phủ doãn, Cung sư phủ, Tư thiên giám, Thái y viện, Bí thư giám, Trung thư giám, Hoa văn giám,... Ở các thừa tuyên, phủ, huyện, châu có các nha môn, các quan Khuyến nông, Hà đê; bên võ có các cơ quan: năm phủ, hai vệ, bốn vệ Hiệu lực, bốn vệ Thần võ (tiền, hậu, tả, hữu), sáu vệ Điện tiền, bốn vệ Tuần tượng, bốn vệ Mã nhàn,... lo việc bảo vệ hoàng cung, chăm sóc voi, ngựa; ngoài ra còn có các vệ, sở, đô ty, giang hải tuần kiểm,... đóng ở các địa phương. Các cải tổ của Lê Thánh Tông đã giúp bộ máy chính quyền được mở rộng đáng kể; theo sử gia Đào Duy Anh, tổng sổ quan văn, võ phục vụ dưới thời Thánh Tông có đến 5370 người, gồm 2755 quan triều đình và 2645 quan địa phương.

Tổ chức chi li như thế khiến phát sinh nhiều chức quan – nói như ngày nay là "hệ thống thư lại cồng kềnh", nhưng chính quyền cũng tính đến việc không phải tổn phí nhiều vì "trước kia quan ít, tước to" nay thì "quan nhiều mà lương ít, trật thấp". Chi tiết thứ bậc cũng được xác định từ trong hoàng tộc, triều đình ra đến các địa phương từ lớn tới nhỏ với các danh xưng rành rẽ. Về mặt quyền lợi thực tế thì rõ ràng có sự cách biệt rất lớn giữa tầng lớp vương hầu và quan lại – tất nhiên chưa kể đến dân chúng bên dưới. Ấy thế mà triều đình cũng đã thoáng thấy tình trạng "quan viên quá nhiều, tiêu phí lộc kho" nên có lệnh chọn thải bớt người (1481) để đỡ gánh nặng cho nhà nước.

Lê Thánh Tông cũng đề cao ý kiến của các quan; nhiều sáng tạo về hành chính của ông có xuất phát từ sự gợi ý của quan lại. Ông đã ra nhiều chỉ dụ yêu cầu triều thần phải trung thực và thẳng thắn khi trình bày quan điểm với hoàng đế, không được nói nước đôi, hai nghĩa. Ông còn đặt phép tắc về việc bàn luận của quan viên: khi có thánh chỉ xuống, thì theo thứ tự, Lục khoa và Ngự sử đài bàn bạc trước, sau đó đến Lục bộ, Lục tự rồi tới lượt công, hầu, bá, đô đốc năm phủ. Các quan đều phải trình bày rõ ý kiến của mình, không được giữ im lặng, trốn tránh hoặc a dua theo người khác. Quan nào vi phạm luật lệ này, sẽ bị ngự sử trách hỏi rồi tâu lên vua.

Theo sử gia Mỹ John K. Whitmore, mục đích của Lê Thánh Tông là giảm sự chi phối từ các đại thần võ tướng đã phò tá Lê Thái Tổ dấy nghĩa chống Minh, và thay họ bằng đội ngũ quan liêu được tuyển chọn qua các kỳ thi Nho học. Sử Việt chép tháng 12 âm lịch năm Đinh Hợi (1467), ông đặt ra ấn "Thiên Nam Hoàng đế chi bảo", thể hiện ý muốn của ông coi Đại Việt là một Thiên triều phía Nam độc lập, có đầy đủ những gì Thiên triều phía Bắc (nhà Minh - Trung Quốc) có, và có sức mạnh chính trị, văn hiến không thua kém Bắc quốc. Khi ban hành Hoàng triều quan chế năm 1471, Hoàng đế cũng bày tỏ thái độ cứng rắn, không khoan nhượng đối với những con cháu hay quan lại nào chống đối, hủy bỏ các cải cách mô hình nhà nước của mình: Trước đó, Trần Phong đã nhiều lần bị Thánh Tông quở trách rất gay gắt, như lần dụ Nguyễn Như Đổ vào tháng 9 âm lịch năm 1468: "Ta xem Trần Phong ngoài mặt thì kêu căng, trong bụng thì xu nịnh, nói năng khinh suất. Đến như xiểm nịnh kẻ quyền quý thì lật đật như con lanh già giẫm yếm xéo đuôi; liếm trôn trĩ của Đức Trung, hút mủ nhọt cho Nguyễn Yên, đó là kế sở trường để nên quan to của Phong đấy".

Tháng 3 âm lịch năm Quý Sửu (1493), vua Lê Thánh Tông đặt lệ về thứ tự đứng chầu của đình thần: đối với các quan cùng phẩm, thì người lớn tuổi và làm việc lâu năm đứng trước, người trẻ và làm việc chưa lâu đứng sau. Với các chức quan cai quản thì: "người phẩm thấp mà chức cao, như tam phẩm làm Đô đốc thì đứng vào ban nhị phẩm; thất, bát phẩm làm Lang trung thì đứng vào ban lục phẩm. Nếu phẩm cao mà chức thấp, như nhị phẩm làm Vệ quan thì đứng vào ban tam phẩm; tứ, ngũ phẩm làm Viên ngoại lang thì đứng vào ban lục phẩm; còn lại cứ theo thế mà suy ra".

Lê Thánh Tông nổi tiếng là vị hoàng đế quản lý quan lại hết sức chặt chẽ. Hàng ngày ông đều hội kiến với các tướng lĩnh cao cấp nhất của mình. Ngoài ra, sau mỗi buổi thiết triều, ông thường gặp riêng các quan đứng đầu Lục bộ và Ngũ phủ để bàn bạc. Hoàng đế cũng dõi theo sát sao hành xử của hàng ngàn viên quan lớn nhỏ trong triều đình. Ngay từ khi mới lên ngôi, ông đã tạo ra một cảm giác kết nối sâu sắc giữa mình với các đại thần qua việc khen ngợi hoặc sỉ vả từng cá nhân, mỗi lời khen chê của ông đều thể hiện ông nắm rõ tiểu sử và sự nghiệp của họ. Có lần hoàng đế ban mứt trái cây cho các đại thần để bày tỏ sự cảm kích đồng thời cổ vũ họ làm việc chăm hơn nữa. Thừa tuyên sứ các xứ Bắc đạo Lê Công Khác đã bị giáng chức xuống một bậc vào cuối năm 1467 vì nơi ông này trấn nhậm có nhiều sâu bọ phá hoại mùa màng mà "không biết tâu lên trước, chỉ ngồi nhìn tai họa của dân". Trong một trường hợp khác, tháng 12 âm lịch năm Đinh Hợi (1467), nhà vua mở khoa thi Hoành từ bắt 30 quan chức phải thi. Khâm hình viện Lang trung Vũ Hữu và Viên ngoại lang Nguyễn Đình Khoa cáo bệnh không dự thi. Lê Thánh Tông thấy lạ, dò hỏi thì biết hai người này chỉ ưa ăn hối lộ. Nhà vua chế giễu Vũ Hữu trong lời dụ thể hiện sự nghiêm khắc pha lẫn hài hước của ông: Sự quản lý nghiêm ngặt từ hoàng đế đã khiến bá quan phải cẩn thận với hành vi của mình. Bên cạnh đó, sử gia Tạ Chí Đại Trường ghi nhận rằng Lê Thánh Tông đã không thể diệt trừ triệt để tệ tham ô. Quy chế "đặt quan đều là lương ít trật thấp" theo Hoàng triều quan chế do chính ông ban bố đã khiến cho quan viên rất nghèo, nhận lương không đủ cho sinh hoạt; quan thanh liêm như Nguyễn Trực, làm việc tại Viện Hàn lâm thời Thánh Tông, đến lúc mất chỉ có vài sào ruộng của vợ. Điều này khiến cho các quan phải xoay xở để trục lợi, tệ tham ô vẫn cứ tồn tại và phát tác mạnh hơn trong các triều vua sau.

Lê Thánh Tông cũng rất quan tâm cất nhắc người giỏi, giáng chức người bất tài, tham ô. Bên cạnh các khoa thi 3 năm 1 lần, ông áp dụng chế độ tiến cửbảo cử để chiêu mộ quan viên tài đức. Tiến cử là nhiệm vụ bắt buộc của mọi viên quan từ tam phẩm trở lên; họ phải tìm người tài trong dân gian và giới thiệu cho vua. Bảo cử là lựa những quan lại có tài đức và kinh nghiệm để cho làm các chức vụ quan trọng trong triều đình hoặc địa phương. Thánh Tông đã nhiều lần dụ các bộ triều đình, 3 ty Đô, Thừa, Hiến các xứ rằng "người nào liêm khiết sẽ được xét các quan lại trong bộ thuộc của mình, người nào liêm khiết hay tham ô, chuyên cần hay lười biếng, cùng các quan Nho học dạy dỗ nhân tài, hằng năm có người được sung cống sĩ hay không, nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên để định việc thăng hay giáng", hay "các quan cai quản quân dân trong kinh ngoài trấn, trong đó có người liêm khiết, cũng có kẻ tham nhũng, nếu không phân biệt nêu lên thì khuyên răn thế nào được? Trong thi Đô đốc năm phủ, ngoài thì đường quan ba ty Đô, Thừa, Hiến, các quan hãy công bằng mà bảo cử các quan vệ, phủ, huyện, châu trong ngoài, người nào liêm khiết, người nào tham nhũng đều phải khai rõ sự thực, hẹn trong 3 tháng kể từ ngày sắc chỉ đưa tới, làm bản tâu lên, giao cho Ngự sử đài xét lại mà thi hành khu xử để tỏ rõ cách khuyên răn và để nới sức cho quân dân". Đại Việt Sử ký Toàn thư kể lại tháng 12 âm lịch năm 1467, Lễ bộ Tả Thị lang Lương Như Hộc giới thiệu Trần Quý Huyên. Lê Thánh Tông chê Trần Quý Huyên không đủ tài, bắt Lương Như Hộc giam vào ngục và thu hồi văn bằng của Quý Huyên. Ngoài ra, Thánh Tông yêu cầu quan viên tại chức phải giữ chức vụ của mình đủ lâu để nhà vua có thể đánh giá phẩm hạnh của họ, rồi mới được thuyên chuyển sang chức khác. Triều đình cứ 3 năm phải xét duyệt quan lại 1 lần, những viên chức được giao việc xét duyệt mà không hoàn thành đúng kỳ hạn đều bị phạt tiền. Đối với các quan trấn nhậm ở vùng núi xa xôi, nhà vua cho phép họ được về đồng bằng nhận chức mới sau 6 năm nếu họ làm tốt công việc. Nếu làm không tốt thì phải ở lại. Tuy nhiên, quan lại coi giữ những vùng biên giới nhạy cảm thường phải đổi việc chỉ sau một thời gian ngắn để tránh họ ở lâu quên mất cảnh giác.

Quy định về tước hiệu

Tháng 9 âm lịch năm Tân Mão (1471), Lê Thánh Tông ban bố quy định về việc phong tước cho tôn thất, quan lại: hoàng tử hoặc con cả của hoàng tử được lãnh tước Vương, đối với hoàng tử (tức thân vương) thì lấy chữ trong tên phủ mà đặt hiệu (chẳng hạn như Kiến Hưng vương lấy từ tên của phủ Kiến Hưng), với con trưởng của hoàng tử (tức tự thân vương) thì dùng tên huyện làm hiệu (chẳng hạn như Hải Lăng vương lấy từ tên của huyện Hải Lăng). Các con thứ của Hoàng thái tử và thân vương thì được giữ tước Công, dùng mỹ tự (từ hoa mỹ) làm tên hiệu, chẳng hạn Triệu Khang công. Con trưởng của tự thân vương hoặc tôn thất có tước Công thì được trao tước Hầu, cũng dùng mỹ tự làm tên hiệu, ví dụ như Vĩnh Kiến hầu. Ngoài ra còn có tước Bá được dành cho Hoàng thái tôn, các con thứ của tôn thất có tước Công, con trưởng của thân công chúa; tước Tử được đặt tương đương với chánh nhất phẩm, dành cho con thứ của thân công chúa, con trưởng của tôn thất mang tước Hầu, tước Bá; tước Nam tương đương với tòng nhất phẩm, dành cho con trưởng của thân công chúa được truy tặng, con thứ của tôn thất mang tước Hầu, tước Bá, cả ba tước này đều lấy tên hiệu theo mỹ tự (tỷ như Tĩnh Cung bá, Kiến Xương tử, Quảng Trạch nam,...).

Lê Thánh Tông còn đặt lệ cho các công thần được phong tước quốc công, quận công, hầu, bá. Những người không có đức độ, công lao rõ ràng đối với triều đại, thì không được xem như công thần và không được phong các tước đó. Đối với người mang tước quốc công, quận công thì lấy một chữ trong tên phủ, huyện để đặt hiệu (chẳng hạn Tĩnh quốc công Lê Niệm, Phủ quốc công Lê Thọ Vực); với người mang tước hầu, tước bá thì lấy cả hai chữ trong tên xã để đặt hiệu (ví dụ tước Nam Xương hầu đặt theo tên xã Nam Xương, tước Diên Hà bá đặt theo tên xã Diên Hà). An Nam quốc đồ thời Hồng Đức ([[1490).]] phải|Cương thổ nước Việt Nam và các vùng ảnh hưởng, các tiểu quốc chư hầu thời [[nhà Lê sơ (1428-1527), được hình thành chủ yếu trong các thời trị vì của các vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông]] Năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đổi phủ Trung đô làm phủ Phụng Thiên, quản lĩnh 2 huyện Quảng Đức, Thọ Xương.

Năm Tân Mão (1471), sau khi chinh phục Chiêm Thành, Lê Thánh Tông lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, nâng số thừa tuyên của Đại Việt lên 13. Ngày 5 tháng 4 âm lịch năm Canh Tuất (1490) (tức ngày 24 tháng 4 dương lịch), bộ bản đồ Đại Việt được hoàn tất, gọi là bản đồ Hồng Đức (Hồng Đức bản đồ sách,). Bản đồ ghi nhận nước Việt có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường.

Tháng 9 âm lịch năm Tân Mão (1471), Lê Thánh Tông đặt chức Giám sát ngự sử 13 đạo chuyên làm nhiệm vụ giám sát công việc của quan lại các đạo, ngăn không cho họ nhũng lạm.

Xây cất

Trong suốt thời kỳ trị vì của mình, Lê Thánh Tông xây đắp nhiều cung điện trong và ngoài hoàng thành Thăng Long. Tháng 3 âm lịch năm Ất Dậu (1465), ông hạ lệnh xây mới điện Kính Thiên; không lâu sau đó, vào tháng 8 âm lịch ông cho dựng điện Cần Đức. Tháng 11 âm lịch năm này, việc xây dựng 2 điện hoàn tất, Thánh Tông xuống chiếu đại xá thiên hạ. phải|Rồng đá [[Điện Kính Thiên được xây thời Lê Thánh Tông.]] Ngày 15 tháng 8 âm lịch năm Đinh Hợi (1467), Lê Thánh Tông cho dựng lan can bằng đá ở điện Kính Thiên và lập một điện nhỏ trên sân Giảng Võ.

Cuối năm 1467, theo Đại Việt sử ký toàn thư, Thánh Tông nhận nhiều tờ tâu nói mất mùa, giá gạo tăng mạnh, nên ra lệnh hoãn xây cung thành. Tuy nhiên, sử sách không ghi rõ tên gọi của cung thành này.

Năm Đinh Dậu (1477), Lê Thánh Tông cho củng cố, mở rộng thành Đại La.

Năm Tân Sửu (1481), Lê Thánh Tông cho đào hồ Hải Trì ở kinh sư. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: "Hồ này quanh co đến 100 dặm". Hồ bao quanh điện Thúy Ngọc, bên cạnh hồ nhà vua cho lập điện Giảng Võ làm nơi huấn luyện cho tượng binh.

Tháng 10 âm lịch năm Giáp Thìn (1484), Lê Thánh Tông đặt quy định về việc kiến thiết hành điện ngoài hoàng thành, được Đại Việt Sử ký Toàn thư dẫn lại: "Hành điện gồm 5 gian, 2 chái, nhà bếp mỗi dãy 3 gian, một đài Quan canh ở giữa, cao 5 thước, rộng 40 thước, làm một khu đàn Tiên nông cao 7 thước, rộng 36 thước, 4 mặt đắp tường đất, cùng đi cửa đi ngựa vào". Các hành điện đều được bố trí ở xã Hồng Mai, huyện Thanh Đàm. Không lâu sau, ông kiến lập điện Đại Thành cùng nhà đông vu, tây vu, điện Canh phục ở Văn Miếu.

Tháng 11 âm lịch năm Canh Tuất (1490), Lê Thánh Tông muốn đề phòng bị ám sát giống Lê Nhân Tông trước đây, nên đắp rộng hoàng thành thêm 8 dặm. Công việc mở rộng kéo dài 8 năm thì xong. Thánh Tông còn lập thêm điện Danh Bảo và trùng tu vườn Thượng Uyển, trong vườn có hươu và nhiều loại thú khác.

Tháng 10 âm lịch năm Tân Hợi (1491), Lê Thánh Tông sai thợ dựng cái đình ở mé ngoài cửa Đại Hưng (cửa Nam thành Thăng Long), gọi là Quảng Văn đình (广聞亭), làm nơi treo các pháp lệnh trị dân. Bài ký Quảng Văn đình do văn thần Bùi Xương Trạch soạn năm 1493 mô tả địa điểm và diện mạo của đình: "ở mé ngoài của Đại Hưng (cửa Nam thành Thăng Long), lầu phượng cao ngất phía trước, thành rồng bao quanh ở ngoài, ngòi nước và đường dân vệ ở quanh tả hữu... Trụ cột trang trọng, đục chạm đơn giản, dù thấp mà không xấu, dù đẹp mà không xa hoa, quy mô đúng mực".

Ngoài ra bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư còn kể Lê Thánh Tông đã dựng các điện Tử Hà, Bảo Quang, Kim Loan, Bảo Văn ở Đông Kinh và tẩm điện Lam Sơn ở Tây Kinh. Cũng sách này chép lại lời sử gia Nho thần đời Lê trung hưng phê phán Lê Thánh Tông xây dựng "công trình thổ mộc vượt quá quy mô xưa", làm hao tốn sức dân và tiền của nhà nước.

Quân sự

Bên cạnh những cải cách sâu rộng về hành chính, Lê Thánh Tông cũng tỏ ra là một nhà quân sự có tài, đã ban bố rất nhiều chính sách nhằm củng cố, mở rộng sức mạnh quân đội Đại Việt. Ngay sau khi lên ngôi, vào tháng 7 âm lịch năm 1460, ông chỉ thị cho các tổng quản, chỉ huy các vệ quân năm đạo và quân các phủ, trấn: Cũng định kỳ 6 năm một lần, triều đình cử một số nội thần và quan văn, võ về địa phương dựng lập trường tuyển, sau đó duyệt tân binh. Trừ các hàng chức sắc, quan lại, các dân đinh từ 18 tuổi trở lên đều phải đăng ký vào hộ tịch và được chia làm các bậc: tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão hạng, cố hạng, cùng hạng. Khi cần điều động, sẽ đưa tráng đinh làm lính, dâng tráng sung vào hạng quân ở nhà làm ruộng. Khi nào thải người già yếu, thì chiếu theo thứ tự lấy bổ sung vào. Lệ tuyển dân đinh vào làm lính như sau: nhà có 3 dân đinh thì 1 người vào hạng lính tráng, 1 người vào hạng quân, 1 người vào hạng dân; nhà có bốn người thì bổ 2 người hạng dân; nhà từ 5 đinh trở lên thì 2 người bổ hạng lính, 1 người bổ hạng quân ứng vụ.

phải|thumb|Biên chế Nam quân phủ thời Lê Thánh Tông. Trước đây Lê Thái Tổ đã chia quân đội (ngoài cấm quân) làm năm vệ quân: Bắc đạo, Nam đạo, Đông đạo, Tây đạo và Hải Tây đạo, trấn giữ năm đạo hành chính trong nước. Sang thời Thánh Tông, năm 1466 nhà vua đổi vệ quân năm đạo thành quân năm phủ, bao gồm: Bắc quân phủ đóng ở mạn Kinh Bắc, Lạng Sơn; Trung quân phủ cai quản vùng Thanh Hóa-Nghệ An; Đông quân phủ cai quản vùng Hải Dương, Yên Bang; Tây quân phủ cai quản vùng Tam Giang, Hưng Hóa; Nam quân phủ cai quản các vùng Sơn Nam, Thuận Hóa, Quảng Nam. Riêng mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang có quân Phụng trực trấn thủ. Mỗi quân có phủ đô đốc chỉ huy; chức quan cao nhất trong phủ này là Tả Hữu Đô đốc. Biên chế mỗi quân có 6 vệ, mỗi vệ có 5-6 sở, mỗi sở có 20 đội, mỗi đội gồm 20 người. Sử gia Trần Trọng Kim ước tính cả năm phủ đô đốc cộng lại là 6-7 vạn quân.

Đối với cấm quân, năm 1470, Lê Thánh Tông lập các vệ quân Kim ngô, Cẩm y. Vệ Kim ngô được hợp thành từ 2 ty Tráng sĩ, Thần tý; vệ Cẩm y được hợp thành từ 2 ty Binh mã, Nghi vệ. Nhà vua còn lập thêm bốn vệ Hiệu lực, bốn vệ Thần vũ (đều được chia làm tiền, hậu, tả, hữu), 6 vệ Điện tiền (gồm vệ quân Vũ lâm, Tuyên trung, Thiên uy, Thủy quân, Thần sách, Ứng thiên), 4 vệ Tuần tượng cùng 4 vệ Mã nhàn. Năm 1490, Lê Thánh Tông mở rộng biên chế các vệ Kim ngô, Cẩm y, Thần vũ, Điện tiền; từ đây vệ Cẩm y có tới 20 ty, vệ Kim ngô có tới 100 ty. Mùa xuân năm 1467, Thánh Tông đi tuần nhiều nơi, tổ chức nhiều đợt diễn tập lớn cho quân đội: ngày 20 tháng 2 âm lịch, thủy quân tập trận đồ Trung hư trên sông Lỗ, ngày 23 tập trận đồ Tam tài, Nhất môn trên sông Vĩ, ngày 26 lại tập trận đồ Ngư đội, Nhạn hàng trên sông An Cha, tập trận đồ Thường sơn trên ngã ba sông Bạch Hạc. Kỷ luật tập trận rất nghiêm ngặt: trong cuộc diễn tập trên sông Vĩ ngày 23, Thánh Tông đã bắt trói Tây quân Đô đốc Lê Thiệt và thuộc hạ vì bất tuân lệnh vua (về sau được tha).

Cũng trong tháng 2 âm lịch năm 1467, Lê Thánh Tông bãi chức hai Trấn điện phó tướng quân Lê Hán Đình và Nguyễn Đức. Hán Đình trước làm Chuyển vận, có hành vi tham nhũng nên sợ dân hặc tội, phải cáo bệnh xin nghỉ. Sau Hán Đình cùng Thái chúc thừa Nguyễn Đức được Chỉ huy sứ Đào Bảo tiến cử với vua, nói hai người này thạo binh pháp. Lê Hán Đình và Nguyễn Đức dâng Thánh Tông các trận đồ Trung hư, Mãn thiên tinh và Thường sơn xà... Thánh Tông hài lòng, phong cả hai làm Trấn điện phó tướng quân và sai quân 5 phủ tập theo trận đồ do hai người đề xuất. Quân sĩ tập 2-3 lần nhưng không đạt hiệu quả. Thánh Tông lại cho hai người ra dạy, nhưng vẫn không được. Cuối cùng Thánh Tông tức giận, phạt đánh bằng trượng rồi sa thải cả hai.

Theo một số sử gia hiện đại (trong đó có Sun Laichen - người Trung Quốc), thì vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ thuật và sáng chế cùng kĩ năng chế tạo vũ khí cực kì tinh xảo của Đại Việt thời nhà Hồ về vũ khí tầm xa như hỏa thương, hỏa hổ, súng thần công,... hợp với số vũ khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã tạo nên cho Đại Việt một kho vũ khí đa dạng và hùng mạnh, có thể vượt xa so với vũ khí châu Âu cùng thời về sát thương và chất lượng.

Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc tích trữ lương thảo ở các vùng biên cương để sử dụng cho quân lương khi cần thiết. Một nghệ thuật làm lương khô thời Lê Thánh Tông được sử sách ghi lại là một kỹ thuật đặc biệt của Đại Việt, đó là đồ (hấp) thóc chín và sấy khô. Loại lương khô này có thể cất giữ vài năm không bị mất phẩm chất và rất tiện cho việc vận chuyển và sử dụng trong chiến tranh, đặc biệt là dùng cho quân đội viễn chinh.

Dưới thời vua Lê Thánh Tông, nước Đại Việt tương đối yên ổn. Có vài lần ông phải điều binh đánh Bồn Man, Lão Qua quấy rối phía Tây (1460, 1467, 1469), "giặc cổ" xâm phạm trấn An Bang - Quảng Ninh (1467), quân của Sầm Tổ Đức, Lý Lân nước Minh (1467), quân người dân tộc thiểu số miền núi (Sơn Man) từ châu Bằng Tường bên Minh quấy nhiễu phía Bắc (1473, 1474), nhưng chỉ khi chinh phục Chiêm Thành (1471) và Bồn Man, Lão Qua (1478-80) mới dùng đến đại quân. Các chính sách quân sự của Thánh Tông đã góp phần củng cố nền cai trị của triều Lê, và đưa Đại Việt trở thành cường quốc ở bán đảo Trung-Ấn.

Kinh tế

Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền, kêu gọi người phiêu tán về quê,đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người. Về thuế má, Lê Thánh Tông quy định người già từ 60 tuổi trở lên và hoàng đinh (thanh thiếu niên) dưới 18 tuổi, cùng những người tàn tật và những người thuộc về tráng (hạng tòng quân) đều được miễn thuế đinh; còn lại mỗi nhân đinh phải nộp thuế đồng niên là 8 tiền. Sang thời Lê Hiến Tông, thuế đinh tăng lên, nhưng tựu chung vẫn thấp hơn mức thời Trần-Hồ. Lê Thánh Tông còn định lệ thuế đất, thuế ruộng và thuế đất bãi trồng dâu. Cả ba thứ đất này đều được chia làm 3 hạng, dựa theo số mẫu mà đóng thuế.

Đễ nắm bắt nhân khẩu, Lê Thánh Tông quy định 6 năm 1 lần, các quan phủ huyện phải dẫn các xã trưởng tới Kinh sư để khai báo số hộ khẩu xã mình. Ông còn lập các chức quan Hà đê, Khuyến nông để dễ chăm lo việc nông trang. Ông còn ra lệnh cho Hộ bộ và các quan địa phương báo cho ông biết nơi nào có đất hoang, rồi ông dụ phủ huyện đôn đốc dân đi khai hoang, mở ruộng. Hoặc như trong năm 1489-90 có đại hạn, Thánh Tông ban bố lệnh đại xá gồm 45 điều, rồi truyền Hàn lâm viện cùng các Khoa, Đài, Cẩm y vệ hiệu uý chia nhau đến các phủ huyện, phát thóc công để cứu đói cho dân. Sử cũ còn ghi năm 1496, thấy trời không mưa, Thánh Tông tự mình cầu đảo, cuối cùng trời có mưa. Chính sách nông nghiệp của Lê Thánh Tông đã khiến cho việc canh nông trôi chảy, như các quan Lễ bộ từng mô tả: "thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, dân chúng yên vui, muôn vật dồi dào". Để tạo thuận tiện cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng:

Do dân cư ngày càng đông đúc và nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng lớn, năm 1477, Lê Thánh Tông ra quy định về việc chia chợ. Theo đó, các quan phủ, huyện, châu phải xem xét thực trạng, nếu việc chia chợ là thuận tiện cho việc buôn bán của dân thì làm bản tâu lên xin phép triều đình. Luật Hồng Đức có quy định cấm những hành động sách nhiễu và thu thuế quá cao đối với các chợ. Điều 186 chương Vi chế ghi: :''Những người coi chợ trong kinh thành mà sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xung, đánh 50 roi, biếm 1 tư; lấy thuế chợ quá nặng biếm 2 tư, mất chức coi chợ và bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân, tiền phạt trả cho người cáo giác. Nếu lấy thuế chợ không đúng luật thì đánh 80 trượng và dẫn đi rao trong chợ 3 ngày. Trên cửa khẩu dọc biên giới miền duyên hải, triều đình lập cơ quan kiểm soát ngoại thương rất khắt khe. Những nhà buôn ngoại quốc đến Đại Việt buôn bán chỉ được ra vào hạn chế tại một số địa điểm quy định, chủ yếu là Vân Đồn (Quảng Ninh). Tại các cửa biển có các quan Sát hải sứ kiểm soát tàu bè, các An phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát buôn bán và đi lại. Nhân dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hoá của người nước ngoài hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, từ 50 quan đến 200 quan.

Theo sách Lịch sử Việt Nam tập 3 (2007) của Viện Sử học Việt Nam, chính sách này có một phần lý do xuất phát từ nhu cầu tự vệ để ngăn ngừa do thám của ngoại bang và mặt khác do tư tưởng trọng nông, muốn gắn chặt người dân với đồng ruộng, không cho người dân rời đồng ruộng và quê hương đi buôn bán.

Luật pháp

Sau khi đánh bại quân Minh, vua Lê Thái Tổ đã bắt đầu soạn thảo luật pháp. Đến năm 1483, vua Thánh Tông sai các đình thần sửa đổi, biên soạn lại các điều luật cũ, làm thành bộ Quốc triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức). Bộ luật gồm 6 quyển, 722 điều, và được sử dụng suốt từ thời Hồng Đức đến hết thế kỷ XVIII. Trong việc biên soạn bộ luật này, triều đình có tham khảo các bộ luật nhà Đường, nhà Minh bên Trung Quốc. Tuy nhiên, bộ luật của Lê Thánh Tông chứa đựng những sáng tạo đáng kể khiến nó gần gũi hơn với các đặc điểm xã hội, tôn giáo của Đại Việt. Trong số 722 điều của Quốc triều Hình luật, có đến 342 điều hoàn toàn không tương ứng với các điều luật của Trung Quốc. Trong các điều luật còn lại thì 200 điều chịu ảnh hưởng một mức độ nào đó luật nhà Đường, chỉ có 14 điều mô phỏng trực tiếp từ luật nhà Minh. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới.

Bộ luật Hồng Đức thời Lê có nội dung cơ bản như sau:

  • Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với sự xâm lược từ bên ngoài;
  • Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
  • Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;
  • Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh, hạn chế ngoại thương;
  • Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng;
  • Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục và phát triển kinh tế;
  • Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ (khác với luật pháp Trung Hoa đương thời, luật Hồng Đức cho phép phụ nữ có quyền ly hôn, con gái trong gia đình có quyền thừa kế tương đương với con trai, con gái lấy chồng không nhất thiết phải qua sự cho phép của cha mẹ);
  • Bảo vệ quyền lợi của vua và quan lại, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến. Đánh giá về một khía cạnh trong bộ luật Hồng Đức, sử gia Hàn Quốc Yu Insun viết: "luật về quyền thừa kế gia tài và chế độ hương hỏa ở bộ Luật nhà Lê là đặc thù cho xã hội Việt Nam. Theo quy định, 1/20 tài sản thờ cúng tổ tiên, phần còn lại chia đều cho các con, bất kể trai, gái (17; 93-94)".

Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Một lần, ông đã thu lại quyền chỉ huy của Tổng quân Đô đốc Lê Thiệt vì con trai Lê Thiệt là Bá Đạt phóng ngựa trên đường phố giữa ban ngày và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng:

Bên cạnh đó, việc dùng luật dưới thời Lê Thánh Tông trở nên khắc nghiệt hơn so với các triều trước. Thời Lê Nhân Tông, năm 1448 chỉ có 42 người bị xử tử. Đến đời Thánh Tông, riêng năm 1467 đã có 323 người bị hành quyết. Thánh Tông còn đặt ra hình phạt cứng rắn đối với người không tuân theo quy chế để tang cha mẹ và chồng. Thêm vào đó, ông ép những người nước Đông Nam Á mà ông coi là "man di" sống trong lãnh thổ Đại Việt phải đổi tên và nếp sống cho giống với người Việt.

Y tế

Lê Thánh Tông đã lập nhà Tế sinh để chữa bệnh giúp dân. Ông còn quy định, ở địa phương nào có dịch bệnh xảy ra, các quan nơi này được phép trích tiền thuế để mua thuốc trị bệnh cho dân.

Giáo dục

Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông rất chú trọng việc mở mang giáo dục, bồi dưỡng nhân tài, nhằm xây dựng và mở rộng một đội ngũ quan lại gốc bình dân thấm nhuần kinh điển Nho học, đồng thời hạn chế sự ảnh hưởng của tầng lớp quý tộc, võ tướng trong triều. Triều đình thời ông có Hàn lâm viện, Đông các viện, Quốc sử viện, Quốc Tử Giám, nhà Thái học là những cơ quan chuyên phụ trách văn hóa – giáo dục trong nước.

Tháng 3 âm lịch năm 1467, vua Thánh Tông thấy học sinh Quốc Tử Giám đa số học Kinh Thi, Kinh Thư, ít chịu học Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu, nên ông đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người hiểu biết chuyên về một kinh để giảng dạy ở Quốc Tử Giám.

Tháng 10 âm lịch năm 1484, Lê Thánh Tông cho sửa sang, mở rộng Văn Miếu-Quốc Tử Giám; chi tiết được ghi lại trong Đại Việt Sử ký Toàn thư: "[Vua] làm điện Đại Thành ở Văn Miếu cùng nhà đông vu, tây vu, điện Canh phục, kho chứa ván in và đồ tế lễ, nhà Minh luân, giảng đường đông tây, nhà bia đông tây, phòng học của sinh viên ba xá, và các cửa, xung quanh xây tường bao".

  • Thoạt tiên, cho làm một bài ám tả để loại bớt người ít năng lực; người vượt qua bước này tiếp tục phải thi 4 kỳ:
  • Kỳ thứ nhất, làm 5 bài về Tứ thư và kinh nghĩa.
  • Kỳ thứ hai, làm bài chiếu, chế, biểu, theo lối văn tứ lục cổ thể.
  • Kỳ thứ ba, thi thơ phú; thơ dùng Đường luật; phú dùng các thể Cổ thể, Ly tao, Văn tuyển; bài thi phải hơn 300 chữ.
  • Ký thứ tư, làm 1 bài văn sách, nói về kinh, sử hoặc thế sự; bài thi phải không quá 1000 chữ. Sau khoa thi này, các thí sinh thi đỗ phải được lập thành danh sách, đệ trình cho Lễ bộ, đến trung tuần tháng 1 năm tới sẽ cho thi Hội.

Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, trước thời Lê Thánh Tông, nhà nước chưa quy định cụ thể về thời gian thi Hội, chỉ cho thi Hội khoảng 5–6 năm 1 lần. Tháng 2 âm lịch năm này, ông mở khoa thi Hội, có đến hơn 4400 người dự thi, trong đó hơn 40 người trúng tiến sĩ. Ngày 16 tháng 12 âm lịch, nhà vua cho thi Đình để xếp loại các tiến sĩ, ông tự ra đề văn sách hỏi về đạo trị nước của đế vương. Các tiến sĩ từ Lương Thế Vinh trở xuống được đỗ cập đệ và xuất thân theo các thứ bậc khác nhau.

Theo Lê Quý Đôn, thời Quang Thuận đã đặt thể lệ: người đậu cả bốn kỳ thi Hội thì được phong Tiến sĩ, người chỉ đậu 3 kỳ thì được nhận các chức thuộc lại, tá nhị, giáo chức ở các nha môn, người thi không đậu thì cho làm tăng quảng sinh ở Quốc Tử Giám. Các tiến sĩ sẽ được bổ vào các chức quan chính chức ở huyện, chỉ khi thiếu tiến sĩ thì mới dùng đến người đậu 3 kỳ thi. Đến năm Hồng Đức, Thánh Tông còn ban lệ cho phép con cháu quan lại thi Hội chỉ đỗ 1-3 kỳ được học Quốc Tử Giám. Họ được chia làm 3 hạng giám sinh: thượng xá sinh, trung xá sinh, hạ xá sinh, mỗi hạng 100 người. Thượng xá sinh gồm những người đã đỗ 3 kỳ thi Hội, mỗi tháng nhận 1 quan tiền do triều đình chu cấp; trung xá sinh gồm những người đỗ 2 kỳ, được chu cấp 9 quan tiền mỗi tháng; hạ xá sinh gồm những người đỗ 1 kỳ, nhận 9 tiền mỗi tháng. Học xong họ sẽ được nhận làm các chức như tri huyện, giáo thụ, bạn độc, trưởng sử. Lê Quý Đôn nhận định: "Đấy là đãi ngộ nhà gia thế hơn nhà bạch đinh, có ý nghĩa đời cổ cho việc bồi dưỡng và tiến thân tất phải ở nhà quốc học".

Theo mô tả trong Kiến văn tiểu lục, các khoa thi năm 1466, 1469 chỉ lấy tiến sĩ xuất thân, không lấy tiến sĩ cập đệ. Đến khoa thi năm 1472 mới có đủ 3 tiến sĩ cập đệ và các tiến sĩ xuất thân mang thứ bậc khác nhau. Việc này trở thành lệ cho đến thời Lê Cung Hoàng. :"Sự nghiệp trị nước lớn lao của Đế vương, không gì cần kíp hơn nhân tài, điển chương chế độ đầy đủ của nhà nước, tất phải chờ ở bậc hậu thánh. Là bởi trị nước mà không lấy nhân tài làm gốc, chế tác mà không dựa vào thánh nhân đời sau thì đều chỉ là cẩu thả tạm bợ mà thôi, sao có thể đạt tới chính trị phong hóa phồn vinh, văn vật điển chương đầy đủ? :Kể từ Thái Tổ bắt đầu sửa sang việc học vào kỷ nguyên Thuận Thiên, Thái Tông mở khoa thi đầu vào năm Đại Bảo thứ 3, Nhân Tông chọn người hiền, dùng bậc giới, kính cẩn tôn theo phép cũ. Đến như việc dựng (có sách chép là "phụ") bia ở nhà Thái học thì vẫn để đó chưa làm; văn vật đầy đủ, như còn chờ bậc hậu thánh. :Nay Thánh thượng như trời mở trung hưng, tự mình gánh vác đạo lớn, việc tôn sùng Nho giáo càng thành khẩn chăm lo. Huống chi nhân tài đã được các tiên thánh nuôi dạy từ lâu, hơn nữa lại nhờ công sức mười năm nâng vực. Trước đây 6 năm một lần thi lớn, nay thì châm chước theo chế độ nhà Chu đã định là 3 năm. Trước kia lấy đỗ đều không quá hai ba chục người, nay thi rộng xét thực tài, không lo nhiều quá. :Cho nên tôn trọng biểu dương, đức ý rất hậu, ân vinh thứ bậc. tiết mục tận tường, vẹn toàn, rực rỡ, vượt cả xưa nay. Cho nên bia đá khắc tên, vẫn ghi việc thực, đặt ở cửa hiền, tưởng lệ kẻ sĩ, công việc làm của nhà vua tốt đẹp nhường nào. :Thế thì triều Lê ta văn minh đầy đủ, khoa mục mở mang, mở nguồn từ thời Thuận Thiên, bắt đầu từ năm Đại Bảo, thịnh hành từ đời Thái Hòa, mà thịnh nhất vào đời Hồng Đức vậy. Nếu như không phải do Thánh thượng làm tròn trách nhiệm bậc thầy, thân hành nắm giữ quyền hành chế tác, thì sao có thể thực hiện cái chí của người trước chưa thực hiện được, hoàn thành sự nghiệp mà người trước chưa hoàn thành".

Các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới.

Trước năm 1486, quan viên tại chức mà chưa thi Hương đều được dự thi Hội. Đến tháng 6 âm lịch năm này, Lê Thánh Tông nghe theo lời tâu của Hàn lâm viện thị thư Lương Thế Vinh, nên ra lệnh: viên quan nào chưa đỗ thi Hương mà muốn thi Hội, nếu là quan Kinh sư thì phải thi ở phủ Phụng Thiên, nếu là quan địa phương thì phải thi ở ty Thừa ở thừa tuyên của mình. Thể lệ thi tương tự như thi Hương; ai đỗ kỳ thi này thì mới được quyền thi Hội.

Theo thông lệ, thi Đình được dùng để phân loại những người đỗ thi Hội, nên không đánh trượt người nào. Tuy nhiên, trong khoa thi năm 1496, vua Thánh Tông triệu các sĩ tử vào sân điện Kim Loan để ông đích thân xem mặt, rồi đánh trượt 11 người.

Tổng cộng từ năm 1463 đến 1496, Lê Thánh Tông đã mở 12 khoa thi lớn, lấy đỗ tổng cộng 9 Trạng nguyên và 501 tiến sĩ.

Tạ Chí Đại Trường thì nhìn nhận:

Con đường khoa cử mở ra hướng đi đến danh vọng, quyền lực cho một số người không có căn bản thần thế gia đình, có thể không giàu lắm. Người lạc quan thời nay thì tán tụng tinh thần "dân chủ" trong cách chọn lựa nhân tài đó nhưng Lê Quý Đôn đã từng phê phán lối học dành cho thi cử làm lấn át tinh thần thực học cần thiết cho việc quản lí đất nước. Ảnh hưởng lâu dài đến ngày nay là lối văn trau chuốt đệm thêm một chút dáng vẻ "trí thức" đó đã thành một ý thức kiêu hãnh ngầm cho một lớp người đem ra phục vụ những người cầm quyền vốn không cần nhiều đến kiến thức cho lắm.

Ngoài việc tổ chức các khoa thi lớn, Lê Thánh Tông cũng đặt lệ: trước mỗi kỳ kiểm tra dân đinh, hai ty Thừa, Hiến của các thừa tuyên phải tổ chức thi khảo học trò, ai thi đỗ thì khỏi đi lính. Nhà vua rất nghiêm khắc trong việc bài trừ gian lận thi cử: năm 1485, thấy năm trước có hàng vạn học trò thi đỗ, ông nghĩ là có gian lận, nên ra lệnh bắt số người này thi lại. Ông còn quy định rõ rằng _"đến khi phúc hạch lại, nếu còn có người nào không làm được bài để quyển giấy trắng, hoặc người nào làm bài không thành văn lý, thì viên quan đề điệu và giám thí niêm phong quyển lại tâu hặc về triều đình. Nếu xét thấy xứ nào có từ một người đến bốn, năm người phạm trường quy như thế, thì viên quan thừa chính và hiến sát xứ ấy sẽ phải luận vào tội biếm chức hoặc bãi chức, còn bản thân người phạm tội trường quy ấy sẽ phải tội đồ"_.

Việc biên soạn lịch sử được Lê Thánh Tông ý thức hơn hết, với tư cách là những công cụ để nối liền đạo thống; khôi phục xây dựng kho tư liệu sử liệu dân tộc sau giai đoạn bị triệt tiêu văn hóa, sách vở thời thuộc Minh. Nhà vua kén chọn sử quan rất cẩn thận; thời bấy giờ có nhóm sử quan Lê Nghĩa được ca ngợi vì chép sử rất ngay thẳng, Thánh Tông có lần muốn xem quốc sử nhưng Lê Nghĩa không cho xem. Ngoài ra, Thánh Tông đã nhiều lần ra chiếu sưu tầm tư liệu, sách vở và dã sử trong dân gian.

Vào năm 1483 Lê Thánh Tông chủ biên bộ sách Thiên Nam dư hạ tập, sai các văn thần như Đỗ Nhuận, Nguyễn Trực biên soạn. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc...). Hiện nay, bộ sách thất lạc gần hết, chỉ còn lại 10 tập chép tay viết về các mảng quan chế, điều luật, bản đồ, sớ văn; Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lý, lịch sử... của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước. Cụ thể như sau: :1. Điều luật và Quan chế. :2. Bình thi văn. :3. Liệt truyện, Tạp thức. :4. Khảo sử. :5. Thi tập; Đối liên. :6. Phú tập. :7. Thi tiền tập; Chinh Tây kỉ hành; Minh Lương cẩm tú và Quỳnh Uyển cửu ca. :8. Chinh Chiêm Thành sự vụ; Chinh Tây kỉ hành. :9. Điển lệ; Phú tập. :10. Thiên hạ bản đồ; Quan chế.

Sáng tác văn thơ

thumb|right|Trang đầu của "Ngự chế khuyến học văn" của Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là một nhà thơ và phê bình văn học, vừa sáng tác văn thơ, vừa nghiên cứu, phê bình. Năm 1495, ông sáng lập ra Hội Tao đàn, xưng làm Tao đàn Nguyên soái, xướng họa thơ ca cùng Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận và nhiều quần thần khác, tổng cộng 28 người. Hội Tao đàn ra đời đánh dấu bước phát triển cao về văn chương đương thời. Thơ văn của ông chứa đựng tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sâu sắc. Ông sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như: Quỳnh Uyển cửu ca, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỉ hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Cổ tâm bách vịnh... tất cả khoảng trên 300 bài (bằng chữ Hán), Hồng Đức quốc âm thi tập (bằng chữ Nôm).

Những trước tác của Hội Tao đàn được ghi chép bằng chữ Hán trong bộ sách: Thiên Nam dư hạ tập, Quỳnh Uyển cửu ca: Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tập thơ này do Lê Thánh Tông và các bề tôi xướng họa nhân dịp hai năm liền được mùa theo chín chủ đề: 1. Phong niên (được mùa), 2. Quân đạo (đạo làm vua), 3. Thần tiết (tiết làm bề tôi), 4. Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5. Anh hiền (các bậc anh tài hiền triết), 6. Kỳ khí (khí lạ), 7. Thảo tự (chữ Thảo), 8. Văn nhân, 9. Mai hoa. Minh lương cẩm tú: Gồm 18 bài, phần lớn là vịnh các cửa biển từ cửa Thần Phù đến Hải Vân quan. Văn minh cổ súy: Tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an. Chinh Tây kỷ hành: Tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm 30 bài. Cổ Tâm bách vịnh: Tập thơ họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú. Châu cơ thắng thưởng: Vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như chùa Sài Sơn, núi Chiếu Bạch, động Long Quang,... gồm 20 bài. Anh hoa hiếu trị Cổ kim cung từ thi tập Xuân vân thi tập: 1 tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không rõ thời điểm biên tập. Số lượng tác phẩm thi văn chữ Hán của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài.

Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV. Trong đó, không chỉ ghi chép thơ văn, mà còn ghi chép về lý luận phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý v.v...

Lê Thánh Tông là người dẫn đầu phong trào mới này, cả về nghệ thuật thể hiện, cả về tư tưởng triết học. Thánh Tông di thảo là dấu mốc quan trọng ghi nhận bước trưởng thành của truyện ký Đại Việt viết bằng chữ Hán, ra đời trước cả tập "Truyền kỳ mạn lục" của Nguyễn Dữ (thế kỷ XVI).

Lê Thánh Tông khuyến khích các quan lại và tự mình tích cực sử dụng chữ Nôm như một sự tự tôn và tự cường. Trong một bài thơ Nôm, Lê Thánh Tông tự trình bày về mình: :Trống dời canh còn đọc sách, :Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.

Truy phong một số công thần

Vào thời kỳ khởi nghĩa chống Minh (1418-1428), Lê Thái Tổ đã được nhiều tướng lĩnh, văn thần giúp sức trong việc giành lại độc lập cho Đại Việt. Tuy nhiên, từ khi nhà Lê thành lập, một số công thần khai quốc như Phạm Văn Xảo, Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục, Nguyễn Trãi,... đã bị xử tử do đấu đá nội bộ hoặc sự nghi kỵ của các vua. Nhưng Lê Nhân Tông vẫn chưa minh oan cho Nguyễn Trãi.

Năm 1464, Lê Thánh Tông đã chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông ca ngợi Nguyễn Trãi là Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo, truy tặng tước Tán Trù bá, ban cho con là Anh Vũ chức huyện quan. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi. Việc làm này có thể đã góp phần bảo tồn một phần quan trọng các di sản văn hóa mà Nguyễn Trãi đã để lại.

Lê Thánh Tông như đã tạc bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ: :Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo Tạm dịch: :Tâm hồn Ức Trai sáng tựa sao Khuê : hay là: Văn chương Ức Trai lòng soi sáng Nhiều người hiểu sai khi dịch nghĩa "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" là "Lòng Ức Trai sáng tựa sao khuê", dịch chính xác phải là "văn chương Ức Trai lòng soi sáng", với ý ca ngợi văn chương chứ không phải nhân cách Nguyễn Trãi.

Nguyên văn bài thơ: :Cao Đế anh hùng cái thế danh, :Văn Hoàng trí dũng phủ doanh thành. :Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo, :Vũ Mục hung trung liệt giáp binh. :Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển, :Nhị Thân phụ tử bội ân vinh. :Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự, :Bát bách Cơ Chu lạc trị bình. Dịch nghĩa: :Đức Cao Đế là bậc anh hùng đệ nhất thiên hạ, :Đức Văn Hoàng trí dũng kế thừa cơ nghiệp. :Văn chương Ức Trai soi sáng lòng, :Binh giáp Vũ Mục chứa đầy bụng. :Mười anh em họ Trịnh tất thảy đều vẻ vang phú quý, :Hai cha con họ Thân (Thân Nhân Trung và Thân Nhân Tín) đều hưởng ân vinh lớn. :Cháu hiếu là Hồng Đức (tức Lê Thánh Tông) nay kế thừa nghiệp lớn, :Vui hưởng thái bình như nhà Chu tám trăm năm.

Trên thực tế, Lê Thánh Tông truy tặng Nguyễn Trãi tước Tán Trù bá, vẫn thấp hơn tước phong của Nguyễn Trãi khi còn sống là Quan phục hầu (do vua Lê Thái Tổ phong năm 1428). Đến năm 1512, vua Lê Tương Dực mới gia phong Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu.

Lê Thánh Tông còn khôi phục danh dự cho nhiều công thần khai quốc khác, ví dụ năm 1484 truy tặng Phạm Văn Xảo (bị giết năm 1431) làm Thái bảo Thắng quận công, Lê Sát (bị giết năm 1437) làm Thái bảo Cảnh quốc công, Lê Ngân (bị giết năm 1437) làm Thái phó Hoằng quốc công, Trịnh Khắc Phục (bị giết năm 1451) làm Thái bảo Ngọc quận công, và Trịnh Khả (bị giết năm 1451) làm Thiếu phó Liệt quốc công. Theo sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Trịnh Khả lúc sinh thời đã từng cứu nguy cho mẹ của Thánh Tông, nên nhà vua biệt đãi con cháu ông này hơn các bề tôi khác. Lê Quý Đôn trong tác phẩm khác là Kiến văn tiểu lục cũng ghi nhận: "Trịnh Khả... có 10 người con, đều giữ chức tướng văn, tướng võ, danh vọng lừng lẫy một thời đấy là việc hiếm có xưa nay". Bài thơ trên của Thánh Tông khen "mười anh em họ Trịnh tất thảy đều vẻ vang phú quý" là nhắc đến 10 vị này. :"Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai phát huy được; hậu thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức mình."

Và: :_"Chu tử sinh ở cuối thời Tống, nối sau các tiên nho Hán Đường đã chú giải 6 kinh, mới ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân, sách kinh, rõ được đạo thánh nhân ở lời giải, hết sức nghiền nghĩ, thấu lẽ vào lòng, nói ra rõ ràng, chỉ dẫn xa rộng, gọi là tập đại thành của chủ Nho mà làm khuôn mẫu cho hậu học. Huống chi lại còn có Trình tử xướng ở trước, mà Chu tử bổ sung những

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; 1444 - 1485), không rõ tên thật, là một phi tần được sủng ái của hoàng đế Lê Thánh Tông, vị minh quân nổi tiếng của triều đại nhà
**Phạm Minh phi** (chữ Hán: ; 1448 – 1498), không rõ tên thật, là một phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông. ## Tiểu sử Minh phi sinh năm 1448, là người huyện Lương
Dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Xí và Đinh Liệt hai bậc công thần của vua Lê Thái Tổ, Lê Tư Thành lên vua, tức là vua Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Lê Nhân Tông** (chữ Hán: 黎仁宗 28 tháng 5 năm 1441 – 25 tháng 10 năm 1459) tên húy là **Lê Bang Cơ** (黎邦基), là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Lê nước
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Lê Túc Tông** (chữ Hán: 黎肅宗 6 tháng 9 năm 1488 – 12 tháng 1 năm 1505) là vị hoàng đế thứ bảy của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Túc Tông chỉ giữ ngôi
**Lê Anh Tông** (chữ Hán: 黎英宗 1532 - 22 tháng 1 năm 1573), tên húy là **Lê Duy Bang** (黎維邦), là hoàng đế thứ ba của Nhà Lê Trung hưng và là hoàng đế thứ
**_Thánh Tông di thảo_** (chữ Hán: 聖宗遺草; tạm dịch là "Bản thảo để lại của [Lê] Thánh Tông") là một tác phẩm viết bằng chữ Hán, nhưng lấy đề tài ở Việt Nam, tương truyền
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**Lê Hiển Tông** (chữ Hán: 黎顯宗 20 tháng 5 năm 1717 – 10 tháng 8 năm 1786), tên húy là **Lê Duy Diêu** (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê Trung hưng
**Lê Thần Tông** (chữ Hán: 黎神宗) (1607 – 2 tháng 11 năm 1662) tên húy là **Lê Duy Kỳ** (黎維祺), là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lê Trung hưng và thứ 17 của
**Lê Dụ Tông** (chữ Hán: 黎裕宗 1679 – 27 tháng 2 năm 1731) là vị Hoàng đế thứ 11 của Nhà Lê Trung hưng và thứ 22 của triều Hậu Lê trong lịch sử Việt
**Tiền Lê Trung Tông** (chữ Hán: 前黎中宗 983 – 21 tháng 12 năm 1005), tên thật **Lê Long Việt** là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tiền Lê. Khi vua cha Lê Đại Hành
**Lê Kính Tông** (chữ Hán: 黎敬宗 1588 – 23 tháng 6 năm 1619) có tên là **Lê Duy Tân** (黎維新), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Lê Trung hưng và thứ 16 của
**Lê Chân Tông** (chữ Hán: 黎真宗 1630 – 2 tháng 10 năm 1649) tên húy là **Lê Duy Hựu** (黎維祐, 黎維禔), là vị Hoàng đế thứ 7 của nhà Lê Trung hưng và thứ 18
**Lê Trung Tông** (chữ Hán: 黎中宗 1535 - 24 tháng 1 năm 1556) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Lê trung hưng và là thứ 13 của nhà Hậu Lê, ở ngôi từ
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Lê Thuần Tông** (chữ Hán: 黎純宗 16 tháng 3 năm 1699 – 5 tháng 6 năm 1735) là vị Hoàng đế thứ 13 của triều Lê Trung hưng nước Đại Việt, đồng thời là Hoàng
**Lê Hy Tông** (chữ Hán: 黎熙宗 15 tháng 3 năm 1663 – 3 tháng 4 năm 1716) tên húy là **Lê Duy Cáp** (黎維祫) hay **Lê Duy Hiệp** là vị vua thứ 10 của nhà
**Lê Thanh Hải** (sinh 1950) là một chính khách Việt Nam. Ông là cựu Ủy viên Bộ Chính trị khóa X, XI, cựu Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, cựu Chủ tịch
**Lê Thanh Hoàn** (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1976) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật
**Lê Thanh Vân** (sinh ngày 23 tháng 12 năm 1964) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026 thuộc đoàn Đại
**Lê Thanh Bình** (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1956) là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam và chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng
**Lê Văn Dọn** (10 tháng 7 năm 192511 tháng 3 năm 2006), bí danh **Tám Lê Thanh**, **Lê Thanh** hay **Tám Dọn**, là một nhà lãnh đạo quân sự mang quân hàm Trung tướng của
**Lê Gia Tông** (chữ Hán: 黎嘉宗 1661 – 27 tháng 4 năm 1675), tên húy là **Lê Duy Cối** (黎維禬, 黎維𥘺) là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Lê Trung hưng và thứ 20
**Lê Ý Tông** (chữ Hán: 黎懿宗 29 tháng 3 năm 1719 – 10 tháng 8 năm 1759), tên húy là **Lê Duy Thận** (黎維祳) (hay Lê Duy Chấn) là vị Hoàng đế thứ 14 của
**Lê Thành Chơn** (1938-2021) là một cựu Thiếu tá Quân đội nhân dân Việt Nam, một doanh nhân và một nhà văn Việt Nam. Ông được biết nhiều nhất với tư cách là một sĩ
**Nguyễn Kính phi** (chữ Hán: 阮敬妃; ? - ?) là một phi tần của hoàng đế Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của Lê Uy Mục thuộc triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt
Đây không chỉ là tao đàn thứ 2 trong tiến trình văn học Việt Nam (sau Tao đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập), mà còn có những dấu ấn
Đây không chỉ là tao đàn thứ 2 trong tiến trình văn học Việt Nam (sau Tao đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập), mà còn có những dấu ấn
Đây không chỉ là tao đàn thứ 2 trong tiến trình văn học Việt Nam (sau Tao đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập), mà còn có những dấu ấn
Đây không chỉ là tao đàn thứ 2 trong tiến trình văn học Việt Nam (sau Tao đàn Nhị thập bát tú do vua Lê Thánh Tông sáng lập), mà còn có những dấu ấn
**Lê Thanh Nghị** (1911–1989) tên thật là **Nguyễn Khắc Xứng**, là một chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Phó Thủ tướng của Việt Nam từ năm 1960 đến 1980, Phó chủ tịch kiêm
**Quách Lê Thanh** (1947–2010) nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, Đại biểu Quốc hội khóa XI, Tổng Thanh tra Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
**Lê Thanh Liêm** (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1963) là chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Trưởng ban Nội
** Lê Thanh Quang** (9 tháng 9 năm 1960 20 tháng 10 năm 2022) là một cựu chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
**Lê Thanh Hải** là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng và là chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Phó Chánh Thanh tra Bộ Công
**Thánh Tông** (chữ Hán: 聖宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. Thánh Tông thường là những vị vua có năng lực, cai trị
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Hoàng thành Thăng Long** (chữ Hán: 昇龍皇城; Hán-Việt: Thăng Long Hoàng thành) là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu
**Lê Sát** (chữ Hán: 黎察, ? – 1437) là chính khách, nhà quân sự, thừa tướng Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người làng Bỉ Ngũ, thuộc Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa,
**Vụ án Lệ Chi viên**, tức **Vụ án vườn vải**, là một vụ án oan nổi tiếng thời Lê sơ. Qua vụ án này, quan Đại thần Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Lễ
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
**Lê Kiện** (chữ Hán: 黎鍵;1478–1529), tên thật là **Lê Duy Thành**, là hoàng tử út của vua Lê Thánh Tông, mẹ ông là Trịnh Thị Ngọc Luyện, bà chuyên về quản dạy bốn mỹ đức