Vương Chí (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Thân thế
Chí là thành viên của sĩ tộc họ Vương quận Lang Da, cháu 6 đời của thừa tướng Vương Đạo. Ông nội là Tả Quang lộc đại phu, Dự Ninh Văn hầu Vương Đàm Thủ nhà Lưu Tống (Đàm Thủ là em trai của Vương Hoằng). Cha là Tư không Vương Tăng Kiền nhà Nam Tề – con trai thứ của Vương Đàm Thủ (Tăng Kiền là em trai của Vương Tăng Xước). Chí là con trai thứ hai của Vương Tăng Kiền, có anh trai là Quan quân tướng quân, Lư Lăng vương Trung quân trưởng sử Vương Từ, em trai là Thái trung đại phu Vương Tiếp (hay Vương Ấp) , Lại bộ thượng thư, Bí thư giám Vương Bân và Bí thư lang Vương Tịch.
Sự nghiệp
Phục vụ nhà Lưu Tống – Nam Tề
Chí lên 9 tuổi thì mẹ ruột mất, đau buồn đến gầy gò, khiến mọi người lấy làm lạ. Đến tuổi trưởng thành, Chí được lấy An Cố công chúa của Lưu Tống Hiếu Vũ đế làm vợ, bái làm Phò mã đô úy, Bí thư lang. Chí dần được thăng làm Thái úy Hành tham quân, rồi làm Thái tử xá nhân, sau đó làm Vũ Lăng vương Văn học. Trữ Uyên làm Tư đồ, tiến dẫn Chí làm Chủ bộ, nói với Vương Tăng Kiền: "Ơn của triều đình, vốn là đặc thù, đáng lẽ quang vinh, lại khiến con của ngài chịu khuất."
Chí dần được thăng đến Trấn bắc Cánh Lăng vương Công tào sử, An Lục, Nam Quận 2 vương Hữu. Tiếp đó Chí được về triều làm Trung thư thị lang, ít lâu sau được trừ làm Tuyên Thành nội sử. Chí ở chức liêm khiết, cẩn thận lại có ân huệ. Dân trong quận là Trương Nghê, Ngô Khánh tranh ruộng, nhiều năm không xong; phụ lão bèn nói với họ: "Vương phủ quân có đức chánh, quê nhà chúng ta mới có tranh chấp như thế này!" Nghê, Khánh bèn dắt nhau xin nhận tội, đem mảnh đất ấy làm Gian điền . Sau đó Chí được trưng bái làm Hoàng môn thị lang, ít lâu được thăng làm Lại bộ thị lang, rồi ra làm Ninh sóc tướng quân, Đông Dương thái thú. Quận có hơn 10 tù nhân tội nặng, ngày Đông chí đều được Chí cho về nhà, qua tiết đều trở lại, chỉ có một người trễ hẹn. Ngục tư lo lắng, Chí nói: "Đây là việc do thái thú gây ra, anh chớ nghĩ ngợi." Sáng hôm sau, kẻ ấy quả nhiên tự trở về ngục, cho biết vợ có chửa; quan dân lại càng khâm phục ông. Chí ở quận 3 năm, đến năm Vĩnh Minh thứ 2 (484) thời Nam Tề Vũ đế, được về triều làm Thị trung, chưa bái chức, chuyển làm Lại bộ thượng thư. Trong việc tuyển chọn quan lại, Chí được khen là hợp lý. Sau cuộc nổi dậy của Thôi Huệ Cảnh, Chí theo lệ được gia hiệu Hữu quân tướng quân, phong Lâm Nhữ hầu, cố từ chối không nhận, được đổi làm Lĩnh hữu vệ tướng quân.
Phục vụ nhà Lương
Tiêu Diễn dấy binh, Tề đế Tiêu Bảo Quyển bị nội phản mà chết, trăm quan ghi danh gởi đầu ông ta ra thành. Chí nghe được việc ấy thì than rằng: "Nhà vua dẫu xấu xa, sao nỡ quá đáng như thế?" Nhân đó Chí lấy lá cây trong đình che thây của Tề đế, rồi tỏ ra buồn bực không chịu ghi tên. Tiêu Diễn xem danh sách không thấy tên Chí, trong lòng khen ngợi, chẳng hề trách mắng. Tiêu Diễn nắm quyền, lấy Chí làm Hữu quân tướng quân, Phiêu kỵ đại tướng quân Trưởng sử. Tiêu Diễn soán ngôi, thăng Chí làm Tán kỵ thường thị, Trung thư lệnh.
Năm Thiên Giám đầu tiên (502), Chí được lấy bản quan để lĩnh hiệu Tiền quân tướng quân. Năm ấy, Chí được thăng làm Quan quân tướng quân, Đan Dương doãn. Chí trị lý thanh tĩnh, tránh phiền hà. Kinh sư có quả phụ không có con, mẹ chồng mất, vay mượn để chôn cất, sau tang lễ thì không có cách gì trả nợ. Chí thương xót, lấy tiền lương của mình trả thay. Gặp năm đói kém, mỗi sớm Chí nấu cháo ở cửa quận để cấp cho trăm họ, được dân chúng khen ngợi không tiếc lời.
Năm thứ 3 (504), Chí được làm Tán kỵ thường thị, Trung thư lệnh, lĩnh hiệu Du kích tướng quân. Chí được làm đến Kinh doãn, liền muốn nghỉ hưu, thường nói với con cháu (tử chất) rằng: "Tạ Trang vào thời (Lưu) Tống Hiếu Vũ đế, vị chỉ đến Trung thư lệnh, tôi tự thấy đã vượt qua ông ấy rồi!" Đến nay Chí được trở lại chức Trung thư lệnh, bèn nhiều lần xưng bệnh, hạn chế gặp gỡ khách khứa. Sau đó Chí được thăng làm Tiền tướng quân, Thái Thường khanh.
Năm thứ 6 (507), Chí được ra làm Vân huy tướng quân, An tây Thủy Hưng vương Trưởng sử, Nam Quận thái thú. Năm thứ 7 (508), Chí được thăng làm Quân sư tướng quân, Bình tây Bà Dương quận vương Trưởng sử, Giang Hạ thái thú, còn được gia trật là Trung nhị thiên thạch. Năm thứ 9 (510), Chí được thăng làm Tán kỵ thường thị, Kim tử Quang lộc đại phu. Năm thứ 12 (513), Chí mất, hưởng thọ 54 tuổi.
Năm Phổ Thông thứ 4 (523), gia đình cải táng cho Chí, Lương Vũ đế ban đồ phúng hậu, truy thụy là An.
Thư pháp
Chí giỏi viết kiểu Thảo – Lệ, đương thời lấy làm phép tắc. Nhà thư pháp nổi tiếng đời Nam Tề là Du kích tướng quân Từ Hi Tú thường gọi Chí là Thư thánh.
Tính cách
Sĩ tộc họ Vương quận Lang Da nhiều đời sống ở ngõ (hạng) Mã Phẩn trong làng (lý) Cấm Trung thuộc kinh đô Kiến Khang (sĩ tộc họ Tạ quận Trần sống ở ngõ Ô Y), từ thế hệ của Vương Tăng Kiền về sau, truyền thống gia đình ngày càng khoan dung, riêng Chí rất đôn hậu. Chí làm quan nhiều năm, không hề bắt lấy lỗi để đàn hặc người ta. Khách khứa ghé chơi nhà của Chí, chưa nghe ông nói đến cái sai của ai, mà chỉ khen cái hay của họ. Anh em, con cháu của Chí đều thuần hậu, khiêm tốn, nên người đương thời khen nhà họ Vương ở ngõ Mã Phẩn là bậc trưởng giả.
Hậu nhân
Chí có năm con trai: Tập, Hưu, Nhân, Thao, Tố.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Vương Mậu** (chữ Hán: 王茂, 457 – 516), tên tự là **Hưu Viễn**, người huyện Kì, Thái Nguyên , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung
**Vương Thanh** (chữ Hán: 王清, ? – ?), người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Thanh là thành viên của
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志), tướng lãnh đầu đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Tham gia khởi nghĩa Chí (sanh năm ngày 9 tháng 1 ÂL năm 1335 – mất ngày 17 tháng
**Nhà Lương** () (502-557), còn gọi là **nhà Nam Lương** (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后), không rõ tên thật, là hoàng hậu của Lương Kính Đế (梁敬帝) Tiêu Phương Trí (萧方智) trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Không rõ ngày sinh của
**Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 王皇后, ?-563), không rõ tên thật, thụy hiệu: **Tuyên Tĩnh hoàng hậu** (宣靜皇后), là hoàng hậu của Lương Tuyên Đế (梁宣帝) Tiêu Sát (萧詧) trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lương Nguyên Đế** (梁元帝), tên thật là **Tiêu Dịch** (chữ Hán: 蕭繹; 508 – 555), là vị vua thứ ba của nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ
**Lương Võ Đế** (chữ Hán: 梁武帝; 464 – 549), tên húy là **Tiêu Diễn** (蕭衍), tự là **Thúc Đạt** (叔達), tên khi còn nhỏ **Luyện Nhi** (練兒), là vị Hoàng đế khai quốc của triều
**Vương Lâm** (chữ Hán: 王琳, 526 – 573) là tướng lãnh nhà Lương và nhà Bắc Tề thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân Lâm tự Tử Hành, người huyện
**Chiến tranh Lương-Ngụy, 528-529** là cuộc chiến tranh giữa hai nước Lương và Bắc Ngụy thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc chiến này là một phần của chiến tranh Lương-Bắc Ngụy, một
**Tư Mã Lượng** (司馬亮) (mất 291) tên tự _Tử Dực_ (子翼), tước hiệu _Nhữ Nam Văn Thành vương_(汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ
**Xương Nghĩa Chi** (chữ Hán: 昌义之, ? – 523), người huyện Ô Giang, quận Lịch Dương , tướng lãnh nhà Lương. ## Cuộc đời và sự nghiệp ### Khởi nghiệp Nghĩa Chi từ nhỏ có
**Vương thái hậu** (chữ Hán: 王太后, không rõ năm sinh năm mất) là một hoàng thái hậu tại vị trong thời gian ngắn ngủi của triều đại nhà Lương. Bà là mẹ của Phế Đế
**Vương Thức** () là một quan lại và tướng lĩnh triều Đường. Ông từng là chỉ huy chiến dịch chống quân Nam Chiếu tại An Nam; cũng như chỉ huy chiến dịch trấn áp cuộc
Tăm chỉ tiện lợi - Tăm chỉ nha khoa là sự kết hợp hoàn hảo giữa chỉ tơ nha khoa và tăm xỉa răng, được thiết kế đặc biệt giúp loại trừ các mảng bám,
Tăm chỉ tiện lợi - Tăm chỉ nha khoa là sự kết hợp hoàn hảo giữa chỉ tơ nha khoa và tăm xỉa răng, được thiết kế đặc biệt giúp loại trừ các mảng bám,
**Lương Kính Đế** (梁敬帝, 543–558), tên húy là **Tiêu Phương Trí** (), tên tự **Huệ Tương** (慧相), tiểu tự **Pháp Chân** (法真), là một hoàng đế của triều đại Lương trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1376 – 1450), tự **Thì Ngạn**, người Kim Khê, Giang Tây, quan viên nhà Minh. ## Sự nghiệp ### Thời Thành Tổ Năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404), Anh đỗ
**Vương Tăng Biện** (chữ Hán: 王僧辩, ? – 555) là tướng lãnh nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn Hầu Cảnh. ## Khởi nghiệp Nhà họ
**Chiến tranh Tiền Lý - Lương** là cuộc chiến bùng nổ từ năm 545 đến năm 550 kéo dài 5 năm do Triệu Quang Phục lãnh đạo chống quân Lương. ## Nguyên nhân Năm Giáp
****Tăm chỉ nha khoa OraltanaĐường kính sợi chỉ nhỏ phù hợp người có răng tương đối khítSợi chỉ dai, rất khó đứt khi sử dụngSợi chỉ căng nên có thể cho động tác gảy mạnhĐầu
** TĂM CHỈ NHA KHOA DELOVI- Để chăm sóc răng miệng toàn diện, chỉ sử dụng bàn chải đánh răng thôi là chưa đủ. Tăm chỉ nha khoa DELOVI cung cấp giải pháp tối ưu
**Vương Vũ** (chữ Hán: 王宇, ? – 1463), tự **Trọng Hoành**, người Tường Phù, Hà Nam , quan viên nhà Minh. ## Tiểu sử Từ khi còn bé, Vũ hằng ngày chép hơn vạn câu,
Bạn có biết thói quen dùng tăm tre (tăm truyền thống) để tăm răng sau mỗi bữa ăn sẽ:❗ ảnh hưởng không tốt đến nướu.❗ làm thưa răng cũng như hình thành các lỗ hổng
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
**Nhà Tấn** (, ; 266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Quân đội nhà Minh** là bộ máy quân sự Trung Hoa dưới triều đại nhà Minh (1368 - 1644). Bộ máy quân sự được thiết lập từ lực lượng khởi nghĩa Hồng Cân Quân cuối
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Loạn Bát vương** (Bát vương chi loạn; chữ Hán: 八王之亂) là loạn do 8 vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, thời Tấn
**Trương Lương** (chữ Hán: 張良; trước 250 TCN - 186 TCN), biểu tự **Tử Phòng** (子房), là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán. Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là cơ quan lập pháp tối cao của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Quốc
**Nhà Tiền Lý** (chữ Nôm: 茹前李, chữ Hán: 前李朝, Hán Việt: _Tiền Lý triều_, 544 – 602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
Quốc giáo của nhà Thương () là một tôn giáo cổ đại của Trung Quốc, trong đó các tín đồ được đào tạo giao tiếp với nhiều vị thần, bao gồm tổ tiên và các
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng