✨Liêu Thái Tông

Liêu Thái Tông

Liêu Thái Tông (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là Nghiêu Cốt, tên tiếng Hán Gia Luật Đức Quang (耶律德光), tên tự Đức Cẩn, là vị hoàng đế thứ hai của Khiết Đan, tức triều đại nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc.

Xuất thân là con trai thứ hai của hoàng đế khai quốc Gia Luật A Bảo Cơ, Gia Luật Đức Quang ban đầu không được chỉ định là người kế vị. Tuy nhiên ông lại nhận được sự ủng hộ từ mẫu thân là hoàng hậu Thuật Luật Nguyệt Lý Đóa (hay Thuật Luật Bình). Năm 927, sau khi Liêu Thái Tổ qua đời, Thuật Luật hoàng hậu truất tư cách kế vị của hoàng trưởng tử Gia Luật Bội để lập Đức Quang lên nối ngôi, tức Liêu Thái Tông.

Dưới thời trị vì của mình, Thái Tông đổi tên nước Đại Khiết Đan thành Đại Liêu vào ngày 24 tháng 2 năm 947, và tiếp tục phát triển thế lực của người Khiết Đan. Vào năm 936, ông trợ giúp Tiết độ sứ Hà Đông của Hậu Đường là Thạch Kính Đường nổi dậy cướp ngôi, thành lập Hậu Tấn, đổi lấy việc Hậu Tấn xưng thần với nhà Liêu và cắt đất 16 châu Yến Vân cho Liêu, sự kiện này có ảnh hưởng trọng đại đến dòng chảy lịch sử Trung Quốc suốt hơn 200 năm sau đó. Để cai trị người Hán ở Yên Vân, Liêu Thái Tông lựa chọn phương thức "nhân tục nhi trị", tiến hành phân trị đối với người Khiết Đan và người Hán, thi hành lưỡng viện chế Nam diện quan và Bắc diện quan. Do Yến Vân có nhiều cửa ải và thành chiến lược, người Khiết Đan nay có thể tiếp cận vùng bình nguyên ở Hoa Bắc.

Sau khi Thạch Kính Đường mất, quan hệ Liêu - Tấn trở nên xấu đi, dẫn đến việc Liêu Thái Tông xuất binh nam hạ. Năm 946, ông tiêu diệt nhà Hậu Tấn và tự xưng là hoàng đế Trung Nguyên; nhưng gặp sự phản kháng quyết liệt của người Hán, cuối cùng phải rút quân vào cuối xuân năm 947, rồi đột ngột qua đời ở Loan Thành thuộc Hà Bắc. Con trai của Gia Luật Bội là Gia Luật Nguyễn nhân đó xưng đế, và đánh bại quân của Thuật Luật thái hậu, trở thành Liêu Thế Tông.

Thuở ban đầu

Gia Luật Đức Quang chào đời năm 902, trước khi thành lập đế chế Khiết Đan. Cha ông là thủ lĩnh Khiết Đan A Bảo Cơ, và mẹ là người vợ nổi tiếng của A Bảo Cơ, Hoàng hậu Thuật Luật Bình. Ông là con trai thứ hai của họ. Khi trưởng thành, ông được Liêu sử miêu tả là có phong thái đứng đắn và thiên tư tốt, được thường xuyên cùng với cha mẹ tham gia giải quyết các công việc của quốc gia.

Cuối năm 922 sáu năm sau khi Gia Luật A Bảo Cơ lên ngôi hoàng đế Khiết Đan (tức là Liêu Thái Tổ), Gia Luật Đức Quang được phong làm Thiên hạ Binh mã Đại nguyên soái, dẫn quân tấn công nước láng giềng phía nam là Tấn, tiền thân của nhà Hậu Đường.) của nước Tấn (đời Tấn vương Lý Tồn Úc), Nhưng Lý Tồn Úc đã phái binh đánh nhà Hậu Lương, chiếm Vận châu vào tháng 6 năm 923.. Hoàng đế Lý Tồn Úc của nhà Hậu Đường cử Lý Tự Nguyên dẫn quân chống lại Khiết Đan, cùng Hoắc Ngạn Uy (khi ấy đã hàng Đường) làm phó. Tuy nhiên, lực lượng Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đã sớm rút lui, Lý Tồn Úc triệu Lý Tự Nguyên về kinh - và để lại Đoàn Ngưng - lúc này được ban tên Lý Thiệu Khâm - trấn giữ quan. Không lâu sau đó, ngày Ất Tị (7) tháng 3 năm Giáp Thân (tức là ngày 13 tháng 4 năm 924), lại nhận được tin Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ xâm phạm nhà Hậu Đường lần nữa, nhưng Lý Tự Nguyên được lệnh giữ quân ở Hưng châu để dò xét động tĩnh của Khiết Đan, trong khi Lý Tùng Kha và Lý Thiệu Bân chỉ huy kị binh trấn giữ quan ải chống lại Khiết Đan.

Cùng năm 924 vua Đại Nhân Soạn của vương quốc Bột Hải xuất quân Bột Hải đánh đuổi quân Khiết Đan của Gia Luật A Bảo Cơ ra khỏi Liêu Đông phủ, tái chiếm lại Liêu Đông phủ, đưa biên giới vương quốc Bột Hải giáp với nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Trang Tông). Liêu Đông vương từ phía tây quay lại cai trị Liêu Đông phủ.

Cuối năm 924, hoàng đế Lý Tồn Úc của nhà Hậu Đường trao cho Lý Tự Nguyên 37.000 quân bảo hộ Biện châu, và đề phòng sự xâm lấn của Đại Khiết Đan quốc (đời hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ). Khi Lý Tự Nguyên đi đến Hưng Đường (tức Ngụy châu trước đây), ông ta đòi 500 bộ giáp phục từ phủ khố của Hưng Đường. Tướng giữ Hưng Đường, Trương Hiến, tin Lý Tự Nguyên cần giáp phục cho quân sĩ, nên cung cấp cho ông ta mà không cần có sự đồng ý của Lý Tồn Úc. Khi Lý Tồn Úc biết chuyện, rất bất bình, nói rằng: "Trương Hiến, chẳng hỏi lệnh của trẫm, tự ý lấy áo giáp của trẫm cho Lý Tự Nguyên. Đó là ý gì?". Lý Tồn Úc sau đó đã phạt Trương Hiến một tháng bổng lộc và thu hồi toàn bộ số giáp phục vừa trao cho Lý Tự Nguyên.

Không lâu sau đó, Lý Tự Nguyên đánh bại quân Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ ở Trác châu (涿州, nay thuộc Bảo Định). Trong lúc đó, Lý Tồn Úc quyết định bố trí lại các Tiết độ sứ địa phương để phòng bị quân Khiết Đan. Lý Tồn Úc dời Lý Thiệu Bân từ Hoành Hải đến Lư Long, nhưng lại nghĩ rằng Lý Thiệu Bân tuy có năng lực nhưng không mấy danh tiếng trong lòng quân lính, vì thế dời Lý Tự Nguyên đến trấn Thành Đức. Sau khi Lý Tự Nguyên nhận được lệnh dời trấn, vì gia đình ông ta đang ở Thái Nguyên, ông ta yêu cầu rằng Lý Tùng Kha, hiện đang ở Vệ châu dời đến Thái Nguyên để chăm sóc cho gia đình ông ta. Tuy nhiên, điều này khiến Lý Tồn Úc tức giận, nói: "Lý Tự Nguyên thân là đại tướng nắm giữ trọng trấn. Hắn ta phải biết rằng cả quân đội và triều chính đều là đặc quyền của trẫm, sao dám đòi hỏi cho con trai mình!". Lý Tồn Úc giáng chức Lý Tùng Kha, khiến Lý Tự Nguyên trở nên lo lắng, và viết thư biện bạch đến Lý Tồn Úc. Tuy nhiên, khi Lý Tự Nguyên xin đến Hưng Đường để yết kiến Lý Tồn Úc, thì Lý Tồn Úc từ chối. Trong khi đó, người thân tín của Lý Tồn Úc là Quách Sùng Thao lo sợ về ý chí của Lý Tự Nguyên, bí mật đề nghị tước binh quyền, thẩm chí giết chết ông ta; Lý Tồn Úc không theo. ngọn núi khi đó nằm ở trung tâm của vương quốc Bột Hải. Núi Trường Bạch hiện vẫn còn một trong các hõm chảo núi lửa lớn nhất thế giới là Thiên Trì. Tro tàn của vụ phun trào này có thể tìm thấy trên một khu vực rộng lớn, thậm chí là trong lớp trầm tích tại miền bắc Nhật Bản (đời Thiên hoàng Daigo). Vụ nổ đã tạo ra một số lượng rất lớn tro núi lửa, gây thiệt hại nông nghiệp và tính ổn định của xã hội Bột Hải.

Do hậu quả của thiên tai này quá lớn nên vua Đại Nhân Soạn đã cho rút toàn bộ quân đội Bột Hải ra khỏi lãnh thổ Đại Khiết Đan quốc để về khắc phục hậu quả thiên tai của vương quốc Bột Hải. Sau đó, các chiến binh Tân La đã được hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ khen thưởng nhờ công lao giúp ông ta đánh đuổi quân Bột Hải xâm lược. Vua Đại Nhân Soạn đã bố trí đại quân Bột Hải ở Liêu Đông phủ để ngăn quân Khiết Đan thừa cơ Bột Hải đang gặp khó khăn sau thiên tai mà tấn công.

Trong khi đó, hoàng đế Lý Tồn Úc của nhà Hậu Đường lên kế hoạch tiến công Tiền Thục (đời vua Vương Diễn). Lý Tồn Úc định lấy Lý Thiệu Khâm làm tướng chỉ huy, nhưng Quách Sùng Thao không đồng tình. Khi Lý Tự Nguyên được người ta tiến cử, Quách Sùng Thao tấu rằng ông ta cần phải ở Thành Đức ở ngăn chặn quân Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ xâm lấn. Thay vào đó, Lý Tự Nguyên đề nghị hoàng trưởng tử là Lý Kế Nghiệp thống lĩnh tam quân. Lý Tồn Úc đồng tình và đến cuối năm 925, ông ta biến các kế hoạch thành hành động. Lý Kế Nghiệp được Lý Tồn Úc phong làm Tây Xuyên tứ diện hành doanh đô thống, còn Quách Sùng Thao (郭崇韜) được Lý Tồn Úc phong làm Đông bắc diện hành doanh đô chiêu thảo chế trí đẳng sứ và là người chỉ huy chiến dịch trên thực tế.

Cũng trong cuối năm 925 Gia Luật A Bảo Cơ cùng thái tử Gia Luật Bội và Gia Luật Đức Quang xuất quân đi xâm lược vương quốc Bột Hải (đời vua Đại Nhân Soạn). Để tránh tuyến phòng thủ của đại quân Bột Hải ở Liêu Đông phủ, quân Khiết Đan đã đi con đường vòng đến bao vây và tấn công Phù Dư phủ của vương quốc Bột Hải.

Thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc) thuộc Phù Dư phủ của vương quốc Bột Hải nhanh chóng rơi vào tay quân Khiết Đan. Phù Dư vương chạy đến trọng thành Phù Dư (夫餘, nay thuộc Tứ Bình, Cát Lâm, Trung Quốc) thuộc Phù Dư phủ của vương quốc Bột Hải. Vào ngày 21 tháng 12 âm lịch năm Ất Dậu (năm 925), tức là ngày 7 tháng 1 dương lịch năm Bính Tuất (năm 926), quân Khiết Đan do Gia Luật Bội (con trưởng của Gia Luật A Bảo Cơ) và Gia Luật Đức Quang (con thứ hai của Gia Luật A Bảo Cơ) chỉ huy tiến hành bao vây trọng thành Phù Dư của vương quốc Bột Hải. Hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đích thân chỉ huy đại quân Khiết Đan trực chỉ kinh đô Thượng Kinh (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ của vương quốc Bột Hải, nhằm bắt sống kẻ thù không đội trời chung suốt 20 năm qua là vua Đại Nhân Soạn.

Từ ngày 23 tháng 12 âm lịch năm Ất Dậu (năm 925) - tức là ngày 9 tháng 1 năm Bính Tuất (năm 926) đến ngày 2 tháng 1 âm lịch năm Bích Tuất - tức là ngày 18 tháng 1 năm 926, hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đã dẫn quân Khiết Đan lần lượt đánh chiếm 4 thành của vương quốc Bột Hải là Túc Châu (nay là Cửu Đài, Cát Lâm, Trung Quốc) thuộc Túc Châu phủ, Mạc Châu (nay là A Thành, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Mạc Hiệt phủ, Trung Kinh (nay là Hòa Long, Cát Lâm, Trung Quốc) thuộc Hiển Đức phủ và Đồng Châu (nay là Uông Thanh, Cát Lâm, Trung Quốc) thuộc Đồng Châu phủ. Túc Châu vương, Mạc Hiệt vương, Hiển Đức vương và Đồng Châu vương đều quy hàng quân Khiết Đan. Đến ngày 3 tháng 1 âm lịch năm Bích Tuất, tức là ngày 19 tháng 1 năm 926, trọng thành Phù Dư (夫餘, nay thuộc Tứ Bình, Cát Lâm, Trung Quốc) thuộc Phù Dư phủ bị quân Khiết Đan do Gia Luật Bội và Gia Luật Đức Quang chỉ huy đánh chiếm. (Điều này được xem là dấu chấm hết cho vương quốc Bột Hải, ngay cả khi vào lúc đó Gia Luật A Bảo Cơ vẫn chưa chiếm được kinh thành Thượng Kinh thuộc Long Tuyền phủ của vương quốc Bột Hải) Phù Dư vương quy hàng quân Khiết Đan. Vậy là chỉ trong vòng 10 ngày mà 5 thành trì quan trọng nhất của vương quốc Bột Hải là Túc Châu, Mạc Châu, Trung Kinh, Đồng Châu và trọng thành Phù Dư đều bị thất thủ trước đại quân Khiết Đan.

Vua Đại Nhân Soạn khẩn trương cử 30.000 quân Bột Hải đến hỗ trợ cho một lão tướng (老相) để ngăn cản bước tiến của quân Khiết Đan. Tuy nhiên lão tướng ấy cùng 30.000 quân Bột Hải đã gục ngã trước đội kỵ binh của người Khiết Đan do hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ chỉ huy.

Sau vài tháng đánh Bột Hải, quân Khiết Đan đã tràn ngập khắp đất nước Bột Hải. Những người Khiết Đan sinh sống trên lãnh thổ vương quốc Bột Hải từ thời Bột Hải Cao Vương cũng cầm vũ khí lên hỗ trợ quân đội Khiết Đan tiêu diệt vương quốc Bột Hải này. Mười bốn phủ còn lại của vương quốc Bột Hải là Long Tuyền phủ, Long Nguyên phủ, Nam Hải phủ, Áp Lục phủ, Trường Lĩnh phủ, Liêu Đông phủ, Định Lý phủ, An Biên phủ, Súy Tân phủ, Đông Bình phủ, Thiết Lợi phủ, Hoài Viễn phủ, An Viễn phủ và Doanh Châu phủ đều bị người Khiết Đan và quân đội Khiết Đan tấn công. Kinh đô Thượng Kinh (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) nằm trên đồng cỏ rộng lớn thuộc Long Tuyền phủ của vương quốc Bột Hải bị quân Khiết Đan bao vây vào ngày 9 tháng 1 âm lịch năm Bính Tuất, tức là ngày 25 tháng 1 dương lịch năm 926.

Ngày 14 tháng 2 âm lịch năm Bính Tuất, tức là ngày 28 tháng 2 dương lịch năm 926, kinh đô Thượng Kinh (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ của vương quốc Bột Hải thất thủ trước người Khiết Đan sau 34 ngày chiến đấu. Hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ cùng thái tử Gia Luật Bội chỉ huy binh sĩ Khiết Đan tràn vào thành Thượng Kinh. Vua cuối cùng của Bột Hải là Đại Nhân Soạn (khi đó hơn 50 tuổi) cùng Long Tuyền vương và 300 văn võ bá quan Bột Hải đã đầu hàng quân Khiết Đan. Vào thời điểm thất thủ, binh lính của vương quốc Bột Hải lên tới "hàng trăm nghìn" người theo Liêu sử. Thái tử Đại Quang Hiển (khi đó hơn 30 tuổi) đã tập hợp được một đội quân hàng vạn người Bột Hải đào thoát khỏi Thượng Kinh. Cung điện của Thượng Kinh đã bị đốt cháy bởi sự cướp bóc của quân đội Khiết Đan. Toàn bộ sách vở, tài liệu, thơ ca của vương quốc Bột Hải đều bị quân Khiết Đan thiêu hủy sạch sẽ. Do đó những thông tin hiện có ngày nay về vương quốc Bột Hải đều lấy từ các sách sử của Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Triều Tiên - Hàn Quốc.

Mười ba đại vương cai trị 13 phủ còn lại của vương quốc Bột Hải là Long Nguyên vương, Nam Hải vương, Áp Lục vương, Trường Lĩnh vương, Liêu Đông vương, Định Lý vương, An Biên vương, Súy Tân vương, Đông Bình vương, Thiết Lợi vương, Hoài Viễn vương, An Viễn vương và Doanh Châu vương đều quy hàng đại quân Khiết Đan của hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ. Vương quốc Bột Hải bị diệt vong sau 228 năm tồn tại với 15 đời vua.

Hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đổi tên kinh đô Thượng Kinh (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thành pháo đài Hốt Hãn. Đại Nhân Soạn cùng toàn bộ hoàng tộc Bột Hải bị áp giải đến Đại Khiết Đan quốc, nhiều cư dân Bột Hải cũng bị ép phải di cư đến Đại Khiết Đan quốc, trong khi nhiều người dân của vương quốc Bột Hải bao gồm nhiều quý tộc Bột Hải (khoảng 200.000 người) đã chạy trốn đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thái Tổ) ở phía nam. Một phần đông người Bột Hải sống trộn lẫn các bộ lạc của người Hắc Thủy Mạt Hạt và người Tungus và từ từ hình thành nên bộ tộc Nữ Chân.

thumb|Khu vực do [[nhà Liêu|Đại Khiết Đan quốc kiểm soát. Vương quốc Đông Đan được tô màu xanh lam.]] Gia Luật A Bảo Cơ thiết lập ra vương quốc Đông Đan trên lãnh thổ cũ của Bột Hải, đặt quốc đô ở Phù Dư, phong anh trai của Gia Luật Đức Quang là Gia Luật Bội làm Đông Đan vương, với danh hiệu: "Nhân Hoàng vương", và dùng danh xưng cho chính mình là "Thiên hoàng đế" và vợ là Thuật Luật Bình là "Địa hoàng hậu". Một phần đất đai của Bột Hải được sáp nhập vào Đại Khiết Đan quốc và phần đất đai Bột Hải còn lại là nơi sinh sống của người Bột Hải gốc Cao Câu Ly vẫn giữ được độc lập. Gia Luật A Bảo Cơ phong cho Gia Luật Đức Quang làm "Thái tử Đại Nguyên soái", phụ trách kinh đô Khiết Đan là Lâm Hoàng), nơi mà trước đây Gia Luật Bội từng phụ trách. Những người dân Bột Hải bị chinh phục ngay lập tức bắt đầu nổi dậy chống lại Đại Khiết Đan quốc của Gia Luật A Bảo Cơ từ năm 926.

Gia Luật Bội đã bước lên ngai vàng của vương quốc tại pháo đài Hốt Hãn, kinh đô Thượng Kinh của Bột Hải cũ, nay thuộc Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc. Vương quốc dùng tên Hán là Đông Đan, để tỏ lòng kính trọng với Đại Khiết Đan quốc ở phía tây.

Hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ sau đó phái Gia Luật Đức Quang dẫn quân đi tấn công biên giới phía bắc nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Minh Tông). Quân Hậu Đường bại trận nhưng quân Khiết Đan rút lui khi hay tin hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ đã không còn khỏe nữa.

Không lâu sau khi chiếm được Phù Dư, hoàng đế Gia Luật A Bảo Cơ lâm bệnh và đột ngột qua đời vào ngày 6 tháng 9 năm 926 khi vẫn còn ở Phù Dư, thọ 55 tuổi. Sau khi ông ta qua đời, Hoàng hậu Thuật Luật Bình của ông ta đã từ chối tuẫn táng cùng ông ta theo phong tục truyền thống của Khiết Đan, và bà ta chọn cách chặt đứt bàn tay phải để chôn theo ông ta. Thuật Luật Bình sau đó nắm giữ quyền lực về quân sự và dân sự, và có thể giám sát việc kế vị hoàng vị theo điều kiện của bà ta. Việc Hoàng hậu Thuật Luật Bình từ chối tử tử để tuẫn táng cùng Gia Luật A Bảo Cơ khiến phong tục lâu đời này của người Khiết Đan đã chấm dứt.

Thuật Luật Bình hoàng hậu chiếm lấy đại quyền, bà và Gia Luật Bội hộ tống di thể Thái Tổ về Lâm Hoàng, cử em trai của Gia Luật A Bảo Cơ là Gia Luật An Đoan làm Đông Đan Quốc vương, phụ chính tạm thời cai quản vương quốc Đông Đan. Do Gia Luật Bội mang cả giá trị Hán và Khiết Đan, Hoàng hậu Thuật Luật Bình đã phản đối Da Luật Bội trở thành hoàng đế. Bà tin rằng sự cởi mở của Gia Luật Bội với văn hóa Hán có thể làm suy giảm khả năng lãnh đạo của ông trong vai trò là một người Khiết Đan, thay vào đó bà ủng hộ người con trai thứ hai của Gia Luật A Bảo Cơ, là người mang tính truyền thống hơn, đó là Gia Luật Đức Quang, sự ủng hộ dành cho Gia Luật Đức Quang còn đến từ giới quý tộc Khiết Đan. Khi trở lại Lâm Hoàng, Thuật Luật Bình muốn truất tư cách kế vị của Gia Luật Bội, vì mà yêu thương Đức Quang hơn. Tuy nhiên, theo truyền thống, bà triệu tập các tù tưởng, cùng với Gia Luật Bội và Gia Luật Đức Quang. Hoàng hậu nói với họ: Ta thương yêu cả hai đứa con trai này, nhưng không biết nên chọn ai trong số chúng làm hoàng đế. Các người nếu quyết định chọn ai thì cứ chạy đến ôm đứa đó. Các tù trưởng biết rằng bà thương Đức Quang, bèn chạy đến ôm chân ông. Do đó hoàng hậu lập Đức Quang làm hoàng đế vào ngày 11 tháng 12 năm 927, là Liêu Thái Tông. Gia Luật Bội tức giận trước âm mưu của mẹ mình, bèn dẫn mấy trăm quân sĩ chạy trốn đến nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Minh Tông), nhưng bị người Khiết Đan bắt lại được tại biên giới. Thuật Luật hoàng hậu không trừng phạt ông ta, mà đưa về Đông Đan. Gia Luật Bội đã buộc chú là Đông Đan Quốc vương Gia Luật An Đoan trả ngai vàng Đông Đan lại cho mình.

Những năm đầu

Liêu Thái Tông tôn mẹ là Thuật Luật hoàng hậu làm hoàng thái hậu, tấn phong phu nhân là Thuật Luật Ôn, cháu của Thuật Luật thái hậu, làm hoàng hậu. Những người Bột Hải cũ cũng bị cưỡng bách đến Đông Bình. Bản thân Hoàng vương Gia Luật Bội bị đặt dưới sự giám sát của các cận binh hoàng cung do hoàng đế Liêu Thái Tông phái đến.

Bột Hải hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của người Khiết Đan, những người đã lập nên vương quốc Đông Đan. Người dân Bột Hải cùng nhau nổi dậy để chống lại những thế lực cai trị mới, và nhiều phong trào phục quốc đã xuất hiện trong khoảng 200 năm.

Bắt đầu từ năm 927, người Khiết Đan bắt đầu săn lùng và hành quyết tất cả các thành viên của vương tộc Bột Hải để ngăn chặn việc bất kỳ ai có thể được đưa lại lên ngai vàng Bột Hải, dù là vua hay nữ vương. Tuy nhiên, một vài thành viên của vương tộc vẫn sống sót. Trong số họ có Đại Quang Hiển (Dae Gwang-hyeon) đang ẩn nấu. Một số thành viên gia tộc họ Đại khác đã thống nhất các nhóm kháng cự ở phía tây sông Áp Lục, đánh chiếm thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ và lập nên vương quốc Hậu Bột Hải tại thành Hốt Hãn đó trong tháng 12 năm 927.

Hậu Bột Hải ra đời với sự nỗ lực của các quý tộc Bột Hải cũ để lập nên một vị vua mới họ Đại lên ngai vàng và hồi sinh vương quốc. Những người dân Bột Hải ngay lập tức đã nổi dậy chống lại người Khiết Đan và điều này nằm ngoài tầm kiểm soát của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội). Vua Gia Luật Bội liền bổ nhiệm cựu vua Bột Hải là Đại Nhân Soạn (khi đó đã hơn 50 tuổi) làm quan chức cấp cao của vương quốc Đông Đan nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng Bột Hải. Gia Luật Bội còn lập một thành viên vương tộc Bột Hải là Đại thị làm trắc thất (vương phi) của ông ta. Tuy nhiên dân chúng Bột Hải vẫn tiếp tục tham gia vào quân đội của vương quốc Hậu Bột Hải để chống lại vương quốc Đông Đan.

Đông đô của Đại Khiết Đan quốc (gọi là thành Đông Kinh, Liêu Dương, Liêu Ninh ngày nay) từng là căn cứ để giám sát các lãnh thổ Bột Hải trước đây. Theo một số liệu do Pamela Crossley trích dẫn, cư dân của thành phố, hơn 40.000 người vào đầu thế kỷ thứ 10, chủ yếu là người Bột Hải. Đại Nhân Soạn, vị vua Bột Hải cuối cùng và các thành viên khác của dòng dõi hoàng gia Bột Hải trước đây vẫn nắm giữ quyền lực đáng kể ở vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội) và thành Đông Kinh sau khi Bột Hải sụp đổ. Mặt khác, một số tầng lớp tinh hoa của Bột Hải đã hòa nhập vào tầng lớp quý tộc Đại Khiết Đan quốc và thường thay đổi danh tính cá nhân của họ một cách đáng kể.

Năm 928, quân đội của vương quốc Hậu Bột Hải từ Long Tuyền phủ tiến hành nam hạ, lần lượt đánh chiếm Đồng Châu phủ, Hiển Đức phủ, Long Nguyên phủ, Trường Lĩnh phủ, Áp Lục phủ và Nam Hải phủ của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Bội). Vương quốc Đông Đan chỉ còn lại 12 phủ.

Để tiếp tục quan hệ hữu nghị giữa Bột Hải và Nhật Bản, vương quốc Đông Đan của vua Gia Luật Bội đã cử một phái đoàn ngoại giao qua Biển Nhật Bản vào năm 929. Triều đình Nhật Bản ở Kyoto (đời Thiên hoàng Daigo) đã từ chối phái đoàn của Đông Đan vì lòng trung thành với vương quốc Bột Hải cũ. Tháng 11 âm lịch năm 930, Gia Luật Bội đã đến Đăng Châu của nhà Hậu Đường. Tại đây Gia Luật Bội đã trở thành một khách quý của vua Hậu Đường Minh Tông, thậm chí còn được vị Hoàng đế này ban cho họ Lý của hoàng tộc. và được tôn lên làm vua của vương quốc Đông Đan, với Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị làm nhiếp chính của vương quốc Đông Đan. Cựu vua Bột Hải là Đại Nhân Soạn tiếp tục phò tá cho vua Gia Luật Nguyễn và nhiếp chính Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị.

Cùng năm 930, các tướng lĩnh của vương quốc Hậu Bột Hải tại Áp Lục phủ và Nam Hải phủ đã tôn thái tử Đại Quang Hiển (con trai của Đại Nhân Soạn) lên làm thủ lĩnh cai trị 2 phủ này. Từ đó vương quốc Hậu Bột Hải chỉ còn cai trị 5 phủ là Long Tuyền phủ, Đồng Châu phủ, Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ và Trường Lĩnh phủ.

Năm 931, Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu Thị phái sứ giả từ vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) sang nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Minh Tông) để bang giao và triều cống. Một số lượng lớn quân nổi dậy đã nổi lên trên lãnh thổ Bột Hải trước đây sau cuộc chinh phục vương quốc của triều đại nhà Liêu từ năm 926, mặc dù hầu hết đều nhanh chóng bị quân Liêu đánh bại.

Từ năm 932 đến năm 935, Đại Quang Hiển cùng vua của vương quốc Hậu Bột Hải họ Đại (không rõ tên) liên tục phát binh tấn công Liêu Đông phủ, Hoàng Long phủ, Túc Châu phủ, Mạc Hiệt phủ, Thiết Lợi phủ, Doanh Châu phủ, Đông Bình phủ và Súy Tân phủ của vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn). Tuy nhiên phần thắng thường nghiêng về vương quốc Đông Đan.

Mặc dù phải chạy sang lãnh thổ Hậu Đường và trở thành một thần dân của Hậu Đường, song Lý Tán Hoa (Gia Luật Bội) tiếp tục duy trì các liên lạc với mẹ Thuật Luật Bình và hoàng đệ Liêu Thái Tông, thường sử các phái viên đến chỗ họ. Thông tin cũng đến theo đường khác, như khi tổ mẫu của ông ta là Tiêu Nham Mẫu Cân qua đời vào năm 933, mẹ Thuật Luật Bình và Liêu Thái Tông đã báo tin cho Lý Tán Hoa (Gia Luật Bội). là Lý Nhân Phúc (người Đảng Hạng), vốn cai trị Định Nan một cách bán độc với chính quyền trung ương Hậu Đường, lập liên minh với Đại Khiết Đan quốc của Liêu Thái Tông.

Cũng vào năm 933, vua Hậu Đường Minh Tông của Hậu Đường băng hà, và người kế vị ban đầu là nhi tử Tống vương Lý Tùng Hậu, tức là Hậu Đường Mẫn Đế. Năm 934, con nuôi của Hậu Đường Minh Tông là Lộ vương Lý Tùng Kha đã lật đổ vua Hậu Đường Mẫn Đế rồi tự lập làm vua Hậu Đường, tức là vua Hậu Đường Phế Đế. Lý Tán Hoa (Gia Luật Bội) đã mật báo với Liêu Thái Tông đây là cơ hội tốt để xâm lược Hậu Đường, song Liêu Thái Tông sau đó đã không có hành động nào.

Sau khi chiến bại trước quân đội Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) vào năm 935, vua của vương quốc Hậu Bột Hải họ Đại (không rõ tên) đã bị cựu tri phủ của Nam Hải phủ là Liệt Vạn Hoa (열만화, 烈萬華, Yeol Manhwa) và Ô Tế Hiển (오제현, 烏濟顯, Oh Je-hyeon) của gia tộc Ô tiến hành đảo chính. Vua của Hậu Bột Hải họ Đại đó đã bị lật đổ ngôi vua và bị giết chết ở Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc). Với sự giúp đỡ của Ô Tế Hiển (오제현, 烏濟顯, Oh Je-hyeon) của gia tộc Ô, Liệt Vạn Hoa đã tự lập làm vua, định đô tại Tây Kinh, đổi tên vương quốc sang Định An, lập ra Định An Quốc trong năm 935.

Một số quý tộc họ Đại người Bột Hải vẫn trấn giữ thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) và cai trị Long Tuyền phủ. Họ tuyên bố không phục tùng vua Liệt Vạn Hoa mà tuyên bố độc lập khỏi Định An Quốc, với quốc hiệu vẫn giữ nguyên là Hậu Bột Hải. Như vậy Định An Quốc chỉ cai trị 4 phủ là Long Nguyên phủ, Hiển Đức phủ, Trường Lĩnh phủ và Đồng Châu phủ.

Cựu vua Bột Hải là Đại Nhân Soạn được cho là đã qua đời khi phụng sự cho vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn), hưởng thọ khoảng 60 tuổi.

Cùng năm 935, Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu Thị phái sứ giả từ vương quốc Đông Đan (đời vua Gia Luật Nguyễn) sang nhà Hậu Đường (đời vua Hậu Đường Phế Đế) để bang giao và triều cống.), âm mưu chống lại ông ta. Theo lời khuyên của các học sĩ Lý Tống và Lã Kỳ, Lý Tùng Kha suy tính đến việc liên minh với Khiết Đan để ngăn khả năng Khiết Đan sẽ trợ giúp Thạch Kính Đường. Tuy nhiên khi một học sĩ khác là Tiết Văn Ngộ phản đối vì cho rằng Hoàng đế Khiết Đan sẽ đòi hỏi gả công chúa, Lý Tùng Kha đổi ý và quyết định không liên minh.

Cảm thấy không cần thiết để vương quốc Đông Đan tồn tại bên cạnh mình, Liêu Thái Tông quyết định sáp nhập toàn bộ lãnh thổ vương quốc Đông Đan với 12 phủ (Hoàng Long phủ, Mạc Hiệt phủ, Định Lý phủ, An Biên phủ, Súy Tân phủ, Đông Bình phủ, Thiết Lợi phủ, Hoài Viễn phủ, An Viễn phủ, Liêu Đông phủ, Túc Châu phủ và Doanh Châu phủ) vào lãnh thổ Đại Khiết Đan quốc trong năm 936. Vua Gia Luật Nguyễn và nhiếp chính Đoan Thuận hoàng hậu Tiêu thị của vương quốc Đông Đan trở thành những tông thất của Đại Khiết Đan quốc. Lực lượng chính của quân Liêu cũng rời khỏi khu vực của vương quốc Bột Hải cũ.). Điều này khiến cho Kính Đường hoảng sợ, cho rằng ông ta sẽ sớm mất mạng sau khi rời khỏi Hà Đông, và quyết định làm phản. Lý Tùng Kha sau đó cử Trương Kính Đạt đem quân tấn công Hà Đông. Thạch Kính Đường khi đó 45 tuổi, cử người sang Khiết Đan cầu viện, hứa rằng nếu Liêu Thái Tông giúp đỡ ông ta làm hoàng đế Trung Quốc, ông ra sẽ cung phụng Liêu Thái Tông như cha của mình và cắt đất Lư Long) và các châu quận Hà Bắc ở phía bắc Nhạn Môn Quan cho người Khiết Đan. Khi sứ giả của Hà Đông đến triều đình Khiết Đan, Liêu Thái Tông, khi đó 35 tuổi, rất hài lòng, ông nói với Thuật Luật thái hậu: "Nhi thần từng mộng thấy Thạch công sẽ gửi sứ giả đến đây. Bây giờ quả nhiên là như vậy. Đây đúng là thiên ý." Nhà vua đáp lại rằng ông đồng ý liên minh và sẽ gửi quân tới giúp họ Thạch vào mùa thu.), và cử sứ giả đến chỗ Liêu Thái Tông, đề nghị liên minh. Đức Quân hối lộ vàng và lụa cho Liêu Thái Tông, hứa sẽ kết làm anh em với Khiết Đan và vẫn để Thạch Kính Đường làm tiết độ sứ Hà Đông, Thái Tông ban đầu có ý bằng lòng. Thạch Kính Đường biết tin thất kinh, sai thân tín là Tang Duy Hàn đến thuyết phục rằng tình thế đang có lợi, không nên theo lời Triệu Đức Quân. Cuối cùng Liêu Thái Tông nghe lời của Duy Hàn.), và ông nghĩ rằng khi quân Khiết Đan tiến vào Lạc Dương sẽ khiến người Hán hoảng sợ, nên ở lại Lộ châu, để Thạch Kính Đường dẫn quân đến Lạc Dương. Lý Tùng Kha, trong tình thế tuyệt vọng, cùng gia quyến tự thiêu. Nhưng trước khi tự thiêu, Tùng Kha lệnh giết anh của Liêu Thái Tông là Gia Luật Bội. Thạch Kính Đường vào kinh, kết thúc triều Hậu Đường. Ông ta cho hộ tống quan tài của Gia Luật Bội về Khiết Đan.

Năm 937, Từ Tri Cáo, nhiếp chính nước Ngô ở miền nam Trung Quốc, gửi sứ giả đến Khiết Đan gửi sứ giả đến kết minh với Khiết Đan. Liêu Thái Tông cũng gửi sứ giả đáp lễ. Ông học theo chế độ của triều đình Trung Quốc, cho con trai của Triệu Đức Quân là Triệu Diên Thọ làm Khu mật sứ, nắm quyền như thủ tướng. Sau đó, khi Từ Tri Cáo cướp ngôi nước Ngô, xưng là hoàng đế Nam Đường, ông ta tiếp tục giữ quan hệ thân thiện với Khiết Đan, nhưng một lần Tri Cáo sai giết chết sứ thần nước Khiết Đan đang đi qua lãnh thổ Hậu Tấn, nhằm đổ lỗi cho Hậu Tấn để hai bên bất hòa với nhau. khó bề kiểm soát, vì thế chia Thiên Hùng làm hai phần và dời Quang Viễn làm Tiết độ sứ Hà Dương, và lưu thủ Lạc Dương. Sử sách ghi nhận là sau sự chuyển đổi này, Quang Viễn bằng đầu bất mãn với triều đình Hậu Tấn và bí mật gửi thư từ với nước Liêu.) sẽ khởi loạn, Hậu Tấn Cao Tổ dời đồng minh của Trọng Vinh là Hoàng Phủ Ngộ, Tiết độ sứ Nghĩa Vũ ) đến trấn Chiêu Nghĩa. Liêu Thái Tông thừa cơ hội này muốn kiểm soát Nghĩa Vũ, sai triều thần Khiết Đan là Vương Uy, con trai của cố Tiết độ sứ Vương Xử Trực dưới thời Hậu Đường, đến làm tiết độ sứ Nghĩa Vũ. Hậu Tấn Cao Tổ tìm cách thoái thác vì cho rằng Vương Uy chưa qua rèn luyện nên chưa đủ kinh nghiệm để làm Tiết độ sứ. Liêu Thái Tông giận dữ đáp lại rằng: Nhà người qua bao nhiêu lớp đào tạo để từ Tiết độ sứ mà lên làm thiên tử?. Vua Tấn thất kinh, gửi biểu tạ tội và hứa sẽ phong cho cháu của Vương Xử Trực là Vương Đình Dận làm Tiết độ sứ để xoa dịu Liêu Thái Tông.

An Trọng Vinh, lúc này đang có ý định chống lại Hậu Tấn, và rất căm hận nước Khiết Đan. Khi sứ Khiết Đan đi ngang qua Thành Đức, ông ta thường nguyền rủa và đôi khi còn giết chết họ. Năm 940, Trọng Vinh bắt giam sứ giả Bắc triều, và dâng biểu lên triều đình Hậu Tấn nói rằng không nên thuần phục người Khiết Đan nữa vì người Khiết Đan coi thường người Trung Quốc. Tang Duy Hàn thuyết phục Hậu Tấn Cao Tổ rằng liên minh với Khiết Đan chỉ có lợi không có hại, và khi nhắc đến Liêu Thái Tông, ông ta nói rằng nhà vua thông minh và trí dũng hơn người. Theo lời Duy Hàn, vua Hậu Tấn tìm cách thuyết phục Trọng Vinh ngưng ý định chống Khiết Đan. Ông cũng cử Dương Ngạn Tuân, Tiết độ sứ An Quốc làm sứ giả đến bắc để giải thích với Liêu Thái Tông đang nổi cơn thịnh nộ vì vụ giết sứ giả, rằng những hành động của Trọng Vinh không phải là do ý của triều đình Trung Nguyên. Theo Wittfogel và Feng, một cuộc điều tra dân số không ghi ngày tháng của người Khiết Đan cho thấy số hộ gia đình người Bột Hải ở Liêu Dương của Đại Khiết Đan quốc vào khoảng 100.000 hộ, nếu tính 1 hộ có 5 thành viên tức là khoảng nửa triệu người Bột Hải đang sinh sống ở Liêu Dương vào lúc đó.

Mùa đông năm 941, đồng minh của An Trọng Vinh là An Tòng Tiến, Tiết độ sứ Sơn Nam Đông đạo nổi dậy chống Hậu Tấn. An Trọng Vinh nghe được tin đó cũng nổi dậy. Quân Hậu Tấn dưới sự chỉ huy của anh rể Thạch Kính Đường là Đỗ Trọng Uy nhanh chóng đánh bại An Trọng Vinh, và Trọng Vinh bị thủ hạ giết chết. Hậu Tấn Cao Tổ đem thủ cấp của An Trọng Vinh gửi cho Khiết Đan (tuy nhiên An Tòng Tiến không bị đánh bại đến sau khi Thạch Kính Đường chết).

Mặc dù An Trọng Vinh đã chết, Liêu Thái Tông tiếp tục gửi sứ thần đến Tấn, trách cứ việc người dân bộ tộc Thổ Dục Hồn sống trong đất mà Hậu Tấn đã dâng cho Liêu, thường rủ nhau trốn khỏi Liêu chạy về phía nam. Có ý kiến cho rằng Thạch Kính Đường lo lắng và ngã bệnh vì việc này.

Vua Cao Ly Thái Tổ của Cao Ly thể hiện sự thù địch mạnh mẽ đối với người Khiết Đan đã tiêu diệt vương quốc Bột Hải. Năm 942, hoàng đế Liêu Thái Tông của Đại Khiết Đan quốc gửi thêm 30 sứ giả cùng 50 con lạc đà đến Cao Ly của Cao Ly Thái Tổ, nhưng lần này Cao Ly Thái Tổ đã từ chối món quà, đày 30 sứ thần Khiết Đan đến một hòn đảo và khiến 50 con lạc đà chết đói dưới một cây cầu, sự kiện được gọi là "Sự cố cầu Manbu". Theo Tư trị thông giám, Cao Ly Thái Tổ còn đề xuất với vua Thạch Kính Đường của nhà Hậu Tấn rằng ông ta tấn công người Khiết Đan để trả thù cho vương quốc Bột Hải. Hơn nữa, trong Mười điều răn dành cho con cháu của mình, Cao Ly Thái Tổ tuyên bố rằng người Khiết Đan là "những con thú man rợ" và cần phải đề phòng.

Mùa hạ năm 942, vua Thạch Kính Đường của Hậu Tấn qua đời. Sau cuộc tranh luận giữa Phùng Đạo và tướng Thị vệ mã bộ Đô ngu hầu Cảnh Diên Quản, họ quyết định rằng đất nước cần một ông vua trưởng thành, vì thế bỏ qua đứa con nhỏ của Thạch Kính Đường là Thạch Trọng Duệ và lập con người anh của Hậu Tấn Cao Tổ (được ông ta nhận nuôi) là Thạch Trọng Quý làm hoàng đế Hậu Tấn. của nhà Hậu Tấn, đang có mẫu thuẫn với triều đình Hậu Tấn, và, dù ông ta chưa sẵn sàng khởi nghĩa, nhưng đã viết thư cho Liêu Thái Tông đề nghị phạt Tấn để trừng phạt những hành vi ngạo mạn của Thạch Trọng Quý. Liêu Thái Tông trao cho Triệu Diên Thọ 5 vạn quân từ Lư Long đến trấn Đại Đồng) yêu cầu ông ta chỉ huy các chiến dịch công đánh Trung Nguyên, bảo rằng, "Nếu nhà ngươi chiếm được, ta sẽ phong cho làm hoàng đế." Ông cũng thường nói với bọn người Hán về Diên Thọ, "Hắn là chủ của các ngươi." và sau đó tiến đến gần Nghiệp Đô (鄴都), trị sở Thiên Hùng quân. Thạch Trọng Quý tìm đường nghị hòa, song sứ giả của ông ta không thể vượt qua được quân đội Liêu đang án ngữ để đến chỗ Liêu Thái Tông. Ông ta cũng cử các tướng ra tiền tuyến để đối phó với quân Liêu, chỉ huy là Cảnh Diên Quảng, bản thân Trọng Quý cũng quyết định thân chinh. Cánh quân thứ hai của Khiết Đan, do Gia Luật An Đoan chỉ huy thẳng tiến đến Hà Đông, tuy nhiên bị quân của Tiết độ sứ Hà Đông Lưu Tri Viễn đẩy lùi. Tướng giữ Bác Châu của Hậu Tấn là Chu Nho bí mật liên lạc với Dương Quang Viễn, dâng Bối Châu hàng Khiết Đan, và khuyến khích quân Khiết Đan mau chóng vượt sông Hoàng Hà theo đường Mã Gia Khẩu (thuộc Liêu Thành), để hội quân với Quang Viễn.

Cảnh Diên Quảng bị Tiết độ lưu hậu của Thiên Bình Nhan Khản thuyết phục rằng nếu quân Khiết Đan vượt sông, sẽ là đại họa,

Mùa đông năm 944, Liêu Thái Tông một lần nữa dẫn binh nam họ, lấy Triệu Diên Thọ làm tiên phong. Thạch Trọng Quý có ý thân chinh, nhưng bỗng nhiên ngã bệnh. Ông ta cử các tướng quân chặn đánh quân Khiết Đan, tuy nhiên vì họ lo sợ lực lượng hùng hậu và thiện chiến của Khiết Đan, nên lại lui về giữ Nghiệp Đô, để cho quân Khiết Đan có cơ hội thẳng tiến đến Nghiệp Đô mà không gặp trở ngại gì. Tuy nhiên, sau khi cướp bóc một hồi, quân Khiết Đan rút đi vào mùa xuân năm 945. Sau cuộc tấn công đó, Tấn Xuất Đế sai Đỗ Uy (tức Đỗ Trọng Uy, vì kiêng húy Thạch Trọng Quý nên đổi tên) và Lý Thiệu Chân dẫn quân theo truy kích. Họ tiến vào lãnh thổ của Khiết Đan, chiếm đất hai châu Kỳ, Thái (nay đều thuộc Bảo Định), nhưng sau đó được tin quân Khiết Đan đã quay trở lại và sẵn sàng đối đầu với họ. Họ tìm cách thối lui, nhưng cuối cùng bị vây ở Dương Thành. Đỗ Uy hoảng sợ và giao chiến với quân Khiết Đan một cách miễn cưỡng, nhưng các tướng khác như Dược Nguyên Phúc và Hoàng Phủ Ngộ chống trả quyết liệt và đánh bại quân Khiết Đan. Quân Khiết Đan hoảng sợ bỏ chạy; mãi sau Liêu Thái Tông mới có thể tập hợp tàn quân ở U Châu, ông bỏ tù các tướng tham gia chiến dịch đó, chỉ có Triệu Diên Thọ là không bị phạt. Tuy nhiên, có một số hiện tượng bất thường về khí tượng những năm 945 đến năm 948 có thể liên quan đến Vụ phun trào thiên niên kỷ này. Sự kiện được cho là đã gây ra mùa đông núi lửa. Theo Cựu Ngũ Đại sử, ngày 4 tháng 4 năm 945 có tuyết rơi dày đặc ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Liêu Thái Tông) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế).

Vào thời điểm đó, quân Khiết Đan không ngừng gây chiến ở vùng biên giới với Hậu Tấn và quân Hậu Tấn phải chống đỡ rất vất vả, vùng bờ bắc Hoàng Hà khói bếp tiêu điều lạnh lẽo. Về phía Khiết Đan cũng chịu nhiều tổn thất về người và súc vật trong chiến dịch, và người Khiết Đan đã tỏ ra chán ngán. Thuật Luật thái hậu tìm cách khuyên giải Liêu Thái Tông nên nghị hòa với Hậu Tấn. Trong khi đó, Tang Duy Hàn, lúc này đã thay thế Cảnh Diên Quảng, cũng khuyên Hậu Tấn Xuất Đế nên nghị hòa. Mùa hạ năm 945, Hậu Tấn Xuất Đế phái Trương Huy đến Khiết Đan tạ lỗi. Liêu Thái Tông đáp rằng: Đưa Tang Duy Hàn và Cảnh Diên Quảng tới yết kiến bọn ta, cắt hai vùng Trấn (tức Thành Đức, vì thủ phủ của Thành Đức là Trấn Châu, lúc này Thành Đức đổi tên là Thuận Quốc), Định (tức Nghĩa Vũ, vì Định Châu là thủ phủ của Nghĩa Vũ) cho ta, thì có thể nghị hòa. Tấn Xuất Đế cảm thấy đây là một sự sỉ nhục, và lại tuyệt giao với Khiết Đan.

Tiêu diệt Hậu Tấn

Năm 946, có tin đồn rằng Triệu Diên Thọ đang tính kế đào tẩu sau Hậu Tấn. Các tể tướng của Hậu Tấn là Lý Tung và Phùng Ngọc sai Đỗ Uy viết thư thuyết phục Triệu Diên Thọ quy phục nam triều, và cử Triệu Hành Thực, người trước kia từng phục vụ dưới trướng Triệu Diên Thọ, làm người đưa thư. Triệu Diên Thọ, nghĩ ra kế dụ người Tấn vào một cái bẫy, viết thư đáp lại, Tôi bôn ba nơi xứ khác đã nhiều năm, cũng muốn trở về Trung Quốc. Mong các vị đưa quân đến hỗ trợ, tôi sẽ theo về. Sau đó, theo lệnh của Liêu Thái Tông, tướng giữ Doanh Châu của Liêu là Lưu Diên Tộ đem đất đai trong châu hàng Tấn.

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 28 tháng 11 năm 946 có hiện tượng băng men (xảy ra khi mưa đóng băng hoặc mưa phùn chạm vào bề mặt) ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Liêu Thái Tông) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế).

Tháng 12 năm 946, Thạch Trọng Quý sai Đỗ Uy và Lý Thiệu Chân dẫn quân bắc phạt, nêu khẩu hiệu thu phục lại các châu quận trước kia đã dâng cho Khiết Đan, thậm chí là diệt Khiết Đan.

Theo Cựu Ngũ Đại sử, do tác động của vu phun trào núi lửa ở dãy núi Trường Bạch thuộc Định An Quốc (đời vua Liệt Vạn Hoa), ngày 7 tháng 12 năm 946 có hiện tượng sương mù quy mô lớn bao phủ tất cả các loài thực vật ở Đại Khiết Đan quốc (đời vua Liêu Thái Tông) và Hậu Tấn (đời vua Hậu Tấn Xuất Đế).

Tuy nhiên giữ lúc quân Tấn đang hừng hực khí thế bắc phạt thì gặp phải đội quân Khiết Đan do đích thân Liêu Thái Tông chỉ huy. Quân Khiết Đan bao vây quân Hậu Tấn tại cầu Trung Độ. Liêu Thái Tông hứa hẹn sẽ phong cho Đỗ Uy làm hoàng đế nếu ông ta đầu hàng, thế là hai tướng bên Tấn đầu hàng. Liêu Thái Tông sai Triệu Diên Thọ úy lạp quân Tấn và nói với ông ta rằng quân Tấn bây giờ là của ông ta, và sau đó chuẩn bị nam xâm. Hầu như toàn bộ lực lượng Tấn đã đi theo Đỗ Uy và Lý Thiệu Chân trong chiến dịch này, vì thế sau khi hai tướng đầu hàng, cả Trung Nguyên như trống không. Kinh thành Đại Lương của Tấn không còn khả năng tự vệ, Tấn Xuất Đế buộc phải đầu hàng, kết thúc triều Hậu Tấn. Liêu Thái Tông ca khải hoàn vào Đại Lương vào ngày 10 tháng 1 năm 947.

Tuy nhiên, trong khi đang ngất ngây trong chiến thắng, Liêu Thái Tông dần xa lánh với người dân ở vùng đất mà ông mới chinh phạt được. Triệu Diên Thọ dâng biểu xin thu thuế để có quân lương cho quân sĩ viễn chinh, Liêu Thái Tông đáp rằng, "Ở nước ta không có chế độ đó". Rồi ông cho quân Khiết Đan cướp phá các làng mạc, gọi đó là "đả thảo cốc". Điều này dẫn đến việc người Hán bị giết với số lượng lớn, từ già đến trẻ phải dắt díu nhau trốn trong hầm mong thoát nạn. Chẳng được bao lâu, những vùng đất nổi tiếng nhộn nhịp trù phú bao gồm Đại Lương và Lạc Dương, cùng với các châu Trịnh, Hứa, Tào, và Bộc đều trở nên điêu tàn. Ông cũng ra lệnh buộc dân cư ở các châu quân nơi mà quân Khiết Đan đi qua phải ra khỏi thành gọi là để nghênh đón quân Khiết Đan, nhưng thực chất là bắt dân về phương bắc. Điều này dẫn đến sự oán giận của người Hán ngày càng tăng, họ quyết tâm đánh đuổi quân Khiết Đan. triều Liêu chính thức thành lập. Mặc dù Liêu Thái Tông có ý muốn trường kỳ mưu hoạch phát triển Trung Nguyên, song vì binh sĩ Khiết Đan cướp đoạt tài vật của nhân dân, không để cho các tiết độ sứ trở về nơi trấn thủ, khiến dân Trung Nguyên phản kháng.

Một trong số các tiết độ sứ của triều Tấn, mặc dù đã quy phục triều Liêu, nhưng không đến Đại Lương yết kiến Liêu Thái Tông, chính là Tiết độ sứ Hà Đông Lưu Tri Viễn. Ông ta tìm cớ để ở lại Thái Nguyên nhưng chưa ra mặt chống đối người Liêu. Liêu Thái Tông cố gắng buộc ông ta thần phục bằng cách sai sứ đến chỗ Thái Nguyên và ban cho ông ta một cây roi (thứ này Liêu Thái Tông trước kia chỉ ban cho một người là chú của ông, Gia Luật An Đoan) và sai nhắn với ông ta là, "Người không phụng sự cho Nam triều (tức Hậu Tấn, vì khi Liêu nam hạ, Lưu Tri Viễn đã không có hành động gì để cứu triều đình), mà nay cũng không thần phục Bắc triều. Ngươi đang có ý gì?" Trong khi đó, Cao Tùng Hối, người cai trị trên thực tế của Kinh Nam, dâng biểu thần phục Liêu Thái Tông, và dâng cống phẩm. Liêu Thái Tông cũng gửi ngựa để đáp lại, nhưng mặt khác Tùng Hối cùng gửi thư cho Tri Viễn, khuyến tiến. Hoàng đế Nam Đường là Lý Cảnh cũng sai sứ đến chỗ Liêu Thái Tông chúc mừng, và xin được cử người đến trông nom tu sửa lăng tẩm triều Đường (vì Lý Cảnh tự xưng là con cháu và người thừa kế hợp pháp của Nhà Đường). Liêu Thái Tông không theo, nhưng cũng cử sứ đến đáp tạ hoàng đế Nam Đường.), quân lính giết chết tiết độ phó sứ Lưu Nguyện, ủng hộ người của họ là Triệu Huy lên thay và tuyên bố kháng Liêu. Không lâu sau, Lưu Tri Viễn xưng đế ở Hà Đông, ban đầu chưa đặt quốc hiệu, sau mới đặt là Hán. Nghe được tin đó, nhiều tiết độ sứ có tư tưởng kháng Liêu đã tuyên bố thần phục Lưu Tri Viễn. Các cuộc nổi dậy càng ngày càng quyết liệt, Liêu Thái Tông phải than rằng, Quả nhân không biết là người Trung Quốc khó trị đến vậy. Ông cử một vài tiết độ sứ trở về trấn của họ cùng với quân Liêu hộ tống phía sau, nhưng không thể dập tắt được các cuộc nổi dậy.), bệnh tình trở nặng. Ông vẫn hành quân trong tình trạng sốt cao, ông đắp nước đá lên ngựa, bụng và tay chân, miệng lại nhai nước đá, để hi vọng hạ sốt. Bởi vậy không lâu sau đó, ông qua đời vào ngày 18 tháng 5 năm 947.

Các tướng lĩnh Khiết Đan mổ bụng của ông và cho muối vào để có thể di chuyển di hài ông về miền bắc. Người Hán do đó mỉa mai gọi ông là "hoàng đế khô". Các tù trưởng Khiết Đan tôn cháu của ông (gọi ông bằng chú), con trai của anh trai ông Gia Luật Bội là Gia Luật Nguyễn làm vua mới, tức Liêu Thế Tông.

Gia quyến

  • Cha Liêu Thái Tổ
  • Mẹ: Hoàng hậu Thuật Luật Bình, tức Ứng Thiên thái hậu
  • Vợ: Hoàng hậu Thuật Luật Ôn, mẹ của Gia Luật Cảnh và Gia Luật Yểm Tát Cát
  • Thiếp: Tiêu thị, mẹ của Gia Luật Thiên Đức, Gia Luật Địch Liệt và Gia Luật Tất Nhiếp
  • Các con: Gia Luật Cảnh, phong Thọ An vương năm 929, sau là Liêu Mục Tông Gia Luật Yểm Tát Cát (耶律罨撤葛), phong Thái Bình vương năm 928, cải phong Tề vương năm 969, mất năm 972, Liêu Cảnh Tông truy phong là Hoàng thái thúc Gia Luật Thiên Đức (xử tử năm 948) Gia Luật Địch Liệt, phong Kỳ vương năm 969, tử trận năm 979 Gia Luật Tất Nhiếp, tấn phong Việt vương năm 969 Gia Luật Lã Bất Cổ, phong Yên quốc Đại trưởng công chúa, kết hôn với Tiêu Tư Ôn.Công chúa là mẹ của Tiêu Yến Yến-Hoàng hậu của Liêu Cảnh Tông,Tiêu thị trở thành thái hậu nhiếp chính thời con trai Liêu Thánh Tông. ** Gia Luật Trào Côi, kết hôn với Tiêu Hải Lý
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Liêu Thái Tông** (25 tháng 11, 902 – 18 tháng 5, 947), tên thật là **Nghiêu Cốt**, tên tiếng Hán **Gia Luật Đức Quang** (耶律德光), tên tự **Đức Cẩn**, là vị hoàng đế thứ hai
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Liêu Thế Tông** (chữ Hán: 遼世宗; 25 tháng 12, 918-4 tháng 9, 951 (Âm lịch), 29 tháng 1, 919-7 tháng 10, 951), tên thật là **Gia Luật Nguyễn**, tự **Ngột Dục**, là vị hoàng đế
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Liêu Thái Tổ** () (872-926), tên là **Gia Luật A Bảo Cơ** (**_Yelü Abaoji_**, 耶律阿保機), phiên âm tiếng Mongol: _Ambagyan_, Hán danh là **Gia Luật Ức** (耶律亿), nhũ danh **Xuyết Lý Chích** (啜里只), là vị
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Liêu Hưng Tông** (chữ Hán: 遼興宗; bính âm: Liao Xīngzōng; 3 tháng 4 năm 1016 - 28 tháng 8 năm 1055), là vị hoàng đế thuộc dòng họ **Gia Luật** (耶律氏) thứ bảy của nhà
**Liêu Cảnh Tông** (chữ Hán: 辽景宗; bính âm: Liao Jǐngzōng; 1 tháng 9 năm 948 - 13 tháng 10 năm 982), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Liêu, cai trị từ năm 969
**Liêu Đạo Tông** (chữ Hán: 遼道宗; 1032-1101), là vị hoàng đế thứ tám của nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ tháng 8 âm lịch năm 1055 tới ngày 12 tháng
**Liêu Mục Tông** (chữ Hán: 遼穆宗; 19 tháng 9 năm 931 - 12 tháng 3 năm 969), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Liêu, cai trị từ năm 951 đến năm 969. Ông
**Minh Đức Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 明德李皇后; 960 - 1004), là vợ thứ 3, đồng thời là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa. ## Tiểu sử Minh
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Da Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律刘哥, ? – ?), tự **Minh Ẩn**, tông thất, tướng lãnh nhà Liêu. ## Xuất thân Lưu Ca là con trưởng của Da Luật Dần Để Thạch – em
**Kim Thái Tông** (chữ Hán: 金太宗; 1075 - 9 tháng 2, 1135), là vị hoàng đế thứ hai của nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1123 đến năm 1135. Ông
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
. Review dầu gội Thái Dương 3 có tốt không?Lấy tông màu xanh lá cây và màu đỏ làm tông màu chủ đạo tạo cảm giác đồng quê gió nội và hơi thở của thiên
**Thanh Thái Tông Nguyên phi** (chữ Hán: 清太宗元妃, ? - ?) là nguyên phối Phúc tấn của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Liêu Ninh** (, ) là một tỉnh nằm ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Liêu Ninh là tỉnh đông thứ mười bốn về số dân, đứng thứ mười bốn về
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
thumb|Những thùng chất thải phóng xạ [[Chất thải cấp thấp|cấp thấp của TINT]] **Chất thải phóng xạ** là chất thải chứa vật liệu phóng xạ. Chất thải phóng xạ thường là sản phẩm phụ của
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Lò đốt rác thải sinh hoạt** (tiếng Anh: Incinerator) là một thiết bị hữu hiệu trong công tác xử lý rác thải giữ gìn môi trường xanh, phát triển bền vững. **Đốt rác** (tiếng Anh:
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Liêu sử** là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), tổng cộng có 116 quyển kể lại các sự kiện lịch sử từ khi ra
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Liêu Thiên Tộ** (chữ Hán: 遼天祚; bính âm: Liao Tiānzuòdì) (1075 – 1128), là vị hoàng đế thứ chín và cuối cùng của nhà Liêu, cai trị từ năm 1101 đến năm 1125. Tên thật
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Thái Bình** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Bình cũ, Việt Nam. Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Triều Tiên Thái Tổ** (chữ Hán: 朝鮮太祖; Hangul: 조선 태조; 4 tháng 11 năm 1335 – 27 tháng 6 năm 1408), tên khai sinh là **Lý Thành Quế (Yi Seong-gye)** là người sáng lập ra
nhỏ|phải|Hệ khuôn đúc tường (vách) bê tông cốt thép. nhỏ|400 px|phải|Đoạn phim mô tả việc thi công xây dựng nhà nhiều tầng sử dụng hệ khuôn đúc bê tông bằng nhôm định hình. **Khuôn đúc