✨Trần Thánh Tông
Trần Thánh Tông (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy Trần Hoảng (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị vì từ ngày 30 tháng 3 năm 1258 đến ngày 8 tháng 11 năm 1278. Sau đó ông làm Thái thượng hoàng từ cuối năm 1278 cho đến khi qua đời năm 1290. Ông thường được sử sách mô tả là một Hoàng đế tài giỏi, giữ vững được cơ nghiệp của triều đại và nền độc lập của quốc gia.
Trần Hoảng là đích trưởng tử của Trần Thái Tông, đã góp phần chỉ huy quân đội đẩy lùi cuộc xâm lược của người Mông Cổ năm 1258. Không lâu sau kháng chiến thắng lợi, Hoàng đế Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng, tức Hoàng đế Thánh Tông. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Trần Thánh Tông đã ban hành nhiều chính sách nhằm hoàn thiện nền hành chính, giáo dục, kinh tế, bảo trợ Phật giáo, trọng dụng quan viên, tướng lĩnh có tài và duy trì sự hòa hợp, kỷ cương trong triều đình. Về đối ngoại, Trần Thánh Tông phải đương đầu với tham vọng bành trướng của đế quốc Nguyên-Mông cường thịnh ở phương Bắc. Ông đã thực thi một chính sách ngoại giao mềm mỏng, cống nạp Nhà Nguyên 3 năm 1 lần, nhưng cự tuyệt mọi yêu sách của vua Nguyên đòi ông cống người, cống voi, đích thân sang chầu, gửi quân giúp tỉnh Vân Nam, nộp sổ sách dân số... Ngoài ra ông tích cực chỉnh đốn quân đội, tổ chức tuần tra biên giới để đề phòng sự xâm lược của người Nguyên. Ông có nhiều em trai, nổi bật nhất là Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải (Tể tướng đầu triều qua 3 đời vua Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông), Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật (một tướng lĩnh, nhà ngoại giao lớn, làm Tể tướng thời Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông) và Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (một người học rộng, nhưng sau phản lại Thánh Tông trong chiến tranh với Nguyên-Mông).
Năm 1258, Hoàng thái tử Trần Hoảng tham gia cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Thoạt tiên quân Mông Cổ chiếm được kinh sư, nhà vua, thái tử cùng hoàng gia được Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung giúp đỡ đã sơ tán an toàn về sông Thiên Mạc (nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Quân Mông Cổ ở Thăng Long gặp nhiều khó khăn do thiếu lương thực trầm trọng. Mông Cổ phải chia quân đi cướp bóc ở vùng ngoại vi và phụ cận, nhưng bị dân chúng chặn đánh quyết liệt. Trong khi đó quân đội Đại Việt đã hồi sức. Ngày 28 tháng 1, vua Thái Tông và Thái tử Hoảng ngự lâu thuyền chỉ huy cuộc phản kích vào Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ, lấy lại Thăng Long. Quân Mông Cổ chạy dài về Vân Nam, dọc đường còn bị thổ quan Hà Bổng chặn đánh. Cuộc kháng chiến kết thúc, vua Thái Tông định công phong thưởng các tướng, Thái tử Hoảng xin trị tội Tiểu hiệu Hoàng Cự Đà, người có biểu hiện bất trung trong cuộc rút lui về sông Thiên Mạc, nhưng nhà vua tha chết, chỉ giáng chức.
Trị vì
Ngày 24 tháng Hai niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (tức ngày 30 tháng 3 năm 1258 dương lịch), Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Hoảng rồi lui về Bắc cung làm Thái thượng hoàng, tạo cơ hội cho Trần Hoàng làm quen chính sự, đồng thời tránh xung đột tranh ngôi giữa các hoàng tử. Sử quan Nhà Lê Ngô Sĩ Liên nhận xét:
Thái tử lên ngôi Hoàng đế, xưng làm Nhân Hoàng (仁皇) và được bầy tôi tặng tôn hiệu Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu Hoàng Đế (憲天體道大明光孝皇帝). Sử sách gọi ông là Trần Thánh Tông (陳聖宗). Tháng 8 âm lịch năm 1258, Hoàng đế lập con gái thứ năm của cố An Sinh vương Trần Liễu (anh Trần Thái Tông) làm Thiên Cảm Phu nhân, ít lâu sau phong bà làm Thiên Cảm Hoàng hậu.
Trong 21 năm trị quốc, Trần Thánh Tông dùng niên hiệu Thiệu Long (紹隆) từ năm 1258 đến 1273 và Bảo Phù (寶符) từ năm 1273 đến 1278. Ông đã ban hành nhiều chính sách về hành chính, kinh tế, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao nhằm củng cố thực lực của Đại Việt. Ông còn nổi tiếng là một Hoàng đế đức độ, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài.
Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi vua Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua quan nhà Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi đáp lễ vua Trần mà còn biếu tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc. Sau này, khi Nam Tống bị Nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, họ mới ngừng giao hảo với Đại Việt. Khi nhà Tống mất, nhiều quan lại, binh sĩ, đạo sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trong số họ có những người như Trần Trọng Vy, Tăng Uyên Tử, Triệu Trung... đã được vua Thánh Tông và các thân vương đối đãi trọng hậu. Sử sách còn ghi, tháng 10 âm lịch năm 1274, nhiều thương gia người Tống từ Giang Nam vượt biển sang Đại Việt và đem theo gia quyến lẫn nhiều của cải. Vua Thánh Tông cho họ lập nghiệp ở phường Nhai Tuân (Thăng Long); tại đây họ đã mở chợ bán các mặt hàng như vải lụa và thuốc men.
Ở phía nam, quan hệ Đại Việt – Chiêm Thành cũng diễn biến tích cực dưới thời vua Trần Thánh Tông. Khi Nhà Trần mới thành lập, Chiêm Thành từng đưa quân sang quấy nhiễu biên giới, nhưng sau khi bị Trần Thái Tông đánh bại năm 1252, họ đã chính thức thần phục Đại Việt. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận trong những năm Thánh Tông làm vua, Chiêm Thành đã 6 lần cử sứ sang dâng cống vật (1262, 1265, 1266, 1267, 1269, 1270). Khi Trần Thánh Tông đã nhường ngôi cho Trần Nhân Tông và lên làm Thái thượng hoàng vào năm 1278, xu hướng quan hệ tốt đẹp này được duy trì sau đó.
Năm 1261, Trần Thánh Tông được vua Mông Cổ phong làm An Nam Quốc vương. Đến năm 1262, Mông Cổ yêu cầu ông phải cống nạp 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu... Trong suốt thời gian trị vì của mình, Trần Thánh Tông duy trì đều đặn việc cống sản vật nhưng chỉ để lấy lệ. Vì thế năm 1275, Hốt Tất Liệt có gửi chiếu thư trách vua Trần rằng các đồ cống đều không dùng được và không bao giờ chịu cống người. Khi thủ lĩnh người dân tộc Trịnh Giác Mật nổi dậy ở Đà Giang vào đầu năm 1280, hai vua ra lệnh cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đi thuyết phục quân nổi dậy quy hàng. Nhật Duật nhờ giỏi ngoại giao và am hiểu phong tục dân bản địa nên đã thu phục được Giác Mật mà "không tốn một mũi tên"..
Từ năm 1278 đến 1281, Nhà Nguyên đã ba lần sai Lễ bộ thượng thư Sài Thung dụ Trần Nhân Tông đến chầu, nhưng vua Trần cự tuyệt Đến ngày 14 tháng 1, Ô Mã Nhi bao vây 10 vạn quân của hai vua Trần tại Bình Than. Một trận thủy chiến lớn diễn ra và quân Nguyên đã không cản được quân Đại Việt triệt thoái. Hai vua và Hưng Đạo vương rút đại quân từ Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về đóng trên sông Hồng gần Thăng Long. Tại đây, hai vua cho tập trung thủy quân và xây dựng chiến lũy trên bờ nam để cầm chân quân Nguyên, tạo thời giờ cho việc sơ tán quân dân khỏi kinh thành theo kế vườn không nhà trống.
Tại Thanh Hóa, hai vua Trần đã cho chỉnh đốn, tổ chức lại lực lượng. Tháng 3 – 4 âm lịch năm 1285, hai vua và Trần Quốc Tuấn chia đại quân thành nhiều mũi tổng phản công ra Bắc. Cuối tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan quyết định lui quân khỏi Đại Việt; Ô Mã Nhi được lệnh dẫn một cánh quân thủy rút về trước. Ngày 9 tháng 4, cánh quân này tiến đến sông Bạch Đằng và lọt vào trận địa mai phục của đại quân Đại Việt. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Thánh Tông, Nhân Tông và Hưng Đạo vương, quân Đại Việt đã tiêu diệt toàn bộ cánh quân thủy của địch. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt các tướng Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ nộp cho Thánh Tông. Đại Việt Sử ký Toàn thư mô tả Thượng hoàng đã sai người đưa hai tướng Nguyên lên thuyền ngự, rồi "cùng ngồi nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ".
Một ngày trước trận Bạch Đằng, đại quân Nguyên của Thoát Hoan bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên biên giới. Hữu thừa Nguyên là Trình Bằng Phi chọn những binh sĩ thiện chiến yểm hộ cho Thoát Hoan chạy về nước. Quân Nguyên về tới ải Nội Bàng (thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) thì bị quân Đại Việt phục kích dữ dội, vạn hộ Nguyên là Trương Quân phải đem 3000 quân liều chết chiến đấu mới thoát khỏi cửa ải. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan lại nhận tin trinh sát rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng đi qua Đơn Kỷ (khoảng huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn ngày nay) về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Quân Đại Việt từ trên cao bắn tên độc, giết các tướng Trương Ngọc và Abaci. Theo Nguyên sử, quân Nguyên lúc đó đã "thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc" nhưng vẫn phải "cố xông vào mà đánh" và "buộc vết thương lại mà đánh". Đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn khỏi Đại Việt. Một trong những thiền sư được Thượng hoàng kính trọng là Tuệ Trung Thượng Sĩ, tức Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung – anh Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông biên soạn đã kể Thượng hoàng gọi Tuệ Trung Thượng Sĩ là "đạo huynh" và thuật lại một cuộc đàm đạo giữa hai người. Khi hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm qua đời năm 1287, Thượng hoàng làm lễ cầu siêu, thỉnh nhiều vị danh tăng vào cung cấm để vấn đáp giáo lý. Nhân dịp này, Thượng Sĩ viết một bài kệ ngắn, ý nói kiến giải Phật Học của các nhà sư này chỉ là kiến thức cục bộ, không có lợi ích cho sự giác ngộ bản chất của thực tại. Trần Thánh Tông cũng làm kệ đáp lại, đại khái là người sáng suốt tự tại vẫn có thể sử dụng các kiến giải, họ chỉ không dính mắc vào kiến giải mà thôi. Theo Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ "rất khâm phục bài kệ ấy". Theo đánh giá trong cuốn Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thơ của Trần Thánh Tông "giàu chất trữ tình, kết hợp nhuần nhị giữa tinh thần tự hào về đất nước, về dân tộc của người chiến thắng, với tình yêu cuộc sống yên vui, thanh bình và phong độ ung dung, phóng khoáng của một người biết tự tin, lạc quan."
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1289, Trần Thánh Tông sáng tác bài thơ Dạo chơi hành cung Thiên Trường (Hạnh hành cung Thiên Trường), nói lên cảm hứng sau hai lần đánh bại quân Nguyên (1285 và 1287-1288). Trong sách Nam Ông mộng lục (in lần đầu tiên tại Trung Quốc năm 1442), viên quan Nhà Minh gốc Việt là Hồ Nguyên Trừng đánh giá bài thơ có cấu tứ thanh cao và điệp tự âm vang. Sách Thơ văn Lý Trần cũng ghi lại một bài của ông tên Chân tâm chi dụng (真心之用) mang màu sắc Phật giáo Thiền tông.
Cung phi Vũ Ngọc Lan.
Cung phi Trần Thị Khương.
- Hậu duệ: Hoàng thái tử Trần Khâm tức Trần Nhân Tông, mẹ là Thiên Cảm hoàng hậu. Năm 1302, ông được cháu là Trần Anh Tông phong làm Thống chính Thái sư, cùng làm Tể tướng với Nhập nội bình chương Trần Quốc Chẩn và Thái úy Quốc công Trần Nhật Duật. Ông mất ngày 1 tháng 1 âm lịch năm 1306 ở tuổi 42. Thiên Thụy Công chúa (天瑞公主 ? – 16 tháng 12 năm 1308) là con đầu lòng, chị gái Trần Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch, 1308). Lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Có thuyết cho rằng công chúa là con của bà phi Ngọc Lan Trong bộ Việt sử tiêu án (1775) do sĩ phu Ngô Thì Sĩ (đời Lê-Trịnh) soạn thảo cũng ghi lại một số đánh giá của sử thần. Họ đánh giá ông là vị vua hòa thuận với quan thần lẫn anh em, học cao, thuận theo ý trời, bất khuất trước giặc ngoại xâm và người hùng.
Vấn đề tên gọi
Tương tự như vua cha Trần Thái Tông, vấn đề tên gọi của Trần Thánh Tông có nhiều tranh cãi, nhất là khi dựa theo thư tịch Trung Hoa.
-
Trần Uy Hoảng (陳威晃): Trong An Nam truyện của Tống sử có chép về việc vua Tống cho phép Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng (vua Thánh Tông): "Năm thứ 3 (Trần Nhật Cảnh) dâng biểu xin thế tập, vua xuống chiếu, trao Nhật Cảnh làm Kiểm hiệu Thái sư An Nam quốc Đại vương, thêm thực ấp, trao con trai là Uy Hoảng làm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ, Quan sát xử trí sứ, Kiểm hiệu Thái úy kiêm Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc, An Nam quốc vương, Hiệu trung thuận hóa công thần" (trích dẫn trong sách Trần Thái Tông toàn tập - 2004).
-
Trần Quang Bính (陳光昺): Một số sử gia hiện đại có bất đồng về việc xác định tên gọi vua Trần trong các sách sử thời Nguyên, Minh, mà cụ thể là Nguyên sử, An Nam chí lược và Kinh thế đại điển tự lục. Sử gia Nhật Bản Yamamoto Tatsuro trong bộ An Nam sử nghiên cứu (1950) kiến giải Quang Bính là một tên gọi khác của vua Trần Thái Tông (ngoài tên Nhật Cảnh); song sử gia Lê Mạnh Thát, tác giả cuốn Trần Thái Tông toàn tập (2004) không đồng tình: theo Lê Mạnh Thát, Quang Bính là tên của Thánh Tông trong các văn thư ngoại giao với Mông Cổ. Xem chi tiết ở mục Chú giải của bài Trần Thái Tông để biết thêm về các lý lẽ của hai sử gia này.
-
Trần Nhật Huyên (陳日烜): Theo thuyết của Yamamoto, Trần Nhật Cảnh và Trần Quang Bính là hai tên vua Trần Thái Tông sử dụng trong văn thư ngoại giao, còn tên vua Trần Thánh Tông trong văn kiện ngoại giao là Trần Nhật Huyên. Ngoài ra, Lê Mạnh Thát còn viện dẫn một đoạn trích từ mục Chinh phạt, sách Kinh thế đại điển tự lục thời Nguyên (do Ngu Tập, Triệu Thế Diên trước tác năm 1330-1331) nói về cuộc chiến Nguyên-Việt (1285) rằng "Đường Ngột Đãi đuổi Nhật Huyên và Thượng hoàng đến cửa biển An bang" để khẳng định Nhật Huyên là Trần Nhân Tông. Lê Mạnh Thát cũng khẳng định hành trạng của Trần Nhật Huyên trong Nguyên sử là tương đồng với ghi chép của các bộ sử Việt về Trần Nhân Tông., Trần Thái Tông có tên là Trần Nhật Cảnh (陳日煚), con (Trần Thánh Tông) là Trần Quang Cảo (陳光暠). Trần Quang Cảo (陳光暠) được nhà Nguyên phong là An Nam quốc vương. Năm 1277, thực tế Trần Thái Tông qua đời nhưng Tân Nguyên sử (và nhà Nguyên) lầm là Quang Cảo (光暠) mất, thế tử là Nhật Huyên (日烜) xin phong. Về Nhật Huyên: Trần Di Ái (陳遗爱) là chú họ Nhật Huyên, Hưng Đạo vương Trần Tuấn (陈峻) là anh họ Nhật Huyên. Như vậy Nhật Huyên là Trần Thánh Tông. Đoạn sau lại nói: năm 1285, Nhật Huyên tự xưng Đại Việt quốc chủ Hiến Thiên Thể Đạo Đại Minh Quang Hiếu Hoàng Đế 大越国主宪天体道大明光孝皇帝 và nhường ngôi cho con. Người con xưng là Thiệu Bảo (niên hiệu của Trần Nhân Tông). Các em của Nhật Huyên là Văn Chiêu vương Trần Dật Hầu (陈遹侯 Trần Nhật Duật) và Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (陈益稷). Hưng Ninh vương Trần Tung (陈嵩) là anh họ Nhật Huyên.