✨Trận thành Đông Quan

Trận thành Đông Quan

Trận bao vây thành Đông Quan, diễn ra cuối năm 1426 đến cuối năm 1427, đánh dấu giai đoạn quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Lê Lợi tiến hành chiến dịch quân sự quy mô lớn nhằm đánh bại hoàn toàn quân Minh.

Sau thất bại tại Tốt Động – Chúc Động vào tháng 11 năm 1426, Vương Thông buộc phải rút chạy về cố thủ trong thành Đông Quan. Lợi dụng thời cơ này, Lê Lợi từ Thanh Hóa ra Bắc, trực tiếp chỉ huy chiến dịch vây hãm Đông Quan. Nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Lê Lợi nhanh chóng triển khai lực lượng vây hãm thành từ mọi phía, đồng thời tiêu diệt các cứ điểm quân Minh ở ngoại vi và vùng nông thôn lân cận. Sau khi mất quyền kiểm soát các vùng lân cận, quân Minh bị cô lập hoàn toàn trong thành. Mặc dù Vương Thông cố gắng cầu viện từ triều đình nhà Minh, nhưng liên lạc với bên ngoài bị cắt đứt, các trọng trấn khác như Tây Đô, Diễn Châu cũng đang bị bao vây nghiêm ngặt, không thể rút về Đông Quan hỗ trợ.

Về phía nghĩa quân, dù chiếm ưu thế rõ rệt, Lê Lợi nhận thấy thành Đông Quan quá kiên cố để có thể công phá ngay lập tức. Ông vừa duy trì vòng vây chặt chẽ, vừa sử dụng sách lược địch vận để làm suy yếu quân Minh. Dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nhiều lần gửi thư chiêu hàng, yêu cầu Vương Thông đàm phán và giao trả thành trì, rút quân về nước. Tuy nhiên, thực tế Vương Thông không có ý định rút lui ngay lập tức mà chỉ lợi dụng các cuộc đàm phán để kéo dài thời gian, chờ viện binh từ Trung Quốc đến giải vây. Chỉ sau khi quân Minh do Liễu Thăng chỉ huy thảm bại tại ải Chi Lăng và toàn bộ kế hoạch cứu viện bị phá sản, Vương Thông mới buộc phải chấp nhận điều kiện của nghĩa quân Lam Sơn, rút toàn bộ quân khỏi Đại Việt.

Bối cảnh

Sau thất bại nặng nề tại Tốt Động – Chúc Động, Vương Thông buộc phải rút chạy về cố thủ trong thành Đông Quan. Chiến thắng trước quân chủ lực nhà Minh ở Tốt Động cũng giúp nghĩa quân Lam Sơn giành được lòng tin và sự ủng hộ từ người dân vùng đồng bằng sông Hồng vốn chịu nhiều áp bức từ giới cầm quyền phương Bắc. Người dân tự nguyện cung cấp lương thực, nhân lực, đồng thời vùng kiểm soát của nghĩa quân được mở rộng, cô lập các thành trì quân Minh. Trên đà thắng lợi, Đinh Lễ và Lý Triện lập tức đưa quân bản bộ truy kích đến sát thành. Ngày 21 tháng 11 năm 1426, Lê Lợi từ Thanh Hóa ra Bắc, chọn Tây Phù Liệt làm đại bản doanh để trực tiếp chỉ huy chiến dịch vây hãm Đông Quan.

Chiến dịch Đông Quan

Ngày 22 tháng 11 năm 1426, Lê Lợi lệnh cho ba quân triển khai tấn công Đông Quan từ 4 hướng. Trần Nguyên Hãn và Bùi Bị dẫn thủy quân cùng 100 chiến thuyền theo sông Đáy, qua sông Hát rồi xuôi sông Hồng, tiến thẳng đến bến Đông Bộ Đầu đánh vào phía Đông thành. Ở hướng Tây, Đinh Lễ chỉ huy hơn 1 vạn quân tiến đánh cầu Giấy, tạo thế gọng kìm siết chặt vòng vây. Nửa đêm hôm đó, nghĩa quân Lam Sơn từ bốn hướng đồng loạt tập kích vào các doanh trại ngoại vi của quân Minh. Lực lượng dưới quyền Phương Chính, vốn phụ trách tuần đêm, bị bất ngờ, không kịp phản kháng và nhanh chóng tan rã, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân thu được hơn 100 chiến thuyền và lượng lớn vũ khí của đối phương, đồng thời giải thoát các tù binh bị giam cầm ở ngoài thành. Sau khi mất các doanh trại và vùng nông thôn rộng lớn xung quanh Đông Quan, Vương Thông rơi vào cảnh "trí cùng lực kiệt", chỉ còn cách cố thủ trong thành và trông chờ viện binh sang cứu.

Trong tình cảnh bị vây hãm nghiêm ngặt, quân Minh trong thành Đông Quan phải đối mặt với tình thế "tứ diện Sở ca". Hoàn toàn cô lập với bên ngoài, Vương Thông không thể gửi thư cầu viện triều đình nhà Minh và điều động quân từ các thành khác về tiếp ứng. Những thành trì ở phía Nam như Tây Đô hay Diễn Châu cũng đang bị bao vây chặt chẽ, "chơ vơ như những hòn đảo giữa biển cả". Về phía quân Lam Sơn, sau khi tiêu diệt các cứ điểm quân Minh ở bên ngoài thành Đông Quan, Lê Lợi liền cho dời đại bản doanh từ Tây Phù Liệt đến Đông Phù Liệt để dễ dàng khống chế những hoạt động quân sự của đối phương. Quân Lam Sơn tuy đã giành thế thượng phong, song lúc bấy giờ vẫn chưa đủ sức công thành Đông Quan vốn rất kiên cố. Lê Lợi một mặt cho quân tiếp tục vây hãm, một mặt cho Nguyễn Trãi viết thư chiêu hàng Vương Thông.

Đàm phán hòa bình

Trong tình thế bị vây hãm nghiêm ngặt và không còn đường thoát, Vương Thông buộc phải tìm cách đàm phán để cứu vãn tình hình. Vương Thông viện cớ tìm lại Bình An Nam chiếu của Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, ra điều kiện rằng ông sẽ rút quân nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua. Trước yêu sách trên, Lê Lợi lập Trần Cảo – một người được cho là cháu nội của Trần Nghệ Tông – làm vua. Sau khi yêu cầu được đối phương chấp thuận, Vương Thông nhận thấy đây là một cơ hội thuận lợi để chủ động cầu hòa. Việc Lê Lợi đáp ứng điều kiện này không chỉ giúp quân Minh giữ được danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" ban đầu mà còn tạo tiền đề cho Vương Thông mở đường đàm phán, nhằm tìm kiếm một giải pháp rút quân vừa an toàn, vừa giữ thể diện. Ông cử tướng Nguyễn Nhậm sang đại bản doanh của nghĩa quân Lam Sơn tại Đông Phù Liệt để xúc tiến tiến trình nghị hòa. Đây được xem là một bước đi nhằm kéo dài thời gian và tìm kiếm lối thoát trong bối cảnh quân Minh đã "sức cùng lực kiệt" và viện binh từ phương Bắc vẫn chưa rõ có đến hay không.

Các chỉ huy Lam Sơn hiểu rõ rằng quá trình đàm phán hòa bình sẽ kéo dài và phức tạp. Lê Lợi tận dụng thời điểm quân Minh chủ động cầu hòa để triển khai chiến lược dụ hàng, nằm làm suy yếu lực lượng đối phương, đồng thời gây mâu thuẫn nội bộ trong hàng ngũ quân Minh, từ đó làm lung lay hoàn toàn ý chí kháng cự của họ. Nguyễn Trãi, nắm bắt thời cơ, đã soạn thư gửi Vương Thông, yêu cầu ông ra lệnh cho quân Minh ở các thành trì khác giao nộp thành, rút quân về tập trung tại Đông Quan để chuẩn bị cho ngày rút về nước. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng đặt điều kiện Vương Thông phải cử người đưa sứ giả của nghĩa quân sang Bắc Kinh để dâng biểu cầu phong cho Trần Cảo. Theo mệnh lệnh từ cấp trên, ngoại trừ Thanh Hóa, quân Minh đóng tại các thành trì còn lại ở Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa đều lần lượt mở cửa ra hàng quân Lam Sơn.

Chủ ý cầu hòa của Vương Thông gặp phải sự phản ứng dữ dội từ phái chủ chiến, dẫn đầu là Phương Chính, Mã Kỳ – những người từng có nhiều năm phục vụ trên đất Giao Chỉ – và những quan lại người Việt như Trần Phong và Lương Nhữ Hốt. Trong lúc Vương Thông đang lưỡng lự thì Minh Tuyên Tông một lần nữa cử một đạo binh lớn sang Giao Chỉ do Liễu Thăng chỉ huy. Cho rằng tình thế hiện tại đã thay đổi, Vương Thông quyết định từ bỏ chủ trương nghị hòa. Ông cho gia cố thành Đông Quan, phá chuông Quy Điền và vạc Phổ Minh – hai trong số bốn An Nam tứ đại khí – để làm đạn dược và vũ khí nhằm chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.

Chiến sự tiếp diễn

Sau khi được tin quân cứu viện đối phương sắp sang, nhiều tướng lĩnh hối thúc Lê Lợi công thành Đông Quan gấp. Cho rằng "đánh thành là hạ sách", cộng thêm nguy cơ bị đối phương giáp công từ nhiều hướng, Lê Lợi chủ trương thực hiện chiến lược "vây thành diệt viện". Nhận thấy lực lượng Lam Sơn quá mỏng để vừa có thể vây thành, vừa tổ chức đón đánh cả hai cánh quân cứu viện, Lê Lợi quyết định tập trung lực lượng để tiêu diệt từng cánh quân riêng lẻ. Nhằm ngăn chặn mọi khả năng liên lạc giữa các cánh quân cứu viện với các thành trì còn lại của quân Minh, Lê Lợi đã hạ lệnh tấn công tất cả các thành trên dọc tuyến đường từ Trung Quốc tới Đông Quan. Bùi Quốc Hưng được lệnh vây đánh thành Điêu Diêu và Thị Cầu, Lê Sát và Lê Thụ vây đánh thành Khâu Ôn, Trịnh Khả và Đỗ Khuyển vây đánh thành Tam Giang. Ngoài ra, để tăng cường áp lực, Lê Lợi hạ lệnh vây chặt 4 cửa thành Đông Quan. Lê Lợi – bất chấp thỏa thuận trước đó – đón đánh quân Minh từ các thành phía Nam rút về, do lo ngại lực lượng này sẽ bổ sung sức mạnh đáng kể cho quân Minh ở Đông Quan.

Ngày 9 tháng 2 năm 1427, Lê Sát và Lê Thụ phá thành Khâu Ôn. Tin tức tòa thành này thất thủ là một đòn tâm lý khiến sĩ khí quân Minh trấn giữ các thành trên đường đến Đông Quan suy giảm trầm trọng. Nhân cơ hội này, Nguyễn Trãi viết thư dụ hàng tướng trấn thủ thành Điêu Diêu là Trương Lân và Trần Vân vốn đang bị Bùi Quốc Hưng vây đánh. Trước lời lẽ thuyết phục của Nguyễn Trãi, hai người này đã đem quân ra hàng. Cũng trong thời gian này, Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi nhiều lần gửi thư chiêu hàng Vương Thông yêu cầu trả tù binh. Vương Thông bên ngoài tuy chấp thuận yêu sách của Lê Lợi, đồng ý sẽ rút quân chủ lực khỏi Đông Quan, nhưng thực chất là đang cố gắng kéo dài thời gian để chờ viện binh sang.

Ngày 4 tháng 3 năm 1427, nhằm tìm kiếm một chiến thắng để vực dậy tinh thần ba quân, Phương Chính xuất kỳ bất ý đem quân đánh úp doanh trại của Lý Triện ở Quả Động. Bị tấn công bất ngờ, quân Lam Sơn không kịp trở tay, Đỗ Bí bị bắt, Lý Triện tử trận. Tuy nhiên, thắng lợi này là không đủ để củng cố tinh thần quân Minh. Ngay sau sự việc ở bên ngoài thành Đông Quan, quan quân giữ thành Thị Cầu đã buộc phải mở cửa đầu hàng sau một thời gian bị Nguyễn Chích vây đánh rất ngặt. Nhằm cứu vãn tình thế, ngày 16 tháng 3, Vương Thông mở một cuộc tập kích khác ở bãi Sa Đôi nhưng bị đẩy lui. Ngày 2 tháng 4, Nguyễn Trãi thành công dụ hàng Lưu Thanh, tướng giữ thành Tam Giang – tòa thành cuối cùng trên tuyến đường từ Vân Nam sang Đông Quan. Để tránh tình hình trở nên xấu thêm, ngày 4 tháng 4, Vương Thông đích thân chỉ huy một đội quân tinh nhuệ tập kích doanh trại do Lê Nguyễn trấn thủ ở Tây Phù Liệt. Các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí vội vàng mang 500 quân thiết đột tới tiếp viện. Quân Lam Sơn phối hợp đánh từ hai mặt, thành công đẩy lui quân Minh. Tuy nhiên, cả Đinh Lễ lẫn Nguyễn Xí đều bị quân Minh bắt sống khi hai người này đuổi theo truy kích. Đinh Lễ bị xử tử còn Nguyễn Xí may mắn vượt ngục trốn ra ngoài thành công.

Cước chú

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận bao vây thành Đông Quan**, diễn ra cuối năm 1426 đến cuối năm 1427, đánh dấu giai đoạn quyết định trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, khi nghĩa quân dưới sự chỉ huy của
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Trận thành Hà Nội 1873** hay còn gọi là **trận thành Hà Nội lần thứ nhất** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884), diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm 1873.
**Châu Thành** là một huyện cũ nằm ở phía đông nam tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Châu Thành nằm ở phía nam của tỉnh Đồng Tháp, cách chân cầu Mỹ Thuận
**Trận Đồng Quan 756** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận chiến giữa quân đội nhà Đường và quân Đại Yên – tức lực lượng nổi dậy của tướng An Lộc Sơn. Trận
Các sự kiện quân sự ở Mặt trận phía Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các mốc thời gian ghi theo năm - tháng - ngày. ## 1941 * 1941-06-22 Chiến dịch Barbarossa
**Trận thành Hà Nội 1882** hay còn gọi là **trận Hà Nội lần thứ hai** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884) diễn ra ngày 25 tháng 4 năm 1882. Đây là
**Chiếm đóng quân sự bởi Liên Xô** viết về các vụ chiếm đóng bằng vũ lực của Liên Xô từ lúc mở màn cho tới sau thế chiến thứ hai và sau đó trong thời
**Đồng Quán** (chữ Hán: 童貫; 1054-1126) là hoạn quan và tướng quân nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Lũng đoạn triều đình Đồng Quán tên tự là **Đạo Phu** (道夫), người kinh
**Hoạt động quân sự** là tập hợp các hoạt động chiến đấu và nhiệm vụ hỗ trợ chiến đấu của một lực lượng vũ trang, hoặc một tổ chức vũ trang phi quốc gia, để
**Trận cánh đồng Crocus** () (còn gọi là "Trận Volo") là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Thần thánh lần thứ ba, diễn ra giữa quân Phocis, dưới quyền tướng Onomarchos, và quân Liên
nhỏ|Thế giới năm 1945, các lãnh thổ ủy thác LHQ có màu xanh lá cây nhỏ|Thế giới năm 2000, không còn lãnh thổ ủy thác nào **Hội đồng Quản thác Liên Hợp Quốc** (tiếng Anh:
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang** là một loạt trận đánh diễn ra từ ngày 18 tháng 9 năm 1427 đến cuối tháng 10 năm 1427 giữa nghĩa quân Lam Sơn người Việt do
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trận chiến Đông Solomon** (hay còn gọi là **Trận chiến quần đảo Stewart** và theo tài liệu của Nhật là **Trận chiến biển Solomon lần thứ hai** - 第二次ソロモン海戦), diễn ra từ ngày 24 tháng
**Trận Hổ Lao Quan** là một trận chiến hư cấu trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trận đánh mô tả về cuộc chiến giữa thế lực quân sự
**Trận thành Gia định** hay Trận Gia Định là một trận chiến diễn ra vào rạng sáng ngày 17 tháng hai năm 1859, giữa liên quân Pháp và Tây Ban Nha với quân đội vương
**Mặt trận phía Đông** trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm các chiến trường ở Đông Âu và Trung Âu giữa Liên minh Trung tâm với Nga và Romania thuộc Phe Hiệp ước.
**Hội thề Đông Quan** là một sự kiện diễn ra vào ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm 1427), giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và
**Trần Thanh Mẫn** (sinh ngày 12 tháng 8 năm 1962) là một nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và chính trị gia người Việt Nam. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII, Bí
**Sân vận động Quân đội Ba Lan** (; ), tên chính thức là **Sân vận động thành phố Legia Warszawa của Nguyên soái Józef Piłsudski** (), là một sân vận động dành riêng cho bóng
**Trần Thanh Phương** (hay **Thanh Phương**, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một nam nhạc công, kĩ sư âm thanh, giám đốc âm nhạc, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người
**Trần Vũ** (chữ Hán: 陳武; bính âm: Chen Wu; ???-215) tự **Tử Liệt** là một viên tướng của lực lượng Đông Ngô phục vụ dưới trướng của lãnh chúa Tôn Quyền trong thời Tam Quốc
**Huỳnh Trấn Thành** (sinh ngày 5 tháng 2 năm 1987), thường được biết đến với nghệ danh **Trấn Thành**, là một nam diễn viên, nghệ sĩ hài, người dẫn chương trình truyền hình, doanh nhân
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Hội đồng Quân lực** là tổ chức tập hợp một số tướng lãnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1964 và tuyên bố tự giải tán vào
**Trận Thành Bộc** , _Thành Bộc chi chiến_) là một trận chiến nổi tiếng thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, xảy ra vào năm 632 TCN, là trận đánh quyết định ngôi bá
**Trần Thành** (phồn thể: 陳誠; giản thể: 陈诚; bính âm: Chén Chéng; 4 tháng 1, 1897 – 5 tháng 3 năm 1965), là nhân vật chính trị và quân sự Trung Hoa, và một trong
**Lý Thành Đống** (chữ Hán: 李成棟;? – 6 tháng 4 năm 1649 (Ất Mão tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 3)), tên tự là **Đình Ngọc** (廷玉), người Ninh Hạ, quân tịch vệ Ninh Hạ
là một trận đánh giữa quân bảo hoàng và Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản vào tháng 5 năm 1868. Nó diễn ra khi binh lính của Mạc phủ Tokugawa rút
Di tích cổng Bắc thành Đồng Hới nhỏ|Bản vẽ thành Đồng Hới **Thành Đồng Hới** hay **Thành cổ Đồng Hới**, còn gọi là **Thành cổ Quảng Bình**, là một di tích kiến trúc quân sự
phải|nhỏ|[[Đền An Sinh ]] **Khu di tích nhà Trần** tại Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày
**Cơ động** dùng trong lĩnh vực quân sự là thuật ngữ chỉ tính chất của một đạo quân liên quan đến khả năng tổ chức, hoạt động nhanh chóng trong triển khai, di chuyển, hợp
**Thanh Xuân** là một quận nội thành cũ thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Thế kỷ XII, tại huyện Thanh Oai có chùa Thanh Xuân (tức chùa Phùng Khoang
**Trần Thanh Phong** (1926–1972) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia được mở
**Trần Xuân Hòa** (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1862, ông bị quân Pháp bắt được khi đang cầm quân trấn giữ Định Tường, sau đó ông đã
**Trần Thanh Nghiêm** (sinh ngày 19 tháng 09 năm 1970), là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Phó Đô đốc. Ông hiện là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII,
**Nguyễn Thanh Đồng** (1920–1972), tên thật **Nguyễn Trung**, bí danh **Quốc Trung**, là một nhà cách mạng, chỉ huy quân sự Việt Nam. ## Hoạt động cách mạng Nguyễn Trung sinh năm 1920 ở Kim
**Trần Thanh Quế** (1921–1983), tên thường gọi là **Năm Hội**, **Mười Ly**, nguyên Bí thư Huyện ủy Tri Tôn, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Long Châu Hà, Anh hùng Lực lượng vũ
**Trần Thanh Liêm** (sinh năm 1962) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương khóa IX, nhiệm kỳ 2016–2021; Là
**Trận lụt đồng bằng sông Hồng năm 1971** (hay còn được biết đến với tên gọi **Đại hồng thủy 1971**) là một đợt lũ lụt rất lớn xảy ra ở các tỉnh thuộc đồng bằng
**Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ** (tiếng Anh: _Duc My Ranger Training Center_, **DMRTC**) là một Cơ sở đào tạo nhân sự cho Binh chủng Biệt động quân. Về mặt quản lý
**Trần Thanh Từ** (1922–2022) là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 3, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. ## Tiểu
**Trần Hy Đồng** (; 10 tháng 6 năm 1930 – 2 tháng 6 năm 2013) là một chính khách Trung Quốc. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Bắc
**Trần Thanh Hải** (1953 – 9 tháng 8 năm 2018) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó chính ủy Tổng cục Hậu cần, Quân
**Trần Đình Đồng** (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1987, tại xã Bình Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu
**Thị trấn trực thuộc quận** là đơn vị hành chính thuộc quận thuộc chủ thể liên bang của Nga. Nó có địa vị tương đương selsoviet (xã) hoặc khu định cư kiểu đô thị trực