Trần Xuân Hòa (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1862, ông bị quân Pháp bắt được khi đang cầm quân trấn giữ Định Tường, sau đó ông đã cắn lưỡi mà chết.
Xuất thân
Ông là con Bố Chính sứ Vĩnh Long Trần Tuyên (1801- 1841), người Quảng Trị, sinh năm nào không rõ. Ông đỗ Cử nhân năm Tân Sửu (1841), nhưng do bị bệnh phong, nên chỉ làm quan tri phủ (có lẽ là Kiến An hoặc Kiến Tường) một thời gian ngắn. Vì là con quan, lại từng làm tri phủ, nên dân gian còn gọi là Phủ Cậu.
Ứng nghĩa chống Pháp
Khi Pháp đánh Nam Kỳ, ông do tàn tật nên phải nhờ người cõng ra ứng nghĩa. Nhà giàu, có thế lực, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa quân. Ban đầu, nghĩa quân của Trần Xuân Hòa được phân công giữ đồn Thuộc Nhiêu (nay thuộc giồng Thuộc Nhiêu, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Với sự hỗ trợ của nhân dân trong vùng, cùng với nghĩa quân, ông đã cho xây dựng dựa trên nền của một đồn quân cũ có sẵn lũy tre dày bao bọc, xây đắp một đồn mới làm căn cứ chính, gọi là Tân thành Mỹ Quý (nay thuộc ấp Quý Thành, xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy, Tiền Giang). Thành Mỹ Quý dài khoảng 130m, ngang 50 – 60m, cách thành 500m là lũy tre dày đặc, kế đến là hệ thống hào sâu 3m, rộng 4 - 5m, dưới hào có cắm chông tre. Tường thành dày 3 – 4m, cao hơn 3m. Bốn góc thành có bốn pháo đài, trên đó có bốn khẩu thần công hướng ra bốn phía.
Từ căn cứ này, ông đã chỉ huy nghĩa quân, tập kích đồn Cai Lậy do đại úy thủy quân lục chiến Chasseriaux chỉ huy, vào 2 ngày 29 tháng 8 năm 1861 và ngày 15 tháng 9 năm 1861, làm quân Pháp chống đỡ vất vả. Do thành tích này, ông được triều đình phong chức Binh bị quan thứ Vĩnh Tường, sau thưởng thụ hàm Thị độc học sĩ.
Để đàn áp nghĩa quân, đại tá hải quân Desvaux – chính tham biện Mỹ Tho – đã sử dụng nhiều tàu chiến, trong đó có pháo hạm Norsagaray, theo đường sông Rạch Gầm tấn công đồn Thuộc Nhiêu rồi đổ bộ vào Tân thành Mỹ Quý vào ngày 25 tháng 9 năm 1861. Đồng thời, một cánh quân do Trần Bá Lộc chỉ huy từ Cái Bè đánh xuống, ép nghĩa quân vào giữa vòng vây. Cuối cùng Tân thành bị vỡ. Nghĩa quân rút về Cái Bè, củng cố lực lượng, tiếp tục kháng chiến.
Sau đó nghĩa quân của Trần Xuân Hòa liên tiếp tập kích quân Pháp ở khắp nơi: Cái Thia, Cai Lậy, Cái Bè, Rạch Gầm, Trung Lương, Tân Lý… Bên cạnh đó, quân Phủ Cậu còn phối hợp với nghĩa quân của Trương Định, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân, Âu Dương Lân… Do liên kết phối hợp của các cánh nghĩa quân, nên các chỉ huy quân Pháp vô cùng lo sợ. trong các thủ lĩnh nghĩa quân, Phủ Cậu là người có học thức, nên được người Pháp nhận định "ông điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ".
Để triệt hạ cánh quân nguy hiểm này, ngày 6 tháng 1 năm 1862, đại tá hải quân Rieuner mang quân đánh căn cứ Mỹ Trang, Bang Lềnh (thuộc Cai Lậy). Trần Xuân Hòa chỉ huy nghĩa quân chống trả mãnh liệt nhưng cuối cùng bị quân Pháp bắt được bắt và giải về Mỹ Tho. Trên đường đi, ông đã cắn lưỡi tự tử để giữ tròn khí tiết.
Di sản
Trong một số tài liệu ít ỏi còn sót lại về Phủ Cậu thì mô tả ông là người "có quyền thế, hùng tâm, tuy mắc phải bệnh phong, ba phần thân thể đều bất toại, song vẫn lo việc nước thật đáng khen, điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ". Sau khi ông tuẫn tiết, các chỉ huy Pháp nhận định "Tưởng rằng tình hình viên quan bị phong như vậy làm cho bọn Annam theo ta vững lòng; song xem ra nếu có xử bằng cách khác cũng vậy thôi, cũng không làm phe nghịch nao núng. Phủ Cậu không thiếu những người hậu kế và (họ) lại càng đánh phá dữ dội hơn".
Cha ông là Bố chính Vĩnh Long Trần Tuyên chết vì loạn dân năm Thiệu Trị nguyên niên. Sách Quốc triều Chính biên Toát yếu - Quyển V chép lời Tự Đức nói về cha con ông "Cha con Trần Tuyên đều có danh thơm tiết nghĩa, rực rỡ sử biên, thực là khó đặng lắm thay". Vua Tự Đức cũng ban khen ông là "người có tiết nghĩa, làm vẻ vang sử sách, khó kiếm được ai như thế". Sau khi ông tuẫn tiết, triều đình phong thưởng hàm Quang Lộc tự khanh và sai quan đạo Quảng Trị lập đền thờ.
Phủ Cậu là người có học thức, hiếu nghĩa. Nhà đơn chiếc, đi kháng chiến ông phải đem theo mẹ già. Trong trận thành Mỹ Quý thất thủ, ông may mắn thoát được nhưng không kịp đem theo mẹ già. Để trả thù trận tập kích Cai Lậy, Desvaux đã tàn sát những người trong thành, có cả mẹ của ông.
Leopold Pallu đã mô tả về ông như sau:
Tạm dịch như sau:
Có thể danh từ Phủ Cọp hay Quan Cọp có lẽ để chỉ việc ông hăng hái "từng sáu lần đốc suất các người mộ nghĩa phục giết được lính Tây Dương và mã tà". Hoặc giả, do hình dáng bị phong (cùi) nên ông có hỗn danh như thế chăng?
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Xuân Hòa** (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1862, ông bị quân Pháp bắt được khi đang cầm quân trấn giữ Định Tường, sau đó ông đã
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Trần Xuân Soạn** (陳春撰, 1849-1923), là tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Đầu tháng 4 năm 1885, thời vua Hàm Nghi, ông cùng tướng Tôn Thất Thuyết đánh Pháp đóng ở đồn Mang
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Bùi Tuấn** (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Năm sinh và gia thế Theo gia phả họ Bùi ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Giuse Trần Xuân Tiếu** (20 tháng 8 năm 1944 – 7 tháng 1 năm 2025) là một Giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục
**Trận Hưng Hóa** hay **Pháp đánh thành Hưng Hóa** là một phần của Chiến tranh Pháp–Đại Nam diễn ra từ ngày 11 tháng 4 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng 4 cùng
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
Phó bảng **Cao Xuân Tiếu** (高春肖, 1865 - 1939), quê làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, làm quan nhà Nguyễn đến chức Thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
nhỏ|Ông Trần Văn Lý Ông **Trần Văn Lý** (陳文理, 1901 – 1970) là một nhân sĩ, chính khách Việt Nam, quan nhà Nguyễn thời kỳ cuối, cựu Tổng đốc bốn tỉnh Tây nguyên, Thủ hiến
**Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp** (6 tháng 10 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2005) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là giám mục chính tòa thứ ba của Giáo
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
Hình:Truongchinh.danghuong.png **Đặng Xuân Bảng** (鄧春榜, 1828-1910) tự là Hy Long, hiệu là Thiện Đình, là quan nhà Nguyễn và đồng thời cũng là một nhà sử học Việt Nam. ## Tiểu sử Ông nội ông
**Dương Quân** - Nhà thơ trào phúng. Tên thật là **Dương Tự Cường**. Ông sinh ngày 8 tháng 8 năm 1926 (Bính Dần) tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mất ngày
:_Bài này nói về một tỉnh cũ ở Việt Nam. Xem các nghĩa khác tại Hưng Hóa (định hướng)_ **Hưng Hóa** (Hán-Việt: 興化省) là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ
**Trận Sơn Tây (1883)**, là trận đánh mà quân đội viễn chinh Pháp tấn công vào thành cổ Sơn Tây, diễn ra từ ngày 13 tháng 12 năm 1883, kết thúc vào tối ngày 16
**Trận Bạch Đằng năm 1288** xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, là một trận đánh quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây
**Nguyễn Viên** (1752-1804) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Viên quê làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sinh ra trong một gia
**Trần Tuyên** (hay **Trần Trung Tiên**, 1801 - 1841 ), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông đã tử trận khi cầm quân đi đánh dẹp cuộc nổi dậy của Lâm Sâm
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vấn đề **bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ** được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, tức ngày 11
**Nguyễn Mậu Kiến** (chữ Hán: 阮茂建, 1819 - 1879) tên tự là **Lập Nho**, hiệu **Động Am** hay **Kính Đài**, biệt hiệu **Mão Sơn cư sĩ**, quê làng Động Trung (nay là xã Vũ Trung),
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Trần Viết Thọ** (1836-1899), tự: **Sơn Phủ**, hiệu: **Điềm Tĩnh cư sĩ**; là tu sĩ Tam giáo, và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Trần Viết Thọ** là người
**Trần Tuyên Hoa** (chữ Hán: 陳宣華, 577 - 605), hay **Tuyên Hoa phu nhân** (宣華夫人), nguyên là công chúa Nam Trần, em gái của Trần Hậu Chúa Trần Thúc Bảo - vị hoàng đế cuối
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
**Xuân Thân quân** (chữ Hán: 春申君; ? - 238 TCN), tên thật **Hoàng Yết** (黄歇), là một trong Chiến Quốc tứ công tử nổi tiếng thời Chiến Quốc, là một khanh đại phu và là
**Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu** (chữ Hán: 輔天純皇后, 22 tháng 12 năm 1870 - 19 tháng 11 năm 1935), còn được gọi là **Đức Thánh Cung** (德聖宮), là chính thất của Đồng Khánh hoàng đế
Phó bảng **Trần Xuân Sắc** (1848-1919) là một danh sĩ của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông còn được đánh giá là một nhà giáo giỏi, đã đào tạo được
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Trận Hà Nội đông xuân 1946-47** là sự kiện khởi động Chiến tranh Đông Dương giữa các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) và tập đoàn quân viễn chinh Pháp từ
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ