✨Hậu cung nhà Nguyễn

Hậu cung nhà Nguyễn

thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] Hậu cung nhà Nguyễn là quy định và trật tự của hậu cung dưới thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Ngoài bản thân Hoàng đế là người lớn nhất, bên cạnh đó còn có Hoàng thái hậu, Hoàng hậu cùng Phi tần, Hoàng tử và Hoàng nữ, các Thái giám và Cung nữ, tất cả đều tham gia vào sự vận động cuộc sống sinh hoạt hằng ngày trong cung. Triều đại nhà Nguyễn có tương quan ghi chép nhiều nhất thời quân chủ Việt Nam.

Lịch sử khái quát

Sơ kỳ

trái|[[Nam Phương hoàng hậu]] Nhà Nguyễn theo lệ cũ nhà Lê sơ, để khuyết ngôi Hoàng Hậu với nhiều lý do, trừ các bà Thừa Thiên, người vợ tào khang theo phò Thế Tổ từ thuở hàn vi và Nam Phương, Hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Từ Thánh Tổ đến Hoằng Tông chỉ kén người hiền đức giữ ngôi Phi hoặc Hoàng quý phi đứng đầu giúp việc nội trị. Riêng bà Lệ Thiên là trường hợp đặc biệt, với danh phận hoàng tẩu của tân quân Hiệp Hòa được tôn huy hiệu Khiêm Hoàng hậu (謙皇后) theo cố mệnh của tiên đế Dực Tông.

Nội các triều Nguyễn - Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi lại, vào đầu thời "Quốc sơ", thứ bậc nội cung được quy định:

  • Tam phi (三妃): Quý phi (貴妃), Minh phi (明妃), Kính phi (敬妃);
  • Tam tu (三修): Tu nghi (修儀) Tu dung (修容), Tu viên (修媛);
  • Cửu tần (九嬪): Quý tần (貴嬪), Hiền tần (賢嬪), Trang tần (莊嬪), Đức tần (德嬪), Thục tần (淑嬪), Huệ tần (惠嬪), Lệ tần (麗嬪), An tần (安嬪), Hòa tần (和嬪);
  • Tam chiêu (三昭): Chiêu nghi (昭儀), Chiêu dung (昭容), Chiêu viên (昭媛)
  • Tam sung (三充): Sung nghi (充儀), Sung dung (充容), Sung viên (充媛).
  • Lục chức (六職): Tiệp dư (婕妤), Dung hoa (傛華), Nghi nhân (宜人), Tài nhân (才人), Linh nhân (靈人), Lương nhân (良人);

Chữ "Quốc sơ" này hay có nhìn nhận là đầu thời Gia Long, song theo nhiều biểu hiện nó ám chỉ khoảng đầu thời Chúa Nguyễn. Quả thật, thời Chúa Nguyễn khi truy tặng các phu nhân, cũng hay xuất hiện các tước hiệu trên, như "Chiêu nghi Liệt phu nhân", "Kính phi Phu nhân",... Một điều chứng minh khác, là dưới triều Gia Long và Minh Mạng vẫn xuất hiện những danh vị hoàn toàn không thuộc quy định ở trên, như Mỹ nhân. Có lẽ việc thay đổi danh vị trong Nội đình thời Gia Long so với thời Chúa Nguyễn đã có diễn ra quy mô lớn, song không được ghi chính thức và tỉ mỉ lại như cuộc thay đổi toàn vẹn diễn ra cuối thời Minh Mạng.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Thánh Tổ có chỉ dụ định lại thứ bậc ở nội cung: "Nay theo gương cổ nhân, đặt chín bậc phi tần ở nội cung, khiến cho chốn khuê môn trật tự phân minh, phong hóa tôn nghiêm, nối đến muôn đời. Trên hàng Nhất giai có đặt Hoàng quý phi để giúp Hoàng hậu vốn là ngôi 'Chủ quỹ trung cung' (主饋中宮), cai quản mẫu mực Lục viện, giúp việc nội trị, giữ nghiêm nội chính".

Từ đó, các triều đều thiết lập hạng mức cung giai cố định, dưới Hoàng quý phi đặt ra các bậc:

  • Tần ngự có sách phong:

    Nhất giai Phi (一階妃).

    Nhị giai Phi (二階妃).

    Tam giai Tần (三階嬪).

    Tứ giai Tần (四階嬪).

    Ngũ giai Tần (五階嬪).

    Lục giai Tiệp dư (六階婕妤).

    Thất giai Quý nhân (七階貴人).

    Bát giai Mỹ nhân (八階美人).

    Cửu giai Tài nhân (九階才人).

    Tài nhân vị nhập giai (才人未入階).

  • Tần ngự không có sách phong:

    Cung nhân (宮人).

    Cung nga (宮娥).

    Thị nữ (侍女).

  • Dưới cùng là các bậc Nữ quan cùng Cung nữ, có trách nhiệm quản lý phục dịch trong cung ở Lục thượng (六尚).

Bậc Tần trở lên, qua các triều sẽ định riêng các huy hiệu, trước sau sẽ phân cao thấp trong cùng một bậc. Ví dụ chính năm Minh Mạng thứ 17, Thánh Tổ đã chiếu định các huy hiệu như sau:

  • Nhất giai: Quý phi (貴妃), Hiền phi (賢妃), Thần phi (宸妃).
  • Nhị giai: Gia phi (嘉妃), Thục phi (淑妃), Huệ phi (惠妃).
  • Tam giai: Quý tần (貴嬪), Hiền tần (賢嬪), Trang tần (莊嬪).
  • Tứ giai: Đức tần (德嬪), Thục tần (淑嬪), Huệ tần (惠嬪).
  • Ngũ giai: Lệ tần (麗嬪), An tần (安嬪), Hòa tần (和嬪).

Cùng lúc ấy, Thánh Tổ sách phong truy tặng bà nguyên phối là Chiêu nghi (昭儀) Hồ thị làm Thần phi, lấy tên thụy là Thuận Đức (順德), tấn phong Hiền tần Ngô thị làm Hiền phi, còn từ Trang tần trở xuống gồm 26 người.

Các danh hiệu không cố định mà thay đổi qua các triều vua hoặc trong cùng một triều. Ngay trong năm Minh Mạng thứ 17, bậc đầu Nhị giai vốn là Đức phi (德妃), nhưng ngay sau đó Thánh Tổ lại cho sửa thành Gia phi như ta thấy. Sau khi bàn định rõ 5 bậc đầu có thứ tự như vậy, thì vào năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Thánh Tổ có chỉ dụ thay đổi trong bậc Ngũ giai như sau: "Nguyên trước định lệ cung giai rằng, Lệ tần, An tần, Hòa tần làm bậc Ngũ giai, nay đổi làm An tần, Hòa tần, Lệ tần".

Mặc dù nội cung triều Nguyễn được phân làm chín bậc nhưng số lượng cung tần mỹ nữ thời bấy giờ không nhiều. Thánh Tổ có số lượng phi tần nhiều nhất với 43 phi tần sinh hạ 162 người con được chép trong Nguyễn Phúc tộc thế phả, nhưng dưới niên hiệu Minh Mạng, cung tần mỹ nữ chốn nội cung, kể cả Nữ quan và Thị nữ có lẽ không quá 200 người. Như năm Minh Mạng thứ 9 (1828), Kinh kỳ lụt to, Thánh Tổ xuống dụ: "Từ xưa đến nay lụt mùa thu, chưa bao giờ như thế. Nước là tượng âm, hoặc giả âm khí u uất mà thành ra thế chăng? Hiện nay cung nhân có danh vị chỉ có 16, 17 người, tất cả các ban chưa quá trăm người, đủ để sai khiến trong cung mà thôi."

Hoàng tử nhà Nguyễn khi đến tuổi trưởng thành được ban tước Công, phải xuất phủ kén vợ gọi là nạp phi hay nạp thiếp. Nàng dâu được triều đình cưới hỏi gọi là Phủ thiếp (府妾), nàng hầu gọi là Đằng thiếp (藤妾) hay Dắng thiếp (媵妾).

Trung kỳ

Quốc Sử quán ghi lại trong Đại Nam thực lục vào tháng 5 năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Hiến Tổ ban dụ định lại thứ tự chín bậc ở nội cung: "Đức chính hóa của nhà đế vương bắt nguồn từ chốn khuê môn, nên kinh Dịch có quẻ Gia nhân, kinh Lễ có thiên Nội tắc, để nghiêm chỉnh nghi lễ chốn cung nghiêm, giúp việc chính sự nơi cung khuyết. Từ những năm Minh Mạng đã chuẩn định nội cung chín bậc, định lệ cấp lương bổng và màu sắc xiêm y theo thứ bậc để tỏ rõ khuôn phép nối đến muôn đời. Trẫm từ khi nối ngôi tới nay, mở mang thái bình, sửa sang trị hóa, khiến cho cương kỷ trong nước được rõ ràng. Nhân nghĩ đến đức chính hóa của nhà đế vương, tất từ tề gia mà ra đến trị quốc, trật tự trong cung cũng nên định khác."

  • Nhất giai: Quý phi (貴妃), Đoan phi (端妃), Lệnh phi (令妃).
  • Nhị giai: Thành phi (誠妃), Trinh phi (貞妃), Thục phi (淑妃).
  • Tam giai: Quý tần (貴嬪), Lương tần (良嬪), Đức tần (德嬪).
  • Tứ giai: Huy tần (徽嬪), Ý tần (懿嬪), Nhu tần (柔嬪).
  • Ngũ giai: Nhàn tần (嫻嬪), Nhã tần (雅嬪), Thuận tần (順嬪).
  • Dưới nữa không đổi, vẫn như sơ chế.

Lại xuống dụ tấn phong cung tần Phạm thị làm Thành phi, truy tặng Diễm nhân (艷人) Đinh thị làm Quý tần. Đến tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), theo từ chỉ của Nhân Tuyên Thái hoàng thái hậu: "Từ trước đến nay, các phi tần giữ nết hạnh đoan trang, lo toan việc nội trị, nên tấn phong theo thứ bậc để tỏ ân trạch", Hiến Tổ ban ân mệnh cho đổi Đoan phi ở nhất giai làm Lương phi, Lương tần ở tam giai làm Thụy tần (瑞嬪), tấn phong Thành phi Phạm thị làm Quý phi, Lương tần Võ thị làm Lương phi, lại phong từ Lệnh phi, Thục phi, Thụy tần trở xuống. Chuẩn định lệ thứ bậc cao khi tấn phong được ban sách vàng, sách bạc theo lệ cũ, còn từ phi tần tam giai trở xuống thì đổi cấp sách bằng gấm vóc.

Quốc Sử quán ghi lại trong Đại Nam thực lục vào tháng 5 năm Tự Đức thứ 3 (1850), Dực Tông xuống dụ định rõ thứ bậc ở nội cung: "Đạo đế vương trước ở tề gia, nên thiên Chu quan thi hành phép tắc tất lấy ý của thơ Quan thư, Lân chỉ làm gốc, bởi lễ nghi nơi cung cấm là cái gốc của vương hóa. Thánh Tổ theo điển lễ đời xưa, chuẩn định thứ bậc nội cung, là phép hay muôn đời. Về Hoàng quý phi trở lên, đã có lệ sẵn, còn từ phi tần trở xuống, thì chia làm chín bậc với các danh xưng và mỹ từ."

  • Nhất giai: Thuận phi (順妃), Thiện phi (善妃), Nhã phi (雅妃).
  • Nhị giai: Cung phi (恭妃), Cần phi (勤妃), Chiêu phi (昭妃).
  • Tam giai: Khiêm tần (謙嬪), Thận tần (慎嬪), Nhân tần (仁嬪), Thái tần (泰嬪).
  • Tứ giai: Khoan tần (寬嬪), Giai tần (偕嬪), Tuệ tần (慧嬪), Giản tần (簡嬪).
  • Ngũ giai: Tĩnh tần (靜嬪), Cẩn tần (謹嬪), Tín tần (信嬪), Uyển tần (婉嬪).
  • Dưới nữa không đổi, vẫn như sơ chế.

Lại xuống dụ tấn phong cung tần Võ thị làm Cần phi, Nguyễn Đình thị làm Chiêu phi, còn từ Thận tần trở xuống gồm 12 người. Đến tháng 1 năm Tự Đức thứ 13 (1860), theo từ huấn của Từ Dụ Hoàng thái hậu tôn phong các phi tần ở nội đình, tấn phong Cần phi Võ thị làm Thuần phi (純妃), sau đổi làm Trung phi (忠妃), Chiêu phi Nguyễn Đình thị làm Thiện phi, Thận tần Lê thị làm Cung phi, còn từ Tĩnh tần trở xuống gồm 14 người. Lại ban dụ định lại thứ bậc ở nội đình, đổi Uyên tần (淵嬪) ở tam giai làm Đoan tần (端嬪), Tuệ tần ở tứ giai làm Kiệm tần (儉嬪), đến tháng 12 Tự Đức năm thứ 14 (1861), Cần phi ở nhị giai được đổi thành Đôn phi (惇妃), Thái tần ở tam giai đổi thành Diệu tần (妙嬪), Giai tần ở tứ giai đổi thành Lượng tần (諒嬪), và sau đó một tháng, tức tháng 1 năm Tự Đức thứ 15 (1862), Chiêu phi ở nhị giai đổi thành Mẫn phi (敏妃), Tĩnh tần ở ngũ giai đổi thành Hậu tần (厚嬪).

Năm Tự Đức thứ 4 (1851), dụ tặng Tiệp dư tiên triều là Nguyễn Khắc thị, sinh mẫu của Tùng Quốc công làm Tứ giai Thục tần (淑嬪), lấy tên thụy là Đoan Liệt (端烈). Nguyên trong năm Minh Mạng thứ 17 (1836), bà được phong làm Thục tần rồi can đến án quyến thuộc trộm vàng mà bị cách, sau đó một năm mới được khởi phục chức Tiệp dư.

Năm Tự Đức thứ 23 (1870), tấn phong Trung phi Võ thị làm Hoàng quý phi. Dụ rằng: "Trong chốn cung đình là nguồn gốc của phong hoá, không thể không có người giúp đỡ để cai quản kẻ thuộc hạ giữ được đạo đàn bà. Trung phi họ Võ là con nhà danh vọng, kính được kén cho, người bé nhỏ rất có đức hạnh, được sự Hoàng thái hậu xét biết, thuận cho nên thăng chức, vậy tấn phong làm Hoàng quý phi, được Suất nhiếp lục viện (率攝六院)". Đây là lần đầu tiên triều Nguyễn ra chỉ dụ sách phong cho một hậu phi làm Hoàng quý phi, lại còn trên danh nghĩa đứng đầu Lục viện. Khi ấy, Tứ giai Lượng tần Nguyễn Văn thị được tấn thăng lên thành Nhị giai Khiêm phi (謙妃), sau lại phong làm Nhất giai Học phi (學妃).

Năm Tự Đức thứ 26 (1873), chuẩn định lệ thụy hiệu của phi tần, trừ những người có đức vọng lâm thời sẽ nghị bàn việc đặt tên thụy, còn lại đều theo lệ sẵn:

  • Nhất giai phi lấy tên thụy là Huy Thuận (徽順).
  • Nhị giai phi lấy tên thụy là Ý Thuận (懿順).
  • Tam giai tần lấy tên thụy là Nhã Thuận (雅順).
  • Tứ giai tần lấy tên thụy là Nhàn Thuận (嫻順).
  • Ngũ giai tần lấy tên thụy là Lệ Thuận (麗順).
  • Lục giai Tiệp dư lấy tên thụy là Nhu Thuận (柔順).
  • Thất giai Quý nhân lấy tên thụy là Trang Thuận (莊順).
  • Bát giai Mỹ nhân lấy tên thụy là Cẩn Thuận (謹順).
  • Cửu giai Tài nhân lấy tên thụy là Thục Thuận (淑順).

Vãn kỳ

Tháng 8 năm Hàm Nghi nguyên niên (1885), Cảnh Tông ban dụ: "Căn cứ theo tấu trình của Cơ Mật viện và Lễ bộ nói rằng nội chức cũng cần có người, nên xin xem xét ban phong để sáng tỏ quốc điển, vì vậy đành phải chuẩn y cho phép thi hành. Nay xét những cung tần gồm bốn người hầu hạ trong cung đã lâu ngày, nghiêm chỉnh tuân thủ phép tắc, truyền chuẩn y tấn phong cho Trần Đăng thị làm Quán phi (觀妃), Phan Văn thị làm Giai phi (偕妃), Hồ Văn thị làm Chính tần (政嬪), Nguyễn Văn thị làm Nghi tần (宜嬪). Riêng Giai phi chuẩn cho làm Quyền nhiếp lục viện (權攝六院) để rồi sung chức. Lại chuẩn phong cho Mai Văn thị làm Tiệp dư, Nguyễn Văn thị làm Quý nhân, Nguyễn Hữu thị làm Mỹ nhân, Trịnh Văn thị làm Tài nhân và Mai thị làm Tài nhân vị nhập lưu. Những người trên cần phải kính cẩn thực thi nội chức để để giữ việc trong nội cung được nghiêm chỉnh. Người xưa nói rằng phải tề gia rồi mới trị quốc, đó là điều mà Trẫm mong mỏi vậy!".

Tháng giêng năm Đồng Khánh nguyên niên (1886), sách dụ tấn phong con gái của Nguyễn Hữu Độ là Nguyễn Hữu thị làm Hoàng quý phi và ban cho kim bài, khắc ngang chữ "Đồng Khánh sắc tứ" (同慶敕賜), khắc dọc các chữ "Kiêm nhiếp lục viện" (兼攝六院). Tháng 10, truy tặng bà Phủ thiếp quá cố là Nguyễn thị làm Nghĩa tần (義嬪).

Sau đó một năm, tức tháng 2 năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), Cảnh Tông xuống dụ truất các phi tần trong nội đình: "Quán phi Trần Đăng thị lời nói, cử chỉ thô tục, giáng làm Tùy tần (隨嬪), Chính tần Hồ Văn thị không chăm lo việc công, giáng làm Mỹ nhân, Nghi tần Nguyễn Văn thị tính dữ tợn, tham lam, đố kỵ, truyền phải xử nặng, giáng làm Tài nhân, bọn Tài nhân ở cửu giai là Trịnh thị, Nguyễn Hữu thị tính khinh nhờn đã thành thói khó dứt, đều giáng làm Cung nhân. Hoàng quý phi không biết tu thân, để nội đình bất thuận ý đức, cũng quở trách ngặt hơn". Cũng trong năm ấy, Giai phi Phan Văn thị nguyên sung chức Thượng trân, kiểm xét các thứ trân bảo thiếu sót, lại giả ốm trễ nải, giáng làm Mỹ nhân.

Đại Nam thực lục ghi lại, tháng 1 năm Thành Thái thứ 9 (1897), sách phong Tam giai Mậu tần (懋嬪) Nguyễn Gia thị, con gái của Diên Lộc Bá làm Hoàng quý phi, đến tháng 6 cùng năm, sách phong con gái Vĩnh Lại Quận công mới tuyển là Nguyễn Hữu thị làm Nhất giai Huyền phi (一階玄妃). Tháng 11 năm Thành Thái thứ 12 (1900), tấn phong cung giai cho phi tần trong nội đình gồm 20 người.

Tháng 2 năm Duy Tân thứ 4 (1910), chuẩn cho sao hành trạng của tiền triều Tam giai Lễ tần (禮嬪) Nguyễn Nhược thị chép vào liệt truyện. Bà phụng hầu dưới thời vua Dực Tông, trải thăng tới Lục giai Tiệp dư, sung Giáo tập tam cung lục viện, về sau thị hầu hai cung được thăng Tam giai Lễ tần, trải hết gian lao, rất có danh vọng.

Năm Duy Tân thứ 10 (1916) xuống dụ: "Tuân theo ý chỉ của Lưỡng cung chuẩn thăng Mai Bá thị làm phi tần Tam giai, bề tôi phủ Phụ chính tuân mệnh nghị bàn, Khâm sứ đại thần Charles chiểu lệ trong nội cung Thành Thái năm thứ 5, có ba vị, trong đó một vị phong làm Nhị giai phi. Nay xin tuân chiếu lệ trước, phong Mai Bá thị trong nội đình làm Nhị giai Diệu phi (二階妙妃) để trọng sự thể."

Tháng 2 (âm lịch), năm Khải Định thứ 2 (1917), vua tấn phong cho Tam giai Huệ tần Hoàng Thị Cúc và các cung phi bậc khác nhau. Dụ rằng: " Quan thư là điểm khởi đầu Vương đạo, cung tường chính nơi phong hóa bắt nguồn. Từ ngày xưa, các bậc Đế vương không ai là không chăm lo vun vén nơi căn bản trước tiên. Trẫm khi còn chưa lên ngôi đã được Lưỡng cung giáng Chỉ dụ khuyên nên sớm quyết định việc này cho được yên bề. Ngờ đâu vì nội chính rối ren nên đàn cầm chưa ngân thành điệu. Từ ngày tức chính tới nay vẫn tâm niệm làm tròn chữ hiếu, nên luôn nghĩ trước lo chấn chỉnh phong hóa tôn xã, rồi sau mới đến chuyện trong cung. Vì nghĩ rằng thứ bậc cung phi đảm đương trợ giúp cho Vương hóa, nếu không là người am tường thì khó lái huy xa. Vì thế ngôi chính nội đình vẫn còn để trống, là có ý đợi người vậy. Nhưng xét thấy mấy người thiếp từ khi trẫm còn chưa lên ngôi vẫn hầu phụng trẫm đã nhiều năm, đáng nên thương đến mà vinh danh. Trong đó Hoàng Thị Cúc nguyên là người được Từ chỉ của Hoàng Thái phi tuyển vào hầu hạ ở dinh Hoàng tử, rất được lòng bề trên, lại sớm ứng điềm mộng lành mà sinh con trai, truyền tấn phong làm Tam giai Huệ tần, Trần Đăng Thị Thông làm Thất giai Quý nhân, Ngô Thị Trang làm Cửu giai Tài nhân, để đều được hưởng ân sủng. Mọi thủ tục nghi thức truyển Bộ Lễ chiếu theo lệ tuân hành".

Tháng 8 (âm lịch), tấn phong con gái Khánh Mỹ tử Hồ Đắc Trung là Hồ Thị Chỉ làm Nhất giai Ân phi. Dụ rằng: "Vương hóa bắt đầu từ nội bộ, Quan thư, Thước sào xếp thứ nhất trong nhị Nam; Trị nước trước hết phải tề gia, hiền phụ Ấp Khương cùng dự vào hàng Thập loạn. Xét nay ngôi Phi nắm giữ việc nội chính từ lâu vẫn còn để khuyết. Chưa tìm được người thì biết trao cho ai. Vị trí này để trống là để đợi tìm được người hiền biết làm vui lòng bề trên, đồng thời chu toàn tứ đức, tránh cho trẫm khỏi phải áy náy mà đề tâm vào việc nội trị bên trong, thì sẽ tấn phong cho cấp bậc cao quý. Làm như thế cốt để nghiêm giáo hóa trong nhà vậy. Nay kính nhận được Từ dụ của Lưỡng cung nói rằng, nhà vua đã vất vả vào việc cơ vụ, thì nội chính không thể thiếu người phụ tá để trông nom sai khiến nội thuộc, nên chọn một người cung phi thay mặt trông nom hầu hạ già này, đỡ cho nhà vua khỏi phải bận tâm lo nghĩ. Nghe nói quan Cơ mật Đại thần, Hiệp tả Đại học sĩ, lãnh Học bộ Thượng thư, kiêm Lễ bộ sự vụ Khánh Mỹ tử Hồ Đắc Trung có người con gái thứ ba là Hồ Thị Chỉ rất có dung nhan đức hạnh, nên tuyến sung vào nội cung tấn thăng làm hàng Phi để nghiêm phép tắc trong cung và giữ thể thống, Kính vâng ngọc chỉ không dám chậm trễ trái lời, truyền cung lục Từ dụ chuyển cho viên Đại thần ấy tuân mệnh. Đồng thời truyền báo cho Khâm thiên giám chọn ngày lành để vào ngày đó đưa tiến vào Đại nội kính yết đúng nghi thức. Lại kính vâng theo Ý chỉ, rộng lượng gia ân, truyền chuẩn tấn phong cho thị ấy làm Nhất giai Ân phi, để thị sớm được đội ơn vinh sủng, mãi mãi giữ thuần phụ đạo. Truyền Hữu ti tuân theo lệ cũ xưa nay đệ phiến phúc tâu từng khoản đợi chuẩn thi hành".

Tháng 12 (âm lịch), năm Khải Định thứ 2 (1917), vua xuống dụ truy tặng cho tiền triều Tài nhân Trương Thị Vĩnh làm Tam giai Kỷ tần (三階紀嬪), ban thụy là Trinh Tường (貞祥), cùng tiên triều Nghĩa tần Nguyễn thị làm Nhất giai Quý phi (一階貴妃), ban thụy là Đoan Hòa (端和). Lời dụ rằng: "Nhớ xưa Tiền triều cố Tài nhân Trương thị, đức hạnh đoan trang, dung nhan trinh trắng, được Hiến Tổ Chương Hoàng đế triều ta sủng ái, sinh ra Hoàng thúc phụ là Thuần Nghị Kiên Thái vương. Đó thực bởi ươm lành gộp sáng mà nên, cũng chính nhờ tích đức gom thiện mới thế. Trẫm nay tiếp nhận cơ đồ truyền lại, vì nghĩa đáng phải biểu dương, truyền tấn tặng cho làm Tam giai Kỷ tần, thụy Trinh Tường. Tiên triều Nghĩa tần Nguyễn thị, là con gái của cố Hậu quân Nguyễn Diệm và là mẹ đẻ của Ngọc Lâm Thái trưởng công chúa, phụng hầu Hoàng khảo hoàng đế ta từ hồi còn chưa lên ngôi, từ lâu đã được sung làm Nguyên phi, chưa được hưởng ân điển mà đã gỡ trâm ra đi, từng khiến hoàng khảo vô cùng thương tiếc với nỗi niềm khó tìm lại thanh kiếm ngày xưa. Vì yêu quý người thân, tôn sùng đạo lý, đáng phải suy ân. Truyền tấn tặng cho làm Nhất giai Quý phi, ban cho tên thụy là Đoan Hòa, chuẩn dựng đền thờ phụng để bày tỏ sự báo đáp".

Năm Khải Định thứ 3 (1918), tháng 12, tấn phong cho Tam giai Huệ tần làm Nhị giai Huệ phi, Phạm Thị Hoài làm Ngũ giai Diệu tần. Trước đó vua phê bảo Bộ Lễ rằng: "Tam giai Huệ tần thể lòng hiếu thảo của trẫm mà hầu hạ Lưỡng cung, làm hài lòng bề trên, thật là hiền thảo chăm chỉ đáng khen. Truyền chuẩn tấn phong cho là Nhị giai Huệ phi. Phạm Thị Hoài vừa được chọn đưa vào Đại nội mà đã nhanh chóng biết phép tắc trong cung, xem ra cũng thông minh sáng dạ, truyền tấn phong cho là Ngũ giai Diệu tần, để hai người được sớm đội ơn dày". Đến giờ Bộ thần Bộ Lễ đệ phiến xin thi hành những nghi thức thủ tục liên quan. Vua chuẩn cho thi hành.

Năm Khải Định thứ 7 (1922), mùa xuân, tháng Giêng, tấn phong Ngũ giai Diệu tần Phạm thị làm Tam giai Diệu tần, Nguyễn Đình Thị Liên làm Ngũ giai Điềm tần. Trước đó vua phê rằng: "Ngũ giai Diệu tần Phạm Thị Hoài gần đây hầu hạ rất được lòng Lưỡng cung, trẫm lấy làm khen ngợi. Bữa rồi vâng theo từ chỉ rằng nên thăng cho thị làm Tam giai Diệu tần. Khâm thử. Ngoài ra, quan Thượng thư, sung Cơ mật viện Tham tá Nguyễn Đình Hòe cũng vừa đem cháu gái là Nguyễn Đình Thị Liên dâng tiến vào Nội đình. Trẫm nghĩ rằng viên quan ấy vốn là cựu thần của Tiên đế, nay đang làm việc rất cần mẫn. Vậy truyền tấn phong Nguyễn Đình Thị Liên làm Ngũ giai Điềm tần (五階恬嬪) để Thị được đội ơn cao dày. Truyền hữu ti chiếu lệ tuân hành".

Xuất thân và tuyển chọn

thumb|Ân phi [[Hồ Thị Chỉ.]] Cung phi triều Nguyễn có xuất thân cơ bản phân vào hai loại, một là con nhà quan viên, thứ đến là từ nhà bình dân.

Hầu hết các Hoàng đế triều Nguyễn đều đã có hậu phi trước khi lên ngôi. Các bà có vai vế lớn như Tá Thiên, Nghi Thiên, Lệ Thiên được ghi nhận là con nhà dòng dõi, được các trưởng bối tuyển vào hầu các Hoàng đế tại Tiềm để. Sau khi Hoàng đế lên ngôi, mới định theo đức hạnh mà thụ hưởng tước vị. Tuy triều Nguyễn có nhiều tư liệu nhất, song việc tuyển chọn thế nào cũng chưa phát hiện hồ sơ tài liệu nào ghi lại cụ thể, không sánh được với Bát Kỳ tuyển tú triều Thanh.

Đối với thông lệ Nội đình sau khi Hoàng đế lên ngôi, người mới tiến cung dù là con nhà nào thì khi vào cung đình, cũng chỉ là Cung nhân có đãi ngộ. Trường hợp hay thấy nhất chính là vào Nội đình một thời gian, sau đó có đức hạnh mà quyết định tấn phong lên bậc cao, dự hàng Phi hàng Tần. Ví dụ điển hình nhất có bà Diệu phi Mai Thị Vàng của Duy Tân, ban đầu sung vào Nội đình, sau đó phong làm Nhị giai Diệu phi (二階妙妃).

Ngoài ra, có thể thấy rõ nhất chuyện này qua thời Khải Định, xét các đạo chỉ dụ của Hoằng Tông được ghi nhận trong Chính yếu như sau:

  • Năm Khải Định thứ 4 (1919), Hoằng Tông ra chỉ dụ:"Võ Thị Dung là ái nữ của quan Đại thần, được tiến vào cung đình hầu hạ. Nay Trẫm xét nàng có nền nếp gia giáo, đáng xét mà ban ân cấp bậc, để Thị càng thêm tận tâm hầu cận Lưỡng Cung. Truyền tấn phong làm Tứ giai Dụ tần (四階裕嬪)".
  • Năm Khải Định thứ 7 (1922), lại có chỉ dụ:"Quan thượng thư, sung Cơ Mật viện Tham tá Nguyễn Đình Hòe có dâng cháu gái là Nguyễn Đình Thị Liên vào Nội đình. Trẫm nghĩ đó là cựu thần của Tiên đế, nay đang làm việc rất cần mẫn. Vậy truyền tấn phong Nguyễn Đình Thị Liên làm Ngũ giai Điềm tần (五階恬嬪) để Thị được đội ơn dày".

Bên cạnh những thành phần được dự tuyển vào Nội đình trước rồi sách phong, triều Nguyễn lại ghi nhận những trường hợp dùng lễ tấn nội đình rước vào cung rồi sách phong thẳng lên tước vị cao. Ấy là trường hợp bà Ân phi Hồ Thị Chỉ thời Khải Định. Năm thứ 2 (1917), tháng 8, Hồ Thị Chỉ được tuyên dụ trực tiếp vào cung để phong Phi. Sách viết:

  • Vương hóa bắt đầu từ nội bộ, Quan thư và Thường Sào xếp thứ nhất trong Nhị Nam. Trị nước trước hết phải tề gia, hiền phụ Ấp Khương cùng dự vào hàng Thập loạn. Xét nay ngôi Phi nắm giữ việc nội chính từ lâu vẫn để khuyết, chưa tìm được người để xét trao. Nay kính nhận được từ dụ của Lưỡng Cung bệ hạ, Hoàng thượng vất vả cơ vụ, thì nội chính không thể thiếu người phụ tá để chăm nom sai khiến nội thuộc, nên chọn một cung phi thay chăm nom hầu hạ già này, đỡ cho Hoàng thượng phải bận tâm lo nghĩ. Nghe nói Cơ Mật viện đại thần, Hiệp tá Đại học sĩ, lĩnh Học bộ Thượng thư kiêm Lễ bộ sự vụ Khánh Mỹ tử Hồ Đắc Trung có con gái thứ 3 là Hồ Thị Chỉ rất có dung nhan đức hạnh, nên tuyển sung vào nội đình tấn thăng làm hàng Phi để nghiêm phép tắc trong cung và chỉnh bề thể thống. Kính vâng ngọc chỉ không chậm trễ trái lời, truyền từ dụ chuyển cho Đại thần bàn tâu được biết. Đồng thời truyền báo cho Khâm Thiên giám chọn ngày dùng nghi thức đưa vào đại nội. Lại kính vâng theo Ý chỉ, tấn phong Thị ấy làm Nhất giai Ân phi, để Thị ấy mãi giữ thánh sủng, muôn đời giữ thuần đạo. Truyền Hữu ty tuân theo lệ cũ xưa nay đệ phiến chúc tâu từng khoản đợi cử thi hành.

Trước bà Ân phi, thời Tự Đức đã có Nguyễn Văn Thị Hương vừa vào cung đã là Tứ giai Lượng tần (四階諒嬪). Thời Đồng Khánh, Cảnh Tông có cho tuyển con gái Nguyễn Hữu Độ là Nguyễn Hữu Thị Nhàn vào cung, trực tiếp tiến phong Hoàng quý phi; một người con gái khác của Nguyễn Hữu Độ là Nguyễn Hữu Thị Nga, thời Thành Thái được sung vào Nội cung rồi sách phong ngay làm Nhất giai Huyền phi (一階玄妃). Có thể thấy vị hiệu tần phi, sớm có định đoạt hay không hoàn toàn là do ý niệm của Hoàng đế.

Còn các con gái bình dân, thông thường đều do quan viên địa phương tuyển chọn danh sách, sung vào Nội đình ở các hạng Cung nhân, Cung nga hay Thị nữ. Dân gian Huế có câu "Đưa con vô Nội" phản ánh một góc thực trạng triều đình tuyển rất nhiều con gái bình dân vào hầu hạ trong Nội đình.

Các nghi lễ về tấn tôn và sách phong

Tấn tôn Hoàng thái hậu

Năm Gia Long thứ 5 (1806), nhà Vua xưng Hoàng đế, cũng làm lễ tấn tôn mẹ ruột Nguyễn Thị Hoàn, trước đã tôn Vương thái hậu, chính thức trở thành Hoàng thái hậu. Sau khi làm lễ tấn tôn, Vua Gia Long cho thiết Đại triều ở điện Thái Hòa, chiếu cáo thiên hạ, các quan dâng biểu chúc mừng. Hôm sau, các quan lại dâng các biểu tấu, lễ mừng đến cung Trường Thọ nơi mà Hoàng thái hậu ở. Sau đó, đến lượt Hoàng hậu Tống thị dẫn Phi tần, Công chúa, Phủ thiếp và Mệnh phụ đến làm lễ chúc mừng. Về sau không còn Hoàng hậu, Hoàng đế cũng miễn đi việc dẫn suất này mà chỉ để các quan viên tấu mừng.

Trừ thời Gia Long duyệt sách, ấn tại điện Thái Hòa, thì các triều khác chỉ thực hiện duyệt sách ấn tại điện Cần Chánh, đến về sau Phi cao nhất cũng ở điện Cần Chánh, tựa hồ nếu còn lập Hậu thì nghi thức cũng diễn ra ở đây thay vì điện Thái Hòa. Các lễ mừng dâng huy hiệu cho Thái hoàng thái hậu cũng đều theo nghi thức này mà làm.

Sách lập Hoàng hậu

Lập Hậu triều Nguyễn, trừ Thừa Thiên Cao Hoàng hậu ở trên, chỉ còn thấy Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (tôn Khiêm Hoàng hậu thời Hiệp Hòa) và Nam Phương Hoàng hậu. Điển lễ Khiêm Hoàng hậu không tra khảo thấy, còn Nam Phương Hoàng hậu do thời đại ảnh hưởng rất nhiều, kèm với lễ cưới hỏi đàng hoàng nên cũng khác biệt so với thời Gia Long. Từ đời Đồng Khánh, có những bà dùng lễ cưới lớn nhập cung, được gọi là ["Lễ-Tấn-nội-đình"]. Sau khi nhập cung ngày 20 tháng 3 năm 1934, sang ngày 24 tháng 3 thì tiến hành lễ lập Hậu của Nam Phương.

Quy trình lễ của Nam Phương Hoàng hậu năm ấy:

Lễ Tấn nội đình

Cách gọi này xuất hiện ở Ngọ báo ghi nhận lễ cưới của Nam Phương Hoàng hậu. Theo như lời thuật lại, lễ này theo như vậy tính từ thời Đồng Khánh, có Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu (tức Đức Thánh Cung) từng được dùng, đây được xem là lễ cưới chính danh nhất của hoàng gia, những người được nhận lễ trừ Thánh Cung và Nam Phương, còn có bà Hoàng quý phi của Vua Thành Thái là Nguyễn Thị Vân Anh, bà Diệu phi của Vua Duy Tân là Mai Thị Vàng cùng bà Ân phi của Vua Khải Định là Hồ Thị Chỉ. Trừ Nam Phương, các bà Nội đình kể cả Phụ Thiên Thuần Hoàng hậu sau đó chỉ phong Hoàng quý phi hoặc Phi, và Nam Phương là trường hợp duy nhất được trực tiếp lập làm Hoàng hậu.

Quy trình lễ của Nam Phương Hoàng hậu năm ấy:

Sách phong các Cung giai

Áo mũ và ấn bảo

Quy định mũ áo

thumb|trái|Áo mũ của Nam Phương hoàng hậu năm 1934. Đây là hình ảnh cụ thể hiếm hoi của bộ Triều bào dành cho Hậu phi thời Nguyễn.

  • Hoàng thái hậu: một mũ Cửu phượng, ở trán có một vòng đai bằng vàng. Áo là Áo bào dùng vải sa màu vàng chính sắc, thêu 5 chữ thọ bằng vàng, các hoạt tiết thủy ba (sóng nước) xen lẫn ngọc, san hô, bên trong lót vải sa mỏng có hoa, màu đỏ. Váy bằng tơ đậu 8 sợi có hoa, màu đỏ, trên váy thêu đoàn phượng (hoa văn tròn mang hình chim phượng) và hoa văn thủy ba. Quần bằng vải lĩnh trắng bóng. Hài bằng tơ lông vàng, thêu phượng, trân châu và san hô. Khăn quàng bằng đoạn gấm tàu màu vàng, thêu hoa mẫu đơn và chim phượng, lót thứ lụa màu vàng.
  • Hoàng hậu: một mũ Cửu phượng, để hở chỗ búi tóc, thân mũ dùng lông đuôi ngựa. Trán mũ đính các hình rồng bay phượng lượn bằng vàng, mỗi thứ 9 con; 9 miếng bồn khoan bằng bạc; một kẹp tóc chạm hình mây và hoa; 1 bác sơn. Trên mũ đính nhiều trang sức hình hoa, bướm, các chuỗi trân châu và pha lê. Khăn vấn màu xanh da trời, trong lót vải lĩnh màu vàng chính sắc. Khuyên tai 4 cái bằng vàng. Áo là áo Bào màu vàng chính sắc bằng tơ đậu 8 sợi thêu hoa và đoàn phượng, thủy ba, trong lót vải trừu hoa thêu chim phượng và 4 bông hoa đỏ. Cổ áo bằng vải nhiễu màu tuyết trắng, vải lĩnh trắng bóng. Váy bằng đoạn 8 sợi tơ đậu màu trắng thêu đoàn phượng màu vàng, lót và thắt lưng bằng lụa Cao bộ, màu tuyết trắng. Quần dùng vải lĩnh bóng, màu trắng. Hài bằng tơ lông màu đỏ, thêu chim phượng màu xanh lục.
  • Các bậc cung giai: Quy định về áo mũ Cung giai vẫn còn nhiều tranh luận và nghi vấn. Dẫn chứng duy nhất cụ thể về áo mũ Cung giai là một chỉ dụ ["ban thưởng"] vào năm Gia Long, nhưng đó chỉ là ban thưởng cho một dịp cụ thể, chứ không có điều gì chứng minh đây là quy chế cho Cung giai. Theo đó, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ghi lại, vào năm Gia Long thứ 6, nhà Vua cho soạn các hạng mũ áo để ban cho Hoàng hậu và các phi tần trong nội cung dùng. Hoàng hậu được ban 2 mũ Cửu long kim ước phát (tức mũ 9 rồng có kẹp tóc) bằng vàng; một mũ Cửu phượng có kẹp tóc bằng vàng; 8 trâm cài hình con phượng; 20 chiếc áo sa kép sợi vàng thêu rồng, phượng, chim trĩ, chim loan; một áo bào bằng tơ đậu 8 sợi màu đỏ thêu rồng phượng, một xiêm (tức váy) bằng tơ đậu 8 sợi màu trắng thêu rồng phượng.

Tả hữu Cung tần được ban thưởng như sau:

Cung tần bậc nhì: một chiếc mũ 5 con phượng với cặp tóc bằng vàng; 10 trâm hoa; một áo Nhật Bình màu xích đào (đỏ đậm) thêu đoàn loan (hoa văn tròn mang hình chim loan); một xiêm bằng tơ đậu 8 sợi màu trắng thêu đoàn loan.

Cung tần bậc ba: một chiếc mũ 3 con phượng với cặp tóc bằng vàng; 8 trâm hoa; một áo Nhật Bình màu tím chính sắc thêu đoàn phượng; một xiêm bằng tơ đậu 8 sợi màu trắng thêu đoàn loan.

Cung tần bậc bốn: một chiếc mũ 1 con phượng với cặp tóc bằng vàng; 8 trâm hoa; một áo Nhật Bình màu tía nhạt thêu đoàn loan; một xiêm bằng tơ đậu 8 sợi màu trắng thêu chim loan.

Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), vua định ra một số hạng mũ áo của các cung giai nội đình. Các cung tần bậc nhất và bậc nhì (tức Nhất giai và Nhị giai Phi) được ban mũ phượng bằng vàng với 3 bác sơn (một loại huy hiệu đính trên mũ), bậc Nhất giai có 8 con phượng, bậc Nhị giai có 7 con phượng. Còn bậc Tam giai Tần, chỉ cài trên búi tóc trâm phượng, còn Tứ giai và Ngũ giai không cài trâm để phân biệt.

thumb|Nam Phương hoàng hậu vấn Khăn vành dây, mặc áo Lễ phục Nhật Bình. Hình ảnh phổ biến của trang phục dịp lễ thời cuối Nguyễn.

Vào ngày thường, các Thái hậu, Hoàng hậu và Cung giai đến Nữ quan mặc áo ngũ thân dệt bằng nhiều loại chất liệu khác nhau như vải sa, trừ màu vàng dành cho bậc Thái hậu và Hoàng hậu, màu đen và màu trắng dành cho các dịp tang kỵ, thì còn lại đều khá tùy ý và không có quy định cụ thể thứ bậc. Tóc của các bà thường là rẽ giữa, chải gọn rồi búi sau gáy hoặc vấn bằng khăn, nhìn chung đều chuộng sự gọn gàng. Vào những dịp đại kỵ thời kỳ như thời Khải Định và Bảo Đại, có ghi nhận các bà thường sử dụng Khăn vành dây màu xanh lam đậm quấn thành nhiều vòng quanh đầu, bên ngoài khăn vấn.

Sách bảo, ấn phong

  • Hoàng thái hậu: sách phong của Thái hậu được làm bằng vàng 10 tuổi, có 5 tờ, tờ trước và tờ sau cùng chạm hình rồng và mây, các tờ ở giữa khắc sách văn. Kích thước các tờ: ngang 3 tấc 5 phân 1 ly, dài 6 tấc 3 phân 4 ly, dày 2 ly (tính theo hệ đo lường cổ của Việt Nam). Có 4 khuyên tròn bằng vàng xâu các trang lại với nhau. Sách vàng được đựng trong hòm bạc; xung quanh và nắp trên của hòm khắc hình rồng mây. Một hòm gỗ được sơn đỏ đựng ở ngoài của hòm bạc này. Bảo (tức con ấn) cũng được làm bằng vàng 10 tuổi như sách, cạnh vuông 2 tấc 4 phân, dày 4 phân. Núm cầm của ấn có hình rồng phục ngồi xổm, cao 1 tấc 5 phân. Ấn được khắc 4 chữ triện: ["Hoàng thái hậu bảo"], được đặt trong hộp gỗ, 4 góc bịt bằng bạc. Khăn phủ bằng gấm vàng. Hộp son bằng bạc.
  • Hoàng hậu: sách của Hoàng hậu không có gì khác biệt nhiều so với Thái hậu. Sách của Hoàng hậu cũng được làm bằng vàng 10 tuổi, nhưng có 6 tờ, tờ trước và tờ sau chạm hình rồng và mây, các tờ giữa khắc sách văn. Kích thước các tờ: ngang 3 tấc 5 phân, dài 3 tấc 5 phân, dày 2 ly. 4 khuyên tròn bằng vàng. Sách được cất trong hòm bạc như của Thái hậu, và bên ngoài là một hòm gỗ đỏ. Bảo cũng được làm bằng vàng 10 tuổi như sách, cạnh vuông 2 tấc 5 phân, dày 4 phân 5 ly. Núm cầm chạm hình 2 con rồng dâng ngọc châu, cao 1 tấc 5 phân. Ấn được khắc 4 chữ triện: ["Hoàng hậu chi bảo"], đựng trong hòm gỗ sơn đỏ, vẽ phượng và mây, thếp vàng. Hộp son bằng bạc.
  • Phi tần ngự thiếp: Sách của các phi tần ngự thiếp đều làm bằng bạc, riêng sách của bậc Phi thì mạ vàng. Sách có 5 tờ, tờ trước và tờ sau khắc hình mây và chim phượng, các tờ giữa khắc sách văn. Sách của Phi có kích thước: ngang 3 tấc 2 phân 4 ly, dài 5 tấc 4 phân. Sách của Cửu tần (các bậc Tam giai, Tứ giai và Ngũ giai) có kích thước: ngang 3 tấc 6 ly, dài 5 tấc 2 ly. Từ Tiệp dư xuống đến Tài nhân, sách có kích thước: ngang 2 tấc 9 phân 5 ly; dài 5 tấc. Hòm đựng sách của tất cả đều bằng gỗ sơn đỏ, 4 góc bịt bạc. Tài nhân vị nhập giai thì dùng trục lụa, màu vàng chính sắc, đậu 8 sợi tơ, chu vi thêu rồng mây, đầu trục dùng đồi mồi. Phi tần ngự thiếp không được ban ấn phong như bậc Hậu.

Đãi ngộ

Các ngài Thái hậu

thumb|[[Từ Cung Hoàng thái hậu.]] Hoàng thái hậu và Thái hoàng thái hậu là những bậc tôn quý nhất của triều Nguyễn. Trong khi không có Hoàng hậu mà chỉ có Phi tần, các Thái hậu là bậc Hậu đáng kể nhất, lại có vai trò trưởng bối nên luôn là người được cung phụng nhất.

Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), Thánh Tổ định hằng năm dâng cho Thái hậu 1.000 quan tiền, 1.000 phương gạo, lấy đó làm lệ thường. Sau đó các năm thứ 3 (1824) lại dâng thêm 10.000 quan tiền. Đến năm thứ 8 (1829) bàn định, cứ đầu năm mùa xuân là dâng lên 10.000 quan tiền, gặp kỳ Đại khánh thì nâng thành 50.000 quan tiền. Về sau, cứ có dịp trọng đại thì các Thái hậu lại được dâng thêm tiền mừng nữa.

Bắt đầu từ thời Nguyễn, vị hiệu của Thái hậu luôn độc tôn, dành cho mẹ ruột thân sinh của Hoàng đế, cũng bởi vì triều Nguyễn không lập ra vị trí Chính hậu. Triều Khải Định, Hoằng Tông vừa có Đích mẫu Nguyễn Hữu Thị Nhàn, vừa có Sinh mẫu Dương Thị Thục, bèn bắt đầu định ra khác biệt: Nguyễn Hữu thị tôn làm Hoàng thái hậu, còn Dương thị là Hoàng thái phi. Thực tế, danh vị [Hoàng thái phi] đã xuất hiện từ thời Hiệp Hòa, khi Phế Đế dâng tôn cho mẹ là Thụy tần Trương Thị Thận, rồi Giản Tông nghe theo quần thần tôn phong Dưỡng mẫu Học phi Nguyễn Văn Thị Hương. Triều Đồng Khánh, Cảnh Tông tước đi vị hiệu [Hoàng thái phi], đến triều Khải Định thiết đặt lại.

Năm Khải Định nguyên niên (1916). Tháng 5, ngày mồng 6, xuống sắc đón Hoàng nguyên từ (Nguyễn Hữu thị) cùng Hoàng lệnh từ (Dương thị) về thị hầu tại Tây Cung. Chuẩn hằng năm lấy ngày mồng 1 tháng 12 (ngày sinh của Nguyên Từ) làm Thánh Thọ tiết, còn ngày 26 tháng 3 (ngày sinh của Lệnh Từ) làm Tiên Thọ tiết, từ đó Hoằng Tông phân biệt gọi là [Thánh mẫu] cùng [Tiên mẫu]. Tháng 12 năm đó, dâng tôn hiệu Hoàng nguyên từ làm Hoàng thái hậu và Hoàng lệnh từ làm Hoàng thái phi. Trước đó ra sắc dụ như sau:

Năm Khải Định thứ 8 (1923), tháng 10, Hoằng Tông quyết định tôn Hoàng thái phi làm Hoàng thái hậu. Để phân biệt Đích-thứ khác biệt giữa hai cung, Hoằng Tông tôn Hoàng thái hậu huy hiệu Khôn Nguyên Hoàng thái hậu (坤元皇太后), còn Hoàng thái phi là Khôn Nghi Hoàng thái hậu (坤儀皇太后). Sang thời Bảo Đại, Hoàng đế tôn cả hai cùng làm Thái hoàng thái hậu, là trường hợp đồng tôn Thái hoàng thái hậu duy nhất trong lịch sử Việt Nam.

Hậu cung triều Nguyễn cũng xuất hiện một tước hiệu độc nhất, là Thái thái hoàng thái hậu. Nguyên do vì đến đời Vua Thành Thái, Từ Dụ Thái hậu vẫn còn sống, và theo vai vế trên tông pháp, cha của Vua Thành Thái là Vua Dục Đức, trở thành con trưởng của Vua Tự Đức, thì Thái hậu là bà cố nội của Vua Thành Thái, là ["Hoàng tằng tổ mẫu"]. Trong lịch sử các triều đại, chưa từng có sự việc như vậy, và Vua Thành Thái đã chế định tước tôn mới cho Thái hậu, là 「Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái thái hoàng thái hậu; 慈裕博惠康壽太太皇太后」. Năm Thành Thái nguyên niên (1889), chỉ dụ về tấn tôn cho Thái thái hoàng thái hậu như sau:

Sau khi tờ dụ truyền ra, nhà vua bèn sai bộ Lễ tuân bàn nghi lễ, Khâm thiên giám chọn ngày tốt, sai quan tế cáo với miếu điện, đến hôm ấy Vua Thành Thái đích thân suất lãnh hoàng thân cùng đình thần văn vũ bưng kim sách kim bảo dâng tôn hiệu. Lời sách nói:

Mẹ sinh của Hoàng đế

Từ đời Tự Đức, triều đình nhà Nguyễn đã xảy ra hiện tượng "lập Tự" - tức đem con trai dòng khác vào cung nhận làm con và cho quyền kế thừa. Vua Dực Tông không con, nên đã đem 3 người con của 2 người em khác của mình vào cung và giao cho Cung phi nuôi dạy. Cả về sau đều lên ngôi và có hậu duệ lên ngôi, chính là Vua Dục Đức (Cung Tông), Vua Kiến Phúc (Giản Tông) và Vua Đồng Khánh (Cảnh Tông). Trong ấy, Vua Cung Tông là con của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y, còn Giản Tông và Cảnh Tông là con của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai.

Do cả 3 được Vua Dực Tông nhận làm con, nên vấn đề gọi cha mẹ ruột cũng trở thành vấn đề để nghị bàn, nhìn chung cả 3 đều không thể tôn gọi cha mẹ ruột bằng danh xưng chính thống dành cho "Cha của Hoàng đế""Mẹ của Hoàng đế" như Thái thượng hoàng hay Hoàng thái hậu, mà chỉ có thể dùng tước Vương và bối phận [Hoàng thúc; 皇叔] để gọi cha, và [Hoàng thúc mẫu; 皇叔母] để gọi mẹ. Đây là bởi vì cả 3 đã là "con của Vua Dực Tông", mà Vua Dực Tông là anh cả của 2 người kia, nên cả 3 phải lấy thân phận con của Dực Tông gọi 2 vị là kia là chú (tức là thúc theo Hán Việt). Trong 3 vị Hoàng đế, Vua Cung Tông bị phế nên mãi đời Thành Thái thì thân phận của Thụy Thái vương và vợ ông mới được định, hơn nữa lúc ấy cả 2 đều đã qua đời, nên chỉ là truy tặng. Song vào thời điểm Giản Tông và Cảnh Tông lên ngôi, tuy Kiên Thái vương đã qua đời, nhưng mẹ của 2 vị là Phủ thiếp Bùi Thị Thanh vẫn còn sống. Do loạn lạc, việc tấn tôn cho Bùi thị đến năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) mới chính thức quyết.

Việc tấn tôn Bùi Thị Thanh cùng Hồng Cai đã là vấn đề phải ghi vào Đại Nam thực lục:

Bà Bùi Thị Thanh sống trải đời Thành Thái, đến năm thứ 12 (1900) thì qua đời. Trong thời Thành Thái, Khâm sứ đại thần Tá Quốc quận công Boulloche đề nghị triều đình nên cấp 2000 đồng cho bà chi tiêu. Vào lúc này, Bùi thị được gọi là ["Hoàng thúc tổ mẫu"; 皇叔祖母] do là bà thím của Hoàng đế. Khi bà qua đời, triều đình chọn tên thụy hiệu là Đoan Nhu (端柔), chuẩn trích 1.000 đồng trong Nội vụ phủ để thực hiện mai táng.

Cung phi tần thiếp

thumb|Ảnh được cho là của Phủ thiếp [[Trương Như Thị Tịnh.]] Từ đầu năm Gia Long, Khâm định Hội điển ghi chú lệ cấp bổng cung giai, Thế Tổ đã quy định lương bổng cho các cung phi. Lúc này hậu cung còn đơn giản, bậc 1 hằng năm lãnh 300 quan tiền, 180 phương gạo (trong đó có 12 phương gạo trắng). Thời ấy, một phương gạo tương đương 30 đấu, mỗi đấu khoảng 1 lít. Các bậc sau, đến bậc 7 giảm đã chỉ còn phân nửa so với bậc đầu.

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), định lệ cung phân của Nội đình: Hiền tần mỗi năm 350 quan tiền, 160 phương gạo. Tiệp dư mỗi năm 300 quan tiền, 120 phương gạo. Mỹ nhân mỗi năm 280 quan tiền, 72 phương gạo. Tài nhân mỗi năm 260 quan tiền, 60 phương gạo.

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Thánh Tổ đặt lại chức giai, cũng chuẩn định lệ cấp bổng lộc hằng năm:

  • Hoàng quý phi 1000 quan tiền, 300 phương gạo.
  • Nhất giai Phi 500 quan tiền, 250 phương gạo.
  • Nhị giai Phi 450 quan tiền, 200 phương gạo.
  • Tam giai Tần 400 quan tiền, 180 phương gạo.
  • Tứ giai Tần 350 quan tiền, 140 phương gạo.
  • Ngũ giai Tần 320 quan tiền, 120 phương gạo.
  • Lục giai Tiệp dư 300 quan tiền, 100 phương gạo.
  • Thất giai Quý nhân 280 quan tiền, 84 phương gạo.
  • Bát giai Mỹ nhân 260 quan tiền, 60 phương gạo.
  • Cửu giai Tài nhân 180 quan tiền, 48 phương gạo.

Năm thứ 19 (1838), dụ về cách đưa lương bổng. Sau này các bậc trong cung ai được tấn phong, theo lệ ngay trong tháng giêng thì cho theo lệ cấp lương cả năm. Còn ngoài ra từ tháng 2 đến tháng 7, thì cho lấy ngày mùng 1 tháng 7 bắt đầu, cấp thêm 6 tháng. Còn từ tháng 8 trở về sau, thì đợi đến tháng giêng sang năm cấp lương.

Trong cung đình, Nội vụ phủ sẽ chuyên cung cấp đồ dùng, lương thực cho cả Lục viện theo mùa hoặc theo tháng. Trong đó, có việc cung cấp quần áo vào mùa xuân và mùa đông hằng năm là lệ thường, chia đều cho các cấp bậc từ tần ngự đến Nữ quan Thị tỳ, chất liệu vải có rất nhiều, như nhiễu, đoạn, sa, lụa hoặc thậm chí có vải Tây dương. Nhưng theo phân lệ, bậc Phi cả quần và áo đều 8 cái; bậc Tần áo 8 cái và quần 7 cái; bậc Tiệp dư có 7 áo và 6 quần; Quý nhân cùng Mỹ nhân đều áo và quần có 6 cái; cuối cùng là Tài nhân (gồm cả Vị nhập giai) có 6 áo và 5 quần.

Năm Thành Thái thứ 2 (1890), lại có chuẩn nghị:"Phi tần từ các tiền triều, hiện từ bậc Nhất giai cho đến Thị nữ đều chiếu theo lệ cũ mà tăng gấp đôi". Theo đó chế độ lương bổng mới đạt hơn lệ thường, tuy nhiên lại bỏ đi mục chu cấp gạo như lệ cũ:

  • Hoàng quý phi 6200 quan tiền.
  • Nhất giai Phi 4500 quan tiền.
  • Nhị giai Phi 3700 quan tiền.
  • Tam giai Tần 3200 quan tiền.
  • Tứ giai Tần 2660 quan tiền.
  • Ngũ giai Tần 2320 quan tiền.
  • Lục giai Tiệp dư 2000 quan tiền.
  • Thất giai Quý nhân 1736 quan tiền.
  • Bát giai Mỹ nhân 1320 quan tiền.
  • Cửu giai Tài nhân 1032 quan tiền.
  • Vị nhập giai 912 quan tiền.

Cung nhân, Cung nga và Thị nữ

Đây là những Tần ngự ở Nội đình đông đảo nhất, nhiều hơn các Tần ngự có sách phong bậc Cung giai. Nhận định này được xác định thông qua sự xuất hiện các bài vị của Cung nhân, Cung nga, Thị nữ chiếm rất nhiều trong các điện thờ trên các lăng tẩm triều Nguyễn. Tuy nhiên, các Tần ngự này không có sách phong chính thức nào cả, là mức cơ bản nhất của người được chọn làm Tần ngự khi mới vào Nội đình, sau đó có biểu hiện tốt thì mới sách phong lên bậc cao (như các Dụ tần và Điềm tần thời Khải Định).

Hằng năm, Nội vụ phủ sẽ cung cấp đồ mùa xuân và mùa đông chia đều cho các cấp bậc từ tần ngự đến Nữ quan Thị tỳ. Các Cung nhân theo phân lệ nhận áo và quần năm cái; Cung nga có 5 áo và 4 quần; cuối cùng là Thị nữ có áo và quần đều bốn cái. Về danh vị, Cung nhân thường là mức của con nhà quan lại mới vào Nội đình, ngoài việc hầu cận Hoàng đế thì cũng như Cung ngaThị nữ, đều có thể được phân phó đến các cơ quan Lục thượng để làm nữ quan. Điều này chứng minh thông qua Hoàng triều Ngọc điệp bản Chính biên, liệt kê Xuân Lâm công chúa của Hiến Tổ có mẹ là Cung nga Nguyễn Viết Thị Lệ, thì:"Năm Minh Mạng thứ 6, thị hầu Tiềm để. Năm Thiệu Trị nguyên niên, sung vào hàng Cung nhân. Năm thứ 3, cho làm Cung nga ở Điển soạn của Thượng diên viện". Lại như Tài nhân Nguyễn Đăng Thị Nhã cũng là phi tần của Vua Hiến Tổ, từng là Thượng nghi viện Chưởng nghi Cung nhân (尚儀院掌儀宮人), tức bà vừa làm Cung nhân vừa kiêm nữ quan ở Chưởng nghi thuộc Thượng nghi viện.

Cũng như các Tần ngự có sách phong, Cung nhân, Cung nga, Thị nữ cũng có lương bổng nhưng lại không được đề cập trong bản Chính biên của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (kết thúc khoảng đời Tự Đức). Phải khi sang Tục biên thì mới ghi chép, nhưng đó là dụ chỉ ban hành bổng lộc mới triều Thành Thái, nên về cơ bản trước đó không rõ bổng lộc của bậc này là bao nhiêu. Theo đó:

  • Cung nhân 810 quan tiền.
  • Cung nga 624 quan tiền.
  • Thị nữ 432 quan tiền.

Ngoài ra, dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, các Hoàng đế lên ngôi sau khi Tiên Đế mất, liền thủ tang 3 năm, trong 3 năm đó không hề định chuyện sách phong Tần ngự long trọng vì sẽ phạm vào việc tang. Tuy vậy, các Tần ngự ở Tiềm để cũng theo địa vị mà có được 3 danh phận chính, là Cung tần (宮嬪), Cung nhân (宮人), Thị nữ (侍女). Sau khi hết tang kỳ, lần lượt các Tần ngự thuộc 3 hạng này sẽ được phân ra danh vị khác nhau, và tuy có trùng nhưng hàng Cung nhân trong thời gian này khác hẳn bậc Cung nhân thuộc quy chế chính quy. Điều này có thể thấy ví dụ ở trên, khi Cung nga Nguyễn Viết thị sung hàng Cung nhân, sau đó trở thành Cung nga của Thượng diên viện.

Nữ quan cùng Thị tỳ

Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), sau khi ban bố 9 bậc phi tần, Vua Thánh Tổ còn cho đặt Lục thượng ty (六尚司) do các phi tần kiêm chức nữ quan đảm nhiệm, định rõ chức phận giữ nội chính cho được tề chỉnh, lúc này thứ tự có:

  • Thượng nghi (尚儀), giữ nghi lễ tiết văn.
  • Thượng trân (尚珍), giữ châu ngọc quý báu.
  • Thượng khí (尚器), giữ những đồ đạc quý.
  • Thượng phục (尚服), giữ chầu, nệm, giường, màn.
  • Thượng thực (尚食), giữ các loại bánh trái quà mọn.
  • Thượng y (尚衣), giữ việc áo xiêm.

Quản lý Lục thượng ty này lại chia làm các bậc nữ quan, bao gồm:

[Thủ đẳng; 首等], tức Bậc đầu, là chức Quản sự (管事) của Lục thượng, cùng Tư nghi (司儀) và Tư trân (司珍).

[Thứ đẳng; 佽等], tức Bậc thứ, là chức Thống sự (統事) của Lục thượng, cùng Tư hương (司香) và Tư khí (司器).

[Trung đẳng; 中等], tức Bậc giữa, là chức Thừa sự (承事) của Lục thượng, cùng Tư y (司衣) và Tư thảng (司帑).

[Á đẳng; 亞等], tức Bậc á, là chức Tùy sự (隨事) của Lục thượng, cùng Quản ban (管班) của các ban.

[Hạ đẳng; 下等], tức Bậc dưới, là chức Tòng sự (從事) của Lục thượng, cùng Lãnh ban (領班) của các ban.

[Mạt đẳng; 末等], tức Bậc cuối, có chức Mục (目; tương đương Trưởng ban) của các ban và Cung nô Đầu mục (宮奴頭目).

Trong Hội điển cũng ghi lại, quản lý mọi việc là bậc Thủ đẳng, thâu tóm mọi việc là bậc Thứ đẳng, thừa hành mọi việc là bậc Trung đẳng, còn Á đẳng trở xuống là lệ thuộc trực tiếp trong phạm vi mỗi ban, các ban đều có lịch trình riêng phân biệt nhau, gồm 8 ban là: ban Thiều Quang, ban Thuỵ Nhật, ban Kim Hoa, ban Hương Cẩm, ban Tường Loan, ban Nghi Phượng, ban Tiên Quế và ban Ngọc Mai. Vào lúc này thì từ bậc Thủ đẳng đến bậc Hạ đẳng, khi sách phong đều ban cáo sắc bằng giấy Long tiên trục. Bậc Mạt đẳng, do bộ Lễ tuyên sắc, và từ bậc Hạ đẳng trở lên nếu có thự hàm, thì cho các sắc chỉ tuyên phong đều dùng giấy Hội sao. Sau khi viết các trục cáo sắc cho nữ quan, đều để vào trong hòm gỗ màu đỏ son, các quan bộ Lễ giao cho Cung giám (tức các quan thái giám), rồi từ Cung giám truyền cho nữ quan ấy nhận lĩnh. Các nữ quan kính nhận, để trên hương án, làm lễ 3 lần quỳ, 6 lần vái. Về sau nếu có cáo sắc nhận ơn, đều đến trước mặt Hoàng đế làm lễ 3 lạy 6 vái như trên. Khi bị giáng chức, thì do Cung giám trực tiếp truyền chỉ.

Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), Vua Hiến Tổ cho dụ đổi cách gọi Lục thượng ty thành Lục thượng viện (六尚院), lại cho đặt thêm các cơ quan nhỏ trong Lục thượng để cai quản tỉ mỉ và trực tiếp hơn so với khi trước. Hoàn thiện thêm chế độ Lục thượng gồm:

  • Thượng nghi (尚儀), coi việc giữ giấy tờ trong nội cung. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng nghi (掌儀), Chưởng lễ (掌禮). Bậc thứ gọi là Tư hương (司香), Tư chương (司章). Bậc trung gọi là Điển thư (典事), Điển hàn (典翰).
  • Thượng diên (尚筵), đổi từ Thượng thực, hầu ngự thiện và phụng tiến các thức ăn. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng diên (掌筵), Chưởng yến (掌宴). Bậc thứ gọi là Tư trà (司茶), Tư thiện (司膳). Bậc trung gọi là Điển soạn (典僎), Điển dao (典醪).
  • Thượng trân (尚珍), coi giữ ngọc châu, trân bảo. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng châu (掌珠), Chưởng ngọc (掌玉). Bậc thứ gọi là Tư kim (司金), Tư ngân (司銀). Bậc trung gọi là Điển hoàn (典鍰), Điển mân (典緡).
  • Thượng y (尚衣), phụng hầu mũ áo và coi giữ xiêm y bốn mùa. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng bào (掌袍), Chưởng cừu (掌裘). Bậc thứ gọi là Tư y (司衣), Tư phi (司緋). Bậc trung gọi là Điển nhu (典襦), Điển chẩn (典袗).
  • Thượng phục (尚服), coi việc màn trướng. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng duy (掌帷), Chưởng vi (掌幃). Bậc thứ gọi là Chưởng thường (掌裳), Chưởng đới (掌帶). Bậc trung gọi là Điển khâm (典衾), Điển nhục (典褥).
  • Thượng thảng (尚帑), vốn là Thượng khí, coi giữ nội khố. Trong đó chia ra các bậc quản lý: :: Bậc đầu gọi là Chưởng trân (掌珍), Chưởng ngoạn (掌玩). Bậc thứ gọi là Tư thảng (司帑), Tư khí (司器). Bậc trung gọi là Điển cẩm (典錦), Điển thái (典采).

Cũng trong năm Thiệu Trị thứ 3, cũng xuống dụ cho đổi tên một số cơ quan: Điển soạn của Thượng diên thành Điển tư (典司); Tư kimTư ngân của Thượng trân đổi thành Tư cung (司供), Tư trân (司珍); Điển hoàn cùng Điển mân cũng đổi thành Điển kim (典金), Điển ngân (典銀). Chức năng của các bậc nữ quan vẫn như cũ, chỉ là đã được cụ thể hóa hơn ở từng cơ quan.

Bổng lộc của 6 bậc nữ quan, bao gồm:

  • Quản sự (管事), lương bổng hằng tháng 6 quan tiền, 3 phương gạo.
  • Thống sự (統事), lương bổng hằng tháng 5 quan tiền, 2 phương gạo.
  • Thừa sự (承事), lương bổng hằng tháng 4 quan tiền, 2 phương gạo.
  • Tùy sự (隨事), lương bổng hằng tháng 3 quan tiền, 1 phương gạo.
  • Tòng sự (從事), lương bổng hằng tháng 2 quan tiền, 1 phương gạo.
  • Trưởng ban (長班), lương bổng hằng tháng 1 quan 5 tiền, 1 phương gạo.

Triều Thành Thái, thay đổi về lương bổng, hé lộ ra thêm nhiều thân phận khác. Lệ dưới là lương bổng cả năm:

  • Quản sự 528 quan.
  • Thống sự 384 quan.
  • Thừa sự 360 quan.
  • Tùy sự là Tôn nữ 336 quan, Tùy sự bình thường 276 quan.
  • Tòng sự là Tôn nữ 276 quan; Tòng sự bình thường 216 quan.
  • Quản ban 276 quan.
  • Lĩnh ban 216 quan.
  • Trưởng ban 216 quan.
  • Riêng có: Công nữ phụng trực 336 quan, Tôn thất nữ phụng trực 252 quan.

Những hạng dưới bậc Nữ quan, là các Cung tỳ:

  • Nhũ bảo (乳保) 72 quan, 12 phương gạo.
  • Lão tỳ (老婢) 60 quan, 12 phương gạo.
  • Ni nhân (妮人) 48 quan, 12 phương gạo.
  • Quan nô (官奴), hay Cung nô (宮奴): ::Đại đầu mục (大頭目) 48 quan 12, phương gạo.
    Tiểu đầu mục (小頭目) 43 quan, 12 phương gạo.
  • Nội thị khoá nữ (內侍課女) 36 quan.
  • Cung nghi (宮儀) 28 quan 8 tiền, 12 phương gạo.
  • Ban nhân (班人) và Nô nữ (奴女) đều 24 quan, 12 phương gạo.

Lệ cấp quần áo mùa xuân và mùa đông, từ trước Tự Đức đã có ban bố. Theo đó, các Quản sự 6 áo và 5 quần; bậc Thống sự có áo và quần đều năm cái; bậc Thừa sự có 5 áo và 4 quần; bậc Tùy sự áo bốn cái quần ba cái; bậc Tòng sựQuản ban áo quần đều ba cái; Lĩnh banTrưởng ban tầm 3 áo và 2 quần. Các Nữ quan và Cung tỳ cũng có các nhân sự được phái sang Cung Diên Thọ, hầu hạ người phụ nữ tôn quý nhất hoàng thất, nên là những nhân sự "Túc trực" riêng trong Nội đình.

Sinh hoạt nội đình

Nơi ở

Các bậc Hoàng hậu, Hoàng thái hậu và Hoàng thái phi theo ghi chép trú tại những cung điện lớn nhất trong dãy Hoàng thành Huế, đó là:

  • Diên Thọ cung (延壽宮): tên cũ Trường Thọ cung (長壽宮) hay Từ Thọ cung (慈壽宮), xây năm Gia Long thứ 3 (1804), đây từng là cung thất của Hiếu Khang hoàng hậu, mẹ vua Gia Long. Qua các đời triều Nguyễn, đây là cung thất tôn quý nhất, dành cho người phụ nữ có địa vị tôn quý nhất trong hoàng thất.
  • Trường Sinh cung (長生宮): tên cũ Trường Ninh cung (長寧宮), xây năm Minh Mạng thứ 3 (1822), vốn là một khu vườn. Khi Trang Ý Hoàng thái hậu được rước về, tôn xưng Hoàng thái hậu, thì nơi này cũng sửa sang làm cung thất cho ngài Thái hậu. Trang Ý Hoàng thái hậu đến khi trở thành Thái hoàng thái hậu cũng đều cư trú tại cung này.
  • Khôn Thái điện (坤泰殿): nguyên tên Khôn Nguyên cung (坤元宮), xây dựng năm Gia Long thứ 6 (1807), n
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Bức tranh 《Vạn quốc lai triều đồ》 vẽ Hậu phi của [[Càn Long Đế.]] **Hậu cung Nhà Thanh** (chữ Hán: 清朝後宮; _"Thanh triều Hậu cung"_) là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
Hành cung nhà Nguyễn là các kiến trúc mà các vua nhà Nguyễn cho xây dựng để nghỉ lại mỗi lần đi tuần quanh khu vực kinh thành Huế. ## Danh sách các hành cung
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Diệc Liên Chân Bát Lạt** (tiếng Hoa: 亦怜真八剌; ? - ?) là một Hoàng hậu của Nguyên Thái Định Đế hay Nguyên Tấn Tông Dã Tôn Thiết Mộc Nhi, Hoàng đế thứ sáu của triều
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Trần Hạo** (chữ Hán: 陈颢, 1264 – 1339), tự **Trọng Minh**, người Thanh Châu, Sơn Đông, quan viên nhà Nguyên. Thời Nguyên Vũ Tông, ông được chỉ định là người đứng đầu Phật giáo. Thời
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Lưu Túc** (chữ Hán: 刘肃, 1188 – 1263), tên tự là **Tài Khanh**, người huyện Minh Thủy, phủ Uy Châu , quan viên cuối đời Kim, đầu đời Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Trương Huệ** (chữ Hán: 张惠, 1223 hoặc 1224 – 1285), tên tự là **Đình Kiệt**, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , là quan viên nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự **Bang Kiệt**, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên. ## Thiếu thời Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo,
**Nguyễn Tạo** (; 1822 – 1892), nguyên danh **Nguyễn Công Tuyển** (), tự **Thăng Chi**, là quan viên nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Công Tuyển quê ở làng Hà
**Trần Xuân Hòa** (? - 1862), là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1862, ông bị quân Pháp bắt được khi đang cầm quân trấn giữ Định Tường, sau đó ông đã
**Nguyễn Văn Trình** (chữ Hán: 阮文珵; 1872 - 1949), tự **Lục Quang**, hiệu **Thạch Thất**, **Thốc Sơn**, là một danh sĩ Nho học Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. ## Cuộc
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là một tước hiệu dành cho nữ giới, thường được phong cho con gái Hoàng đế. Tước hiệu này cũng được dùng để phong cho một số người phụ nữ
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]] **Thoại Ngọc hầu** (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là **Nguyễn Văn Thoại** (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch
nhỏ|Di cốt còn sót lại của Tả phu nhân, một trong những người vợ của vua [[Triệu Văn Vương|Triệu Văn Đế]] nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu Dương Vân Nga ở Hoa Lư, người duy
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi** (chữ Hán: 敏惠恭和元妃; 1609 – 1641), được biết đến với tên gọi **Hải Lan Châu** (海蘭珠), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thái Tông Hoàng
nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long **Bửu tỷ triều Nguyễn** hay **bảo tỷ triều Nguyễn** là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ
**_Hậu cung Chân Hoàn truyện_** (chữ Hán: 后宫甄嬛传) là một tiểu thuyết chương hồi thể loại cổ trang, cung đấu của tác giả Lưu Liễm Tử (流潋紫), gồm 7 tập. Được xuất bản vào năm
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Đỗ Anh** (chữ Hán: 杜瑛, 1204 – 1273), tên tự là **Văn Ngọc**, hiệu Câu Sơn, người huyện Tín An, phủ Bá Châu , là ẩn sĩ, học giả cuối đời Kim, đầu đời Nguyên
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Hàn Chính** (chữ Hán: 韩政, ? – ?), tự **Quân Dụng**, người Ích Đô , tướng lãnh đầu đời Nguyên. ## Cuộc đời và sự nghiệp Cha là Hàn Tùng Chi, theo Tứ phò mã
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
Cung Giũ Nguyên **Cung Giũ Nguyên** (28 tháng 4 năm 1909 – 7 tháng 11 năm 2008) là một nhà văn, nhà báo Việt Nam gốc Hoa được biết đến với những tác phẩm tiếng
thumb|Nhà nguyện Thánh Michael & Thánh George, [[Nhà thờ chính tòa Thánh Paul, Anh.]] **Nhà nguyện** (còn gọi là nguyện đường, nguyện thất) là một địa điểm tôn giáo để tập hợp, cầu nguyện và
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Nam Phương Hoàng hậu** (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 11 năm 1913 – 15 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Bốc Đáp Thất Lý**(;tiếng Hoa: 卜答失里; 1305 - 1340), nguyên phối và là chính thất Hoàng hậu của Nguyên Văn Tông Đồ Thiếp Mục Nhi, Hoàng đế thứ 8 và thứ 10 của triều Nguyên
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Võ Thị Duyên** (chữ Hán: 武氏緣, 20 tháng 6 năm 1828 - 3 tháng 6 năm 1902) hay còn gọi **Lệ Thiên Anh hoàng hậu** (儷天英皇后) là chính thất của Nguyễn Dực Tông Tự Đức,
nhỏ|Tượng [[Đại Thắng Minh Hoàng Hậu ở Hoa Lư, người duy nhất làm hoàng hậu 2 triều trong lịch sử Việt Nam.]] **Hoàng hậu nhà Đinh** theo ghi chép trong chính sử gồm 5 Hoàng
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của