✨Nguyễn Trọng Hợp (nhà Nguyễn)

Nguyễn Trọng Hợp (nhà Nguyễn)

Nguyễn Văn Tuyên (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự Trọng Hiệp (仲合), hiệu Kim Giang (金江), biệt hiệu Quế Bình Tử (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ Tự Đức đến Thành Thái. Ông là vị quan khoa bảng, thi đỗ Tiến sĩ, thăng tiến qua tất cả cấp bậc quan chế triều Nguyễn, có thời gian làm quan Kinh lược, rồi quay về Huế làm Đệ nhị phụ chính Đại thần, chức vụ cao nhất trong triều đình dưới thời Pháp thuộc.

Lịch sử

Nguyễn Văn Tuyên (các tài liệu trước thập niên 1990 chiểu phép kiêng húy thường gọi ông là Nguyễn Trọng Hiệp) quán tại Kim Lũ xã, Mỹ Đình tổng, Thanh Trì huyện, Thường Tín phủ, Hà Nội tỉnh, Bắc Kỳ nội trấn (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội), thi đỗ Cử nhân tại trường Hà Nội, khoa Mậu Ngọ (1858) Tự Đức thứ 11.

Ông là con của Nguyễn Văn Cư (1798-1852), đỗ Cử nhân năm Tân Mão (1831), làm quan đến chức Ngự sĩ. Nguyễn Trọng Hiệp là cháu bốn đời của Nguyễn Công Thái (1684-1758), đỗ tiến sĩ khoa Ất Vị (1715), làm quan đến chức Tể tướng (năm lần).

Sự nghiệp

  • Trước Hòa ước Giáp Tuất Nguyễn Trọng Hiệp là học trò của cụ Đông Tác Tiến sĩ Nguyễn Văn Lý. Sau khi đỗ cử nhân (1858) Nguyễn Trọng Hiệp được Tùng Thiện Vương, một ông hoàng con của vua Minh Mạng, đem về nuôi dạy trong nhà.

Năm 1873 khi Francis Garnier vừa chiếm đóng thành Hà Nội, ông được vua Tự Đức phái ra Bắc để cùng Trần Đình Túc và Bùi Ân Niên lo việc chiêu tập quân dân để đối phó với quân xâm lăng. Lúc quân Pháp đánh chiếm Hưng Yên, Nam Định và mấy tỉnh khác vua sai Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hiệp đi bàn hội với Pháp tại thành Hà Nội. Trong khi đang thương thuyết thì Francis Garnier bỏ ra ngoài thành đi đánh nhau với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc rồi bị giết ở Cầu Giấy.

Garnier mất, quân tướng Pháp tiêu hết nhuệ khí, nhưng bề ngoài vẫn muốn giữ thể diện, nên đã bầu ra một viên quan hai lo việc đàm phán. Trần Đình Túc cho là người Pháp thôi tranh chiếm, sợ mất hòa khí, liền sai Nguyễn Trọng Hiệp và Trương Gia Hội đến nơi quân thứ yêu cầu Hoàng Tá Viêm và Tôn Thất Thuyết án binh bất động và rút cánh quân của Lưu Vĩnh Phúc về vùng biên giới.

  • Sau Hòa ước Giáp Tuất nhỏ|phải|Quan chánh chủ khảo Nguyễn Tuyên (áo sáng) cùng toàn quyền tổng thống đại thần [[Paul Doumer và phó chủ khảo Cao Xuân Dục (áo tối) nhận lễ bái của cống sĩ đăng khoa, trường thi hương Nam Định năm 1897.]] nhỏ|phải|Chân dung quan kinh lược Nguyễn Tuyên năm 1902 tại [[Hà Nội.]] Sau Hòa ước Giáp Tuất (1874) Nguyễn Trọng Hiệp được bổ ra làm Tổng đốc Định-Yên (tức Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên ngày nay). Theo Đại Nam thực lục từ tháng 12 năm Quý Dậu (tức đầu năm 1874), Nguyễn Trọng Hiệp đang giữ chức Tuần phủ Hà Nội, cùng Trần Đình Túc đang là Tổng đốc Định-Yên, đổi chức cho nhau để Trọng Hiệp về Định-Yên, còn Đình Túc về Hà-Ninh. Trong bảy năm ông có những chính sách như: giảm thuế, cho dân quê được giải ngũ để về làm ruộng. Ông phản đối việc giao cho các công ty độc quyền thâu thuế... Trong vài năm, Nguyễn Trọng Hiệp liên tục dâng điều trần xin mở rộng thông thương buôn bán, học hỏi khoa học kỹ thuật của nước ngoài, gửi sứ bộ đến các nước ngoài và đặt lãnh sự trong Việt Nam, rồi Thượng thư bộ Lại và Thương bạc đại thần. Trong khi chính phủ Pháp thời các thủ tướng Jules Ferry và Léon Gambetta, nhấn mạnh chính sách đô hộ, và trong đó đánh chiếm Việt Nam là một mục tiêu rõ rệt. Cho nên Henri Rivière với 500 quân lính đánh chiếm thành Hà Nội ngày 25 tháng 4 năm 1882, rồi mỏ Hồng Gai tỉnh Quảng Yên, thành Nam Định (27 tháng 3 năm 1883).

Sau khi Henri Rivière bị giết, quân Pháp đem sang An Nam 4 ngàn tay súng và bắt đầu tấn công cửa biển Thuận An (18 tháng 8 năm 1883). Triều đình Huế lúng túng vì vua Tự Đức mới mất (19 tháng 7 năm 1883). Vua Hiệp Hòa vừa lên ngôi, triều đình sai Trần Đình Túc làm Khâm sai toàn quyền, Nguyễn Trọng Hiệp làm phó dự hòa đàm, sử gọi là Hòa ước năm Quý Mùi (1833) vào ngày 20 tháng 8 năm 1883. Ngày 22 tháng 8, Harmand đưa ra bản hiệp ước và đe dọa tiếp tục gây hấn. Nguyễn Trọng Hiệp cùng Chánh sứ Trần Đình Túc thêm bốn chữ "kể cả Trung quốc" ký hiệp ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883). Hiệp ước này thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, đồng thời chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, chính thức chấm dứt nền độc lập của Việt Nam. Ký xong, vua Hiệp Hòa lại cử Khâm sai Nguyễn Trọng Hiệp ra Bắc vì ở vùng này quân Pháp và quân Thanh còn giao chiến. Nguyễn Trọng Hiệp xin vua triệu Hoàng Tá Viêm, đang kháng cự quân Pháp ở vùng Sơn-Hưng-Tuyên, về kinh và để phía Pháp tự liệu với nhà Thanh.

Các tài liệu lịch sử Pháp ghi nhận, 16 tháng sau (tháng 3-1885) cuộc thất bại của quân Pháp ở Lạng Sơn truất chính phủ Jules Ferry và làm xáo trộn đường lối chính trị nước Pháp đến mức mà nhà sử học Pháp Charles Fourniau viết (tạm dịch): "Ta có thể nói rằng cái chính trị của Cộng hòa đệ Tam Pháp mất tiêu ở Lạng Sơn giống như cái chết của Cộng hòa đệ Tứ ở Điện Biên Phủ?".

Lúc vua Hiệp Hòa mất (23-11-1883) Nguyễn Trọng Hiệp còn ở Bắc. Sau khi vua Kiến Phúc lên ngôi (2-12-1883), Nguyễn Trọng Hiệp trẩy kinh đem việc thương thuyết không kết quả xin giải chức đợi tội. Tháng 2 năm 1884 ông về Thanh Hóa hạ chức xuống Sơn phòng phó sứ cho đến tháng 8 năm 1884. Sau đó ông làm Tổng đốc Sơn-Hưng cho đến tháng 4 năm 1886 . Cùng lúc ấy Hiệp ước Patenôtre (6-6-1884) được ký, và một tháng sau vua Kiến Phúc mất (31-7-1884), vua Hàm Nghi lên ngôi (2-8-1884). Nguyễn Trọng Hợp không có mặt ở kinh thành lúc cuộc tấn công sứ quán Pháp thất bại (5-7-1885). Sau đó phong trào Cần Vương nổi lên. Khi Đồng Khánh lên ngôi (19-9-1885) vua gọi Nguyễn Hữu Độ về kinh và đưa Nguyễn Trọng Hiệp lên thay Nguyễn Hữu Độ với chức Kinh lược Bắc Kỳ.

Thời gian này, phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng vẫn lan tỏa khắp Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tại vùng Bãi Sậy khi đó thuộc Hải Dương, quan Tán tương quân vụ là Nguyễn Thiện Thuật và Đề đốc Tạ Hiện còn kháng cự người Pháp quyết liệt. Nguyễn Trọng Hiệp, lấy danh nghĩa là quyền kinh lược sứ Bắc Kỳ, đã sai quyền Tổng đốc Hải Dương là Hoàng Cao Khải làm chức Tiểu phủ sứ đi đánh dẹp Khởi nghĩa Bãi Sậy.

Nguyễn Trọng Hiệp vẫn giữ chức kinh lược sứ Bắc Kỳ khi Paul Bert thay de Courcy làm Khâm sứ (8-4-1886). Paul Bert là một nhà động vật học, sinh lý học và chính khách có tiếng, một nhân vật trong phe Cộng hòa, với một tư tưởng là phải truyền bá "Ánh sáng Tiến bộ" để lấy lại thể cường quốc của nước Pháp. Ông trước kia giữ chức Bộ trưởng Giáo dục lại tỏ ra khâm phục hệ thống giáo dục Nho giáo. Tuy nhiên, Paul Bert thi hành ẩu trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, dự án đường sắt Hà Nội-Lạng Sơn khác hẳn mấy người Khâm sứ trước.

Năm sau (1887), vua Đồng Khánh gọi Nguyễn Trọng Hiệp về kinh với chức Thượng thư bộ Lại, Tổng tài Quốc sử quán, Đại thần Cơ Mật viện, Văn Minh Đại học sĩ. Nhưng vì chuyện bất đồng không rõ, Nguyễn Trọng Hiệp đệ đơn xin về nghỉ. Vua không chấp nhận, Nguyễn Trọng Hợp bèn cáo ốm rồi về quê. Tuy thế ông vẫn tiếp tục làm việc dến lúc Đồng Khánh mất (28-1-1889).

Vua Đồng Khánh mất, triều đình cử Nguyễn Trọng Hiệp cùng Trương Quang Đán lên làm Đệ nhị phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, Đệ nhất phụ chính là Tuy Lý Vương Miên Trinh, Đệ Tam phụ chính là Nguyễn Thân. Theo Paul Doumer, Đệ nhất phụ chính đã già và không có quyền hành, 2 vị đệ nhị và đệ tam mới là người đứng đầu triều đình.

Năm 1898 ông xin về trí sĩ và được triều đình chuẩn thuận. Đến năm 1902 ông mất vì bạo bệnh, thọ 68 tuổi.

Di sản

Kim Giang thi văn toàn tập (金江詩文全集) gồm lại 400 bài thơ nôm của Nguyễn Trọng Hiệp. Trong có một bài mà Vũ Tuấn Sán ở Viện nghiên cứu Hán Nôm cho là "hiếm thấy nếu không phải là duy nhất" : :Nay vâng mệnh triều đình đi sứ :Sắc cầm tay khó xử muôn phần :Không đi mang tội khi quân :Đi thì mang tiếng phản dân cầu hòa :Nếu biết trước ở nhà làm ruộng :Còn hơn làm ông thượng ông quan :Mấy lời nhắn nhủ thế gian :Học để mà biết làm quan đừng màng Khi sang Pháp, ông sáng tác tập Tây tra thi tập (西楂詩集), đã được in và dịch ra tiếng Pháp, dưới đây là đoạn thơ đầu tiên: :Ca La lập nên quốc gia hùng cường trên nền tảng vững chãi :Hơn ngàn năm nay đất nước tươi đẹp phồn thịnh đứng giữa trời Âu :Đoàn đi sứ tới đây gặp dịp mùa xuân ấm áp, thoáng đãng :Xe vừa dừng hứng khởi trào dâng, liền làm bài phú ca ngợi đất nước này

Ảnh hưởng

Tên ông (gồm họ và biểu tự) được đặt cho công lộ tại thị xã Hương Thủy (Huế) và quận Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng).

Truyền thông

Năm 2000, trong quá trình khai thác tư liệu quốc tế để tiến tới sản xuất phim Minh Thành hoàng hậu, ban chế tác điện ảnh đài KBS đã dựa vào một bức ảnh trắng đen màu hóa trên Internet của Pháp để thiết kế y phục nhân vật Hưng Tuyên Đại Viện Quân thời kì nhiếp chính (vai Đại Viện Quân do Yoo Dong-geun thủ diễn), năm 2012 đài MBC cũng phỏng bức ảnh này để sản xuất phim Dr. Jin (vai Đại Viện Quân do Lee Beom-soo thủ diễn). Tuy nhiên, đến năm 2015, facebooker Sơn Nam Tử đã phát hiện bức ảnh kì thực là chân dung quan đại thần Nguyễn Tuyên triều Nguyễn, dựa theo quy chế phục sức được tường bày trong ấn phẩm Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức.

Sự nhầm lẫn này khởi thủy từ năm 1979, khi đức cha Jeong Soon-jae giám mục giáo phận Daegu mua lại bản sao bức ảnh từ linh mục Louis Delande (Pháp). Trong thời gian khá lâu, bản sao này lại được chép thành nhiều bản đem trưng bày tại các triển lãm lịch sử Đại Hàn Dân Quốc, dẫn tới sự cố dây chuyền trên màn ảnh nhỏ.

Hình:The late Regent, Prince Tai-Wun.jpg|Chân dung Hưng Tuyên Đại Viện Quân những năm cuối đời, được một ấn phẩm Mỹ công bố tại New York năm 1906. Hình:Annamese officer Nguyen Van Tuyen.png|Bức chân dung quan đại thần Nguyễn Tuyên thuở nhiệm kinh lược Bắc Kỳ bị nhầm với Hưng Tuyên Đại Viện Quân. Hình:Ceremonial dress of Marshall Nguyen Tri Phuong taken as a trophy by Garnier in the capture of Hanoi in 1873.jpg|Quan phục của tổng đốc Nguyễn Tri Phương tại bảo tàng quân sự Pháp (Musee de l'Armee) trùng với kiểu áo của quan kinh lược Nguyễn Tuyên. Hình:National Museum Vietnamese History 67.jpg|Mãng bào văn ban chánh nhị phẩm màu cam bích chỉ dành cho các trọng thần triều Nguyễn không nhất thiết xuất thân hoàng phái, các tư liệu Hàn Quốc tưởng nhầm màu đen.
### Văn hóa Đánh giá về Nguyễn Trọng Hiệp báo _Hà Nội Mới_ điện tử có viết: "_...Nguyễn Trọng Hiệp làm quan vào giai đoạn thực dân Pháp đã đánh chiếm xong miền Bắc và đặt ách thống trị lên toàn đất nước ta. Trong suốt cuộc đời làm quan, tuy không thuộc phe chủ chiến song theo nhìn nhận của các nhà sử học Nguyễn Trọng Hợp là ông quan yêu nước, thương dân, đồng thời là một nhà văn hóa có những cống hiến đáng kể về phương diện sử học, văn học..._". "_Ông có một thái độ cởi mở đối với một số nhà nho đường thời_ " - nghiên cứu viên Phạm Văn Thám.
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Văn Trương** (; 1740 - 1810), là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định, và là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
:''Về vợ của vua Chiêu Thống đời Hậu Lê, xem Nguyễn Thị Kim (hoàng phi) **Nguyễn Thị Kim** ( – ) là nhà điêu khắc và họa sĩ Việt Nam. Bà là nhà điêu khắc
Bàn thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại khu đền mộ ở Tân An. **Nguyễn Huỳnh Đức** (chữ Hán: 阮黃德; 1748 - 1819) là danh tướng và là công thần khai quốc của nhà Nguyễn. Ông là
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Nhà thờ chính tòa Roskilde** (tiếng Đan Mạch: _Roskilde Domkirke_), tại thành phố Roskilde trên đảo Sjælland là 1 nhà thờ kiểu kiến trúc Gothic được xây bằng gạch đầu tiên ở Bắc Âu. Nhà
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
nhỏ|239x239px|Chân dung ông Thân Trọng Huề **Thân Trọng Huề** (申仲, 1869-1925), tự là **Tư Trung**; là danh thần và danh sĩ cuối triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là ông ngoại của Trần
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
thumb|[[Bảng tuần hoàn]] **Nguyên tố hóa học**, thường được gọi đơn giản là **nguyên tố**, là một chất hóa học tinh khiết, bao gồm một kiểu nguyên tử, được phân biệt bởi số hiệu nguyên
**Tết Nguyên Đán** (còn gọi là **Tết Cả**, **Tết Ta**, **Tết Âm lịch**, **Tết Cổ truyền**, **Tết Á Đông** hay đơn giản là **Tết**) là dịp lễ đầu năm mới theo âm lịch của Việt
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Hành chính Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh bộ máy cai trị từ trung ương tới địa phương của chính quyền nhà Nguyễn trong thời kỳ độc lập (1802-1884). Bộ máy cai trị của nhà
**Nguyễn Phú Trọng** (14 tháng 4 năm 1944 – 19 tháng 7 năm 2024) là một chính khách, nhà báo người Việt Nam. Ông từng đảm nhiệm chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Phaolô Nguyễn Thái Hợp** (sinh ngày 2 tháng 2 1945) là một giám mục Công giáo tại Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Hà
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
nhỏ|upright=1.3|Hai [[Mái vòm của Nhà thờ Mộ Thánh, Mái vòm bên trên Rotunda ở trên nóc có lá cờ Thập Tự Thánh Georges và mái vòm nhỏ hơn ở phía trên Catholicon, Tháp giáo đường
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật** (tiếng Anh: _Science and Technics Publishing House_) thành lập năm 1960 tại Việt Nam theo quyết định số 185-KHH/QĐ (ngày 09 tháng 6 năm 1960) của Ủy
**Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật** là 1 trong 2 lĩnh vực của Giải thưởng Nhà nước, do Chủ tịch nước Việt Nam ký quyết định, tặng thưởng cho những tác giả
**Nguyễn Hồng Nghi** (19 tháng 12 năm 1918 – 12 tháng 2 năm 1991) là một trong những nhà nhiếp ảnh, đạo diễn điện ảnh tiên phong của điện ảnh cách mạng Việt Nam, nguyên
**Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Maria hồn xác lên trời** () là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo México. Nhà thờ tọa lạc trên đỉnh khu vực linh thiêng của người Aztec
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
Vị trí vùng Tây Nguyên trên bản đồ Việt Nam [[Lâm Đồng]] [[Đắk Lắk]] **Tây Nguyên** hay **vùng cao nguyên Nam Trung Bộ** là khu vực địa lý với địa hình cao nguyên thuộc miền
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Hạ** (, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN) là một triều đại lịch sử chưa được kiểm chứng của Trung Quốc, đây là triều đại được nhiều nhà nghiên
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên** là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam, giai đoạn 2008-hiện nay. Giai đoạn 2009-2015, dự án