✨Phaolô Nguyễn Văn Bình
Phaolô Nguyễn Văn Bình (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng giáo phận Sài Gòn từ năm 1960 đến năm 1995 (từ năm 1976 đổi tên thành Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh). Khẩu hiệu Giám mục của ông là "Hãy đi rao giảng" (Mt 28:19-20).
Nguyễn Văn Bình sinh ra tại Sài Gòn, sau 10 năm đi theo con đường tu trì thì được gửi đi Roma du học. Sau quá trình dài 15 năm tu học, vào tháng 3 năm 1937 ông được thụ phong linh mục tại Roma. Trong thời kỳ linh mục, ông từng đảm trách vai trò giáo sư Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn, tuyên úy các sư huynh Sài Gòn, Cha Sở Họ đạo Cầu Đất và thực hiện tờ báo Tông Đồ. Tháng 9 năm 1955, Nguyễn Văn Bình được thăng chức giám mục Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Cần Thơ (Địa phận Cần Thơ). Lễ tấn phong được tổ chức tại nhà thờ Đức Bà Sài Gòn cuối tháng 11 cùng năm. Cùng với việc thiết lập hàng giáo phẩm Công giáo, tháng 11 năm 1960, Nguyễn Văn Bình được chọn làm Tổng giám mục Tiên khởi Tổng giáo phận Sài Gòn.
Từ năm 1964 Tên ông cũng được sử dụng làm tên gọi một con đường trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình được ghi nhận là nhân tố đóng vai trò hòa hợp và hòa giải dân tộc sau chiến tranh Việt Nam. Ngoài Nguyễn Văn Bình và người em gái liền kề sống đến tuổi trưởng thành, các anh em còn lại của gia đình đều qua đời từ thuở ấu thơ. Em gái ông, nữ tu Magarita Nguyễn Thị Sanh, từng đảm trách vai trò Tổng phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán. Một số nguồn tin khác cho rằng Nguyễn Văn Bình sinh tại Lương Hòa, Long An.
Năm 1922, gia đình cho cậu Nguyễn Văn Bình nhập học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn, tại đây, cậu gặp người bạn tri kỷ là Giacôbê Nguyễn Văn Mầu.
Thời kỳ linh mục
Sau quá trình tu học dài hạn, ngày 27 tháng 3 năm 1937, chủng sinh Nguyễn Văn Bình được truyền chức linh mục tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô, Roma, Ý. Sau khi trở thành linh mục, Nguyễn Văn Bình hỗ trợ mục vụ tại một số Họ đạo thuộc khu vực Roma. Tháng 8 năm 1938, theo yêu cầu từ giám mục Địa phận và không thể tiếp tục việc học, ông trở về Việt Nam trong tình trạng sức khỏe suy kiệt. Tàu về đến Sài Gòn, linh mục Bình cần hai người trợ giúp mới có thể lên bờ. Sức khỏe Nguyễn Văn Bình trở nên tồi tệ kể từ khi ông mắc lao phổi rất nặng và bị xẹp phổi một bên. Kể từ thời điểm này đến khi qua đời, ông chỉ thở bằng một lá phổi, vai trở nên nghiêng một bên, mất cân đối. Về đến quê hương, linh mục Bình được bổ nhiệm coi sóc họ đạo Ðức Hòa (nay thuộc giáo phận Mỹ Tho), họ đạo vốn chỉ có 50 giáo dân, để hàng tuần có thời gian đến bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh. từ năm 1947 lại kiêm thêm linh hướng trường Taberd trong một năm.
Theo báo Sài Gòn Giải phóng, đầu năm 1947, Pháp khởi sự cuộc chiến tranh tái xâm lược Việt Nam. Lệnh kháng chiến từ phía chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã được ban hành. Có bốn linh mục ở miền Nam là các linh mục Hiền, Kính, Luật và Sang đã đi chiến khu tham gia kháng chiến và dư luận cho rằng các linh mục này “lạc đàng”. Một tờ truyền đơn được phổ biến vào thời điểm đó cho rằng các linh mục này là những người yêu nước. Giám mục Jean Cassaigne Sanh yêu cầu linh mục Nguyễn Văn Bình bày tỏ ý kiến về nội dung của tờ truyền đơn. Câu trả lời của linh mục Bình không làm hài lòng giám mục Sanh. Sau lần hỏi đáp với vị Đại diện Tông Tòa Sài Gòn, Nguyễn Văn Bình được điều chuyển rời khỏi chủng viện.
Từ năm 1948, Nguyễn Văn Bình làm linh mục Cha Sở họ đạo Cầu Đất, một họ đạo heo hút tại Đà Lạt, nơi có khoảng 300 giáo dân, tuy vậy trải trên địa bàn rộng gồm Đơn Dương, M’lọn, Bắc Hội và Đa Thọ.
Nguyễn Văn Bình chọn Nhà thờ Cầu Xéo làm Nhà thờ Chánh Địa phận. Linh mục Antôn Nguyễn Văn Thiện, cha sở Cầu Xéo được bổ nhiệm làm linh mục Tổng Đại diện Địa phận. Sau khi chọn nhà thờ chánh, giám mục Bình triển khai xây dựng Tiểu chủng viện Á Thánh Quý. Ngày 1 tháng 4 năm 1956, bắt đầu khởi công xây tạm bằng cây, mái lá, sàn lót gạch Tàu ở địa điểm cạnh bên nhà thờ Sóc Trăng. Sau khi xây dựng tạm, Nguyễn Văn Bình đưa các chủng sinh thuộc các khối Đệ Thất đến Đệ Tam, tuyển thêm cho các lớp Đệ Nhất và Đệ Nhị. Ngày 15 tháng 9 năm 1956, chính thức khai giảng năm học mới với số chủng sinh là 138. Chỉ một tháng sau đó, ngày 16 tháng 10, chủng viện được khánh thành với tên gọi Á Thánh Quý (lấy theo tên Chân phước Phêrô Đoàn Công Quý). Giám mục Bình cũng đến địa phận Sài Gòn, mời gọi các linh mục giáo sư về giảng dạy tại Địa phận Cần Thơ. Hai năm đầu tiếp quản Địa phận Cần Thơ, Nguyễn Văn Bình sống tại nhà xứ của nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ. Năm 1957, ông mua đất và nhà Vallery, nay trên đường Nguyễn Trãi, Cần Thơ và cho sửa sang lại để sử dụng. Cuối tháng 11 năm 1958, ông cho làm phép và khánh thành Tòa giám mục. Giám mục Nguyễn Văn Bình cũng quan tâm đến sức khỏe các linh mục, khuyến khích họ mỗi năm nghỉ 1 tháng, chọn địa điểm phù hợp dự định xây nhà nghỉ mát linh mục ở Hòn Chông. Sau khi tách giáo phận Long Xuyên năm 1960, Hòn Chông thuộc tân giáo phận còn giám mục Bình trở thành Tổng giám mục Sài Gòn, dự định này bất thành. Nhằm mục đích sản xuất lương thực cho chủng viện và nhà dòng, Nguyễn Văn Bình quyết định mua 5 mẫu đất gần cầu Bình Thủy để tiến hành trồng trọt, chăn nuôi. Giám mục Bình cũng tiến hành mua một chiếc xe vận tải hạng nhẹ nhằm mục đích chở vật liệu xây dựng và mua sắm hàng hóa.
Với mục đích phát hành các ấn phẩm Công giáo và sách giáo khoa, văn học, Nguyễn Văn Bình tiến hành mua lại một nhà in lớn, đặt tên là Cần Thơ Án Quán, bổ nhiệm linh mục Anphongsô Nguyễn Thiên Tứ làm giám đốc. Địa phận cho phát hành bán nguyệt san Thực Hành với số lượng 2.300 bản cho mỗi số nhằm mục đích liên kết giáo dân và giáo sĩ, khích lệ phong trào Công giáo Tiến hành.
Trước năm 1954, nhiều nhà thờ trên địa bàn Địa phận bị hư hại. Nguyễn Văn Bình cho sửa chữa nhiều nơi, trong đó có bảy nhà thờ phải xây lại hoàn toàn. Ngoài ra, ông cũng cho thiết lập thêm nhiều Họ đạo. Thời kỳ này, có nhiều giáo dân di cư từ Miền Bắc đến địa phận Cần Thơ, giám mục Bình sắp xếp cho định cư tại Cái Sắn, Định Hải và Phú Quốc. Tết năm 1957, ông tiếp nhận số lượng Việt kiều từ Campuchia hồi hương và cho họ định cư gần Cà Mau.
Ngoài việc xây dựng các công trình tôn giáo, Nguyễn Văn Bình còn quan tâm đến việc đào tạo giáo sĩ: Có thời kỳ số linh mục là 45 cử hành mục vụ cho 83.000 giáo dân. Nhận thấy khó khăn này, giám mục Địa phận đào tạo giáo dân trong Ban Quới chức nhằm hỗ trợ các linh mục, đồng thời khích lệ Công giáo Tiến hành. Ngoài ra, giám mục Bình thành lập Hội cựu tu sĩ Địa phận Cần Thơ và nhờ họ trợ giúp các linh mục làm các công tác mục vụ: dạy giáo lý, sinh hoạt các giới,... Nhóm này giao cho linh mục Nguyễn Thiên Tứ làm Giám đốc, tổ chức hội nghị mỗi ba tháng. Tiếp đến, Nguyễn Văn Bình cho khai mở các trường tư thục Công giáo, dần dần khoảng gần 10 trường Công giáo xuất hiện, dạy học theo chương trình chính phủ với học viên không phân biệt tôn giáo. Để tìm kiếm giáo viên, giám mục Bình lập đoàn giáo viên với các thanh niên chưa lập gia đình và có ước muốn tham gia để tuyển chọn, huấn luyện về phương pháp dạy học và giáo lý và điều động họ đi dạy tại các trường Công giáo vùng quê, có huấn luyện bổ sung. Tháng 11 năm 1956, Tòa Thánh phê chuẩn Hiến chương Công giáo Tiến hành. Giám mục Nguyễn Văn Bình khích lệ phong trào này dưới quyền linh mục Tổng đại diện Antôn Nguyễn Văn Thiện. Ngoài tờ báo Thực Hành để khích lệ, ông còn cho lập hai hội: Hùng Tâm Dũng Chí và Đạo Binh Đức Mẹ.
Tổng giám mục Sài Gòn
Bổ nhiệm và nhậm chức
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam và bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa Địa phận Cần Thơ Phaolô Nguyễn Văn Bình làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn. Tổng giáo phận Sài Gòn đóng vai trò quan trọng tại Việt Nam Cộng hòa vì là thủ đô của chính thể này và nắm giữ vai trò chính trị, văn hoá, kinh tế quan trọng. Thời điểm này, Tổng giáo phận Sài Gòn rộng lớn, bao phủ gần hết diện tích vùng Đông Nam Bộ và có nhiều dân tộc thiểu số sống chung với người Kinh nên cần chăm sóc mục vụ. Bằng việc đảm nhận chức Tổng giám mục Sài Gòn, Nguyễn Văn Bình trở thành người quản lý số giáo dân Công giáo là 567.455 người, cùng với 583 linh mục triều và 125 linh mục dòng và 2.540 tu sĩ nam nữ thuộc Tổng giáo phận.
Việc bổ nhiệm Nguyễn Văn Bình làm Tổng giám mục Sài Gòn là một bất ngờ, vì Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã vận động để anh trai mình là giám mục Ngô Đình Thục làm Tổng giám mục Sài Gòn. Trước đó, vào năm 1955, khi Tòa Thánh chọn Đại diện Tông Tòa Sài Gòn kế nhiệm giám mục Jean Cassaigne đã không chọn giám mục Ngô Đình Thục và chọn tân giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền. Việc này làm chính quyền Ngô Đình Diệm phản ứng mạnh mẽ và cản trở sinh hoạt tôn giáo của Giám mục Nguyễn Văn Hiền. Tòa Thánh quyết định nhượng bộ và điều chuyển giám mục Hiền làm giám mục giáo phận Đà Lạt và chọn giám mục Nguyễn Văn Bình, là người có thái độ chính trị thích hợp hơn.
Viết trong sách Ai giết anh em Ngô Đình Diệm, Quốc Đại cho rằng bằng việc bổ nhiệm này, Tòa Thánh muốn tìm lại không khí tốt đẹp giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với giáo phận Sài Gòn. Ellen Joy Hammer viết trong sách A Death in November: America in Vietnam, 1963 cho rằng Tòa Thánh Vatican chọn Nguyễn Văn Bình mà không phải Ngô Đình Thục, người đã là giám mục từ năm 1938 là vì muốn tách biệt giáo hội ra khỏi chế độ chính trị của gia đình họ Ngô. Tân tổng giám mục Bình được Tòa Thánh đánh giá là người cẩn thận và ôn hòa, sẽ không để giáo hội địa phương lại quá "gần gũi" với chính quyền Ngô Đình Diệm.
Ngay trong những tháng đầu tiên khi được chuyển về Sài Gòn, ngay trong năm 1960, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình bổ nhiệm linh mục Gioan Maria Trần Văn Hiến Minh làm Bề Trên, quản lý trường Trung học Nguyễn Bá Tòng. Linh mục này quản lý trường Nguyễn Bá Tòng cho đến năm 1975. Nguyễn Văn Bình chính thức nhận Tổng giáo phận Sài Gòn vào ngày lễ Phục Sinh, tức ngày 2 tháng 4 năm 1961. Lễ nhậm chức được tổ chức tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.
Những năm đầu cai quản giáo phận (1961 – 1963)
Vừa về nhận giáo phận, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình được cử làm chủ tịch Ủy ban Giám mục đặc trách các phong trào Công giáo Tiến hành – Tông đồ Giáo dân của cả miền Nam Việt Nam. Ông dành nhiều thời gian đến thăm các đoàn thể của giới Công giáo: các đoàn thể tu đức, các đoàn thể công tác xã hội, các đoàn thể trí thức, các đoàn thể thanh niên, các đoàn thể thiếu niên và các đoàn thể cho người lớn. Trong 5 năm đầu tiên sau khi trở thành Tổng giám mục, Nguyễn Văn Bình tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, đó là sắp xếp và bình thường hóa đời sống đạo của giáo dân Công giáo di cư, vốn có số lượng lên đến hơn nửa triệu người.
Trong phiên họp giữa Khâm sứ Tòa Thánh Mario Brini và các giám mục miền Nam Việt Nam đã đạt kết quả thống nhất Chủng viện hiện có trong Địa phận Sài Gòn. Quyết định này công bố trong Văn thư số 274 đề ngày 12 tháng 4 năm 1960. Một trong các nội dung thống nhất là tổ chức hai Đại chủng viện miền, một là Đại chủng viện Quy Nhơn và hai là đại chủng viện Sài Gòn. Hai tháng sau đó, vào ngày 17 tháng 6 năm 1960 hai giám mục Lê Hữu Từ và Nguyễn Văn Bình quyết định đặt tên cho Đại chủng viện Sài Gòn là Đại chủng viện Lê Bảo Tịnh. Tháng 7 năm 1961, các giáo sư – giáo sĩ ngoại quốc bàn giao Đại chủng viện Sài Gòn cho hàng giáo sĩ Việt Nam và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình chọn linh mục Giuse Phạm Văn Thiên trở thành giám đốc người Việt Nam tiên khởi.
Tháng 11 năm 1961, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình kêu gọi hỗ trợ các nạn nhân lũ lụt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tổng giám mục Bình nhắc nhở người công giáo rằng việc giúp đỡ người khác là bổn phận phải thi hành. Lời kêu gọi thu được kết quả là 400.000 đồng (thời giá năm 1961) và 200 túi quần áo, trong đó có sự đóng góp của những người ngoài Công giáo.
Trong năm 1962, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình quyết định đưa chiếc gông của thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm đeo từ khám đường Chợ Quán đến Cây Da Còm thuộc họ Chợ Đũi đến đền thờ Thánh Gẫm với mục đích trưng bày, sau gần 200 năm lưu giữ tại Chủng viện Sài Gòn. Trong một bài viết vào tháng 7 năm 1962, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nhận định tình hình Công giáo ở miền Nam Việt Nam hiện đang bi thảm và người dân đang sống rất vất vả. Ông cho rằng việc đối đầu giữa hai phía là Công giáo và Cộng sản diễn ra ở miền Nam Việt Nam rõ rệt hơn bất cứ nơi nào khác. Trong bài viết, Nguyễn Văn Bình cũng loan tin về số lượng người gia nhập vào đạo Công giáo đang có tiến triển tốt, chủ yếu những người mới nhập đạo đến từ khu vực Quy Nhơn.
Đầu năm 1962, Giáo hoàng Gioan XXIII thông báo cuối năm sẽ họp Công đồng Vaticanô II với mục đích canh tân Giáo hội Công giáo Rôma. Tổng giám mục Bình tham gia cách tích cực trong nhiều hoạt động hội thảo, chiếu phim, các cuộc triển lãm, tranh luận,... để tìm hiểu Công đồng.
Ngày 12 tháng 11 năm 1962, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình chủ tế lễ khai mạc các cuộc họp thứ 14 đến 16 thuộc giai đoạn I của Công đồng Vaticanô II. Một ngày sau đó, Giáo hoàng Gioan XXIII công bố sắc chỉ "Spectabile Monumentum" quyết định thăng cấp Nhà thờ Đức Bà, tôn phong nhà thờ này vào nhóm các Vương Cung Thánh Đường. Cuối năm 1962, cùng với các giám mục sắp tham gia Công đồng, Tổng giám mục Bình chủ sự một buổi lễ canh thức để cầu nguyện cho công đồng và các nghị phụ Việt Nam và xin các giám mục này truyền đạt đến công đồng “thỉnh nguyện thư của tín hữu Việt Nam”. Nội dung thỉnh nguyện thư trình bày nguyện vọng được sử dụng tiếng Việt trong thánh lễ và mong muốn đổi mới trong cơ cấu và sinh hoạt mục vụ ở địa phương. Nguyễn Văn Bình chính là tác giả tinh thần của thỉnh nguyện thư này. Tổng cộng có tất cả 17 giám mục Việt Nam từng tham dự họp Công đồng.
Cũng trong khoảng thời gian cuối năm 1962, Nguyễn Văn Bình đến Roma. Tại đây, ông có dịp gặp Tổng thư ký Bộ Truyền giáo, nội dung chính xoay quanh việc có linh mục và giáo dân tố cáo ông mua phần lớn cổ phần của khách sạn Caravelle. Dịp Giáng sinh cùng năm, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tiếp đón Hồng y Hoa Kỳ Francis Spellman trong dịp ông này đến Việt Nam Cộng hòa với mục đích chúc mừng dịp Giáng sinh đến quân đội Mỹ đồn trú tại đây.
Ngày 21 tháng 2 năm 1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham gia đoàn tiếp đón tân Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia là Tổng giám mục Salvatore Asta khi ông này đến Sài Gòn. Cùng đại diện hàng giáo sĩ Công giáo Việt Nam còn có Tổng giám mục Huế Ngô Đình Thục. Đông đảo giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân và một số quan chức Việt Nam Cộng hòa tham gia buổi tiếp đón này. Tính đến năm 1963, số giáo dân gốc Hoa tại Tổng giáo phận Sài Gòn bao gồm giáo xứ Phanxicô Xaviê và các tỉnh không vượt qua mức 5.500 người. Tuy vậy, Nguyễn Văn Bình quyết định xây riêng một tiểu chủng viện dành cho cộng đồng Công giáo người Việt gốc Hoa là Tiểu chủng viện Thánh Carôlô (584 Hùng Vương, quận 6). Tính đến thập niên 1970, Tiểu Chủng viện này có hơn 30 chủng sinh, 2 chủng sinh du học tại Penang (Malaysia), 2 chủng sinh du học Roma và 10 chủng sinh tiếp tục theo học Đại Chủng viện Sài Gòn. Sau thời kỳ thuyền nhân rời khỏi Việt Nam, số người Việt gốc Hoa giảm dần và chỉ còn lại lượng người rất ít, tuy vậy số chủng sinh theo học tại đây vẫn còn tiếp tục duy trì. Viết trong sách Bên giòng lịch sử, linh mục Cao Văn Luận cho rằng thông cáo này của Tổng giám mục Bình được công bố vào ngày 10 tháng 5. Lúc cầm quyền, chính quyền của Ngô Đình Diệm phân biệt đối xử đối với Phật giáo, dẫn đến các phong trào phản đối diễn ra nhiều nơi, từ Huế lan vào Sài Gòn, bắt đầu từ sự kiện Phật Đản ngày 8 tháng 5 năm 1963. Ngày 11 tháng 6 năm 1963, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu). Việc tự thiêu của Hòa thượng được hàng chục ngàn tăng ni, tín đồ Phật giáo và các quan sát viên quốc tế theo dõi, loan tin trên các báo chí khắp nơi trên thế giới. Biết tin Giáo hoàng từ trần, Hòa thượng chủ tổng hội Phật giáo gửi thư chia buồn đến Tổng giám mục Bình.
Vài ngày sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, ngày 16 tháng 6, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình chính thức lên tiếng và phủ nhận sự liên quan của Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam và thừa nhận vai trò chủ động trong cuộc tranh chấp đến từ các tín đồ Thiên Chúa giáo. Bức thư chung thứ hai của tổng giám mục Bình gửi tu sĩ và giáo dân khẳng định rằng Giáo hội không những không gây nên biến cố, mà còn đau đớn vì những tai họa đã và còn là ác quá của biến cố. Trong thư, ông nhắc nhở giáo dân về sự tách biệt của Giáo hội và Nhà nước, vâng phục các chính quyền dân sự hợp pháp. Bức thư này đọc một cách công khai tại toàn bộ các nhà thờ và nhà nguyện thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn. Trước đó, các sinh hoạt tôn giáo diễn ra ngoài trời dịp lễ Mình và Máu Chúa Kitô vào ngày 16 tháng 6 được Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho phép hủy bỏ. Linh mục này sau đó cũng đến trình bày về các cuộc gặp với Ngô Đình Diệm và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho Khâm sứ Tòa Thánh Salvatore Asta.
Ngày 22 tháng 8 năm 1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình công bố lá thư mục vụ nhằm giải thích giáo lý Công giáo và bổn phận của người Công giáo trong bối cảnh tranh chấp giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa với các nhóm Phật giáo. Ông kêu gọi người Công giáo phải là những nhà hòa giải, đồng thời lên án các báo chí ngoại quốc đưa tin sai sự thật. Tổng giám mục Bình cho biết trong các cuộc biểu tình xung quanh các ngôi chùa, không ai đổ lỗi cho Giáo hội Công giáo hoặc người Công giáo, tuy vậy những tin đồn bất lợi cho giáo hội Công giáo được loan truyền và đăng tải trên các báo chí ngoại quốc. Các báo chí được Tổng giám mục Bình nhắc đến được nhận định là các báo tại vùng Đông Nam Á. Nhiều nhà sư ủng hộ Tổng thư ký Phật giáo Thế giới khi ông này tuyên bố không nên lên án và nhận định nguyên nhân vụ tranh chấp là từ phía Thiên Chúa giáo nhưng cho rằng vụ việc này chỉ liên quan đến nhóm tín đồ Thiên Chúa giáo xung quanh Ngô Đình Diệm. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình kêu gọi tín đồ Công giáo trung thành đoàn kết và hòa bình, tôn trọng tự do tín ngưỡng. Tại Tổng giáo phận Huế, tổng giám mục Ngô Đình Thục cũng kêu gọi giáo dân tôn trọng quyết định mới về việc treo cờ. Sau đó, Giáo hoàng cũng đã viết một bức thư khác gửi Giáo hội Công giáo miền Nam Việt Nam và bức thư được công bố vào ngày 13 tháng 9 với nội dung bày tỏ sự lo lắng và thống khổ về tình hình nghiêm trọng tại đây. Lo ngại với thực trạng phía Thiên Chúa giáo có giáo sĩ phục vụ trong quân đội nhưng phía Phật giáo chưa có đại diện có thể gây bất hòa trong quân đội, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết thư mục vụ, kêu gọi người Công giáo cố gắng hết mình vì sự hòa hợp và hòa bình. Tổng giám mục Bình cũng cầu nguyện để giáo dân đừng bị dẫn dắt và hành động khi nghe theo những tin đồn thiếu công bằng về người Công giáo.
Ngày 23 tháng 9 năm 1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình trả lời phỏng vấn trên kênh Phát thanh và Truyền hình Ý. Ông cho biết ông lấy làm tiếc về những rạn nứt giữa Phật giáo và chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Khi được hỏi về mối quan hệ của mình với các đồng bào ngoài Kitô giáo, Tổng giám mục Bình cho rằng những ông chưa bao giờ gặp khó khăn khi tiếp xúc với những người này. Ông cho biết mình đối xử tốt với họ và nhận được điều ngược lại từ phía những người trên. Tổng giám mục Bình cũng chia sẻ về tình bạn giữa ông với một nhà sư khi ông còn là linh mục ở một miền quê. Trả lời câu hỏi về thái độ của tín đồ Công giáo với cuộc xung đột này, Tổng giám mục Bình cho rằng họ đã cố gắng thúc đẩy hòa bình. Ngày 24 tháng 9, lá thư Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết thư nhằm cảm ơn thư từ Giáo hoàng gửi đến trước đó vào ngày 26 tháng 8 được công bố. Bức thư được viết vào ngày 11 tháng 9, với nội dung là tổng giám mục Bình cảm ơn lá thư của Giáo hoàng đã an ủi giáo dân trong những ngày tháng đau buồn. Ông cũng cho rằng mình cảm nhận được sự đoàn kết của giáo sĩ, giáo dân đối với các giám mục Công giáo Việt Nam cách rõ nét.
Cộng đoàn tu sĩ Châu Sơn đạt những thành tựu đáng ghi nhận, Đại Hội toàn Dòng Xitô năm 1963 quyết định nâng Đan viện tự trị Châu Sơn cùng với hai Đan viện Phước Sơn và Phước Lý lên hàng “Đan Phụ viện” (Abbatia). Thánh bộ Dòng tu chuẩn thuận qua văn thư vào tháng 11 năm 1963. Nhằm mục đích đánh dấu mốc trưởng thành của Dòng Xitô và cổ võ đời sống tu trì chiêm niệm, Nguyễn Văn Bình đề nghị tiến hành nghi lễ chúc phong ba Viện Phụ tiên khởi của dòng tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Buổi lễ tổ chức vào ngày 19 tháng 3 năm 1964 với sự tham dự của đông đảo các giám mục. Chủ sự buổi lễ là bề trên dòng Xitô Sighard Kleiner. Đại diện chính quyền, các cộng đoàn tu sĩ và người dân không phân biệt tôn giáo cũng tham dự buổi lễ.
Để tránh các mâu thuẫn tôn giáo, năm 1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình khởi xướng công việc "đối thoại liên tôn" cũng như hợp tác cùng các tôn giáo khác trong các công tác xã hội. Giữa tháng 11, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình trở về Việt Nam, sau khi tham gia đoạn thứ hai của Công đồng Vaticanô II tổ chức vào năm 1963. Sau khi từ Roma trở về Sài Gòn vài giờ, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình gọi cho tướng Dương Văn Minh, Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, sau đó là tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Tướng Minh đang có cuộc họp với 12 tướng lĩnh quân sự vào thời điểm này, nhưng trình bày (qua điện thoại) với Tổng giám mục Bình về tình hình quân sự. Nguyễn Văn Bình kêu gọi thúc đẩy hòa hợp mọi người thuộc các tôn giáo tại Việt Nam.
Trong hai ngày 29 và 30 tháng 12 năm 1963, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình chủ sự lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Tiểu chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Chủng viện này từ khi thành lập cho đến năm 1964 đã đào tạo được 4 giám mục, trong số đó có giám mục Tiên khởi Việt Nam Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và Tổng giám mục Bình. Cũng trong năm này, Nguyễn Văn Bình cho xây dựng mới Tiểu chủng viện và Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn nhân dịp 100 năm thành lập.
Nhân những ngày đầu năm 1964 với chuyến hành hương đến Thánh Địa của Giáo hoàng Phaolô VI, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình kêu gọi giáo dân cầu nguyện theo ý Giáo hoàng, đặc biệt là Công đồng Vatican II và hòa bình. Ngày 7 tháng 1, Tổng giám mục Bình cử hành lễ tang cho thân mẫu cố tổng thống Ngô Đình Diệm và Tổng giám mục Ngô Đình Thục (bà Anna Nguyễn Thị Thân) tại Nhà thờ Chúa Cứu Thế. Cuối tháng 1 năm 1964, các giám mục tại miền Nam quyết định thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam, với cơ cấu gồm một chủ tịch và hai thư ký mỗi năm. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đắc cử chức vụ Chủ tịch đầu tiên của Hội đồng này. Trong bối cảnh sau vụ việc đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa vào cuối tháng 1 năm 1964, các nhóm Phật giáo không phản đối việc bổ nhiệm một tín đồ Công giáo vào chức vụ Thủ tướng, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình nói với tướng Nguyễn Khánh từ Hội đồng Quân nhân Cách mạng quan điểm của các giám mục Công giáo rằng nếu có hai ứng viên, một từ Kitô giáo và một ngoài Kitô giáo mà người ngoài Kitô giáo có khả năng tốt hơn thì các giám mục mong muốn người này trở thành thủ tướng mới.
Ngày 3 tháng 3 năm 1964, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình với tư cách Chủ tịch Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam công khai bác bỏ các cáo buộc về việc sơ tán người Công giáo sau khi kí Hiệp định Genève 1954 là do các giám mục tổ chức. Ông cho biết những tin đồn nhằm gieo rắc sự bất hòa giữa người theo đạo Công giáo và những người không theo tôn giáo này. Tin đồn trên cũng bị bác bỏ trên tờ Nhật báo Xây Dựng, một tờ báo Công giáo. Giữa tháng 3 cùng năm, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara tới thăm Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Maxwell D. Taylor đến nhận nhiệm vụ Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa, được tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Khánh tiếp đón. Bữa tiệc chiêu đãi các quan chức Hoa Kỳ này được tổ chức dưới dạng một bữa tiệc công cộng, với nhiều khách mời là các vị giáo sĩ các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài. Về phía Công giáo có Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham dự. Ngày 20 tháng 3, Nguyễn Văn Bình tham gia phiên khai mạc Đại hội lần thứ 4 của Liên đoàn Lao Động Việt Nam, tên cũ là Liên Đoàn Lao động Kitô giáo Việt Nam.
Sau vụ đảo chánh, người em của Ngô Đình Diệm ở Huế là Ngô Đình Cẩn sau đó cũng bị bắt vào ngày 4 tháng 11 năm 1963. Phiên xử án tử hình ông Cẩn được tổ chức ngày 16 tháng 4 năm 1964. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết đơn cho tướng Dương Văn Minh, Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa với mục đích xin miễn án tử cho Ngô Đình Cẩn vì lý do ông Cẩn đang lâm trọng bệnh và thời gian sống được còn rất ít. Đơn xin ân xá của Ngô Đình Cẩn và thư của tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đều bị Dương Văn Minh bác bỏ.
Thiếu tá Đặng Sĩ là một sĩ quan người Công giáo, bị cáo buộc có liên quan trong việc chỉ huy lực lượng bảo vệ chống lại những người biểu tình Phật giáo làm 8 người thiệt mạng vào ngày 8 tháng 5 năm 1963. Theo một số nguồn tin, phiên toà được tổ chức tại Sài Gòn vào ngày 2 tháng 6 năm 1964. Một số nhóm Công giáo phản đối mạnh mẽ vụ việc này, một số nhà ngoại giao nước ngoài kêu gọi chính quyền Việt Nam Cộng hòa thay đổi kế hoạch. Phiên tòa xét xử đã bị hoãn lại sau dịp lễ Phật Đản (ngày 26 tháng 5). Những nhóm Công giáo dự định biểu tình vào ngày 24 tháng 5, nhưng Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình yêu cầu hủy bỏ các cuộc biểu tình này. Tình hình căng thẳng giữa Công giáo và Phật giáo gia tăng. Một số tín đồ Công giáo cho rằng những tín đồ Phật giáo đối xử với họ với thái độ thù địch như những gì chính quyền Ngô Đình Diệm đã đối xử với tín đồ Phật giáo. Căng thẳng giữa hai tôn giáo này tăng cao trong những tuần trước lễ Phật Đản (Dương lịch 1964). Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình ra lệnh hủy một cuộc biểu tình của những người Công giáo vì ông nhận được tin tức cho rằng tín đồ của hai tôn giáo có thể xảy ra đụng độ. Vị Tổng giám mục Sài Gòn cũng ra tuyên bố gợi ý việc có thể sắp xếp biểu tình mới nhằm phản ứng lại tín đồ Phật giáo và cho biết việc hủy bỏ biểu tình chỉ có hiệu lực cho đến ngày lễ Phật Đản. Trên thực tế, các cuộc biểu tình này dự kiến tổ chức vào những ngày Chủ nhật liên tiếp vào tháng 5, nhưng bị hoãn vì yêu cầu của Tổng giám mục Bình.
Trả lời phỏng vấn của S.C.W.C News Service về các cuộc biểu tình của người Công giáo vào ngày 4 tháng 6, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho rằng trong vòng 80 năm qua, không có cuộc bách hại tôn giáo đối với Công giáo tại miền Nam Việt Nam. Ông cho rằng đã có những sự cố cục bộ nhưng có nguy cơ lan rộng. Phóng viên đã hỏi Tổng giám mục Bình về tuyên bố trước đó về việc người Công giáo được hành động tự do những điều gì mình cho là đúng đắn trong chính trị có làm giảm sự bức xúc và có nguy cơ xảy ra bạo lực hay không, tổng giám mục Bình cho rằng các quyền tự do của con người đều có thể bị lạm dụng. Tổng giám mục Bình thừa nhận rằng không thể điều tra mọi sự cố, vốn nhiều vụ việc xảy ra ngoài Tổng giáo phận Sài Gòn và có những vụ việc gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Khối Công dân Công giáo biểu tình với con số 100.000 người phản đối xử lý Thiếu tá Đặng Sĩ vào ngày 7 tháng 6 năm 1964. Chiều cùng ngày, tướng Albert Nguyễn Cao đến gặp Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, linh mục Trần Tử Nhãn thuộc Dòng Chúa Cứu Thế cũng như gia đình Thiếu tá Đặng Sĩ, cho biết thiếu tá Sĩ sẽ không bị tuyên án tử hình và không cần quan tâm đến bản án. Việc trả tự do cho thiếu tá Sĩ được cam kết khi mọi việc lắng dịu. Thiếu tướng Đỗ Mậu yêu cầu thiếu tá Sĩ khai dối về việc Tổng giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục chỉ đạo đàn áp Phật giáo và bị ông này yêu cầu viết thành văn bản. Văn bản này sau đó được chuyển đến Tổng giám mục Bình và giám mục này gửi đến Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ với mục đích báo cho những người có thẩm quyền tại Hoa Kỳ.
Ngày 6 tháng 7 năm 1964, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham gia tiệc chia tay Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa Henry Cabot Lodge Jr.. Ông này rời đi sau khi Tân đại sứ Maxwell D. Taylor được bổ nhiệm kế nhiệm. Tiệc chia tay do tướng Nguyễn Khánh tổ chức, về phía đại diện tôn giáo ngoài tổng giám mục Bình còn có 2 nhà sư Phật giáo, trong đó có hòa thượng Thích Trí Quang, từng tị nạn tại Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng hòa vào năm 1963. Ngày 19 tháng 7, trong sự kiện mà phần lớn người tham gia là giáo dân Công giáo (gọi là "Ngày Ô nhục Quốc gia") kỷ niệm 10 năm ký hiệp định Genève chia cắt Việt Nam, có khoảng 80.000 đến 100.000 người ở các khu vực phân theo tôn giáo theo các tuyến đường khác nhau tham gia vào sự kiện này và hội tụ tại một khán đài dựng ở trung tâm. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham gia sự kiện trên, cùng với nhiều giáo sĩ các tôn giáo khác và các quan chức ngoại giao nước ngoài, trong đó có Tham tán Tòa Thánh tại Đông Dương Francesco De Nittis và Tân Đại sứ Hoa Kỳ Taylor. Đại sứ Pháp và Anh không tham dự sự kiện này.
Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục Angelo Palmas làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Campuchia. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, các quan chức ngoại giao và một số quan chức Việt Nam Cộng hòa đã tiếp đón ông này tại sân bay vào ngày 5 tháng 8. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình rời Sài Gòn để tham gia phiên họp năm 1964 của Công đồng Vaticanô II vào ngày 22 tháng 8. Tình hình tại Việt Nam Cộng hòa trở nên phức tạp khi một đề xuất của chính phủ Việt Nam Cộng hòa bị cho là làm giảm lại sự kháng cự đối với phía Cộng sản.
Giáo hoàng Phaolô VI viết bức thư đề ngày 4 tháng 9 năm 1964 gửi cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình với nội dung kêu gọi khẩn trương chấm dứt bạo lực "huynh đệ tương tàn". Bức thư này được nhận định có nội dung đề cập đến việc đổ máu giữa các tín đồ Công giáo và Phật giáo. Các cơ quan truyền thông Công giáo công bố bức thư này vào ngày 28 tháng 9. Giáo hoàng cũng bày tỏ miền vui của mình trước việc các bên đã hòa giải và hòa hợp. Giáo hoàng cho rằng một cách giải quyết đủ mạnh để loại trừ bất kỳ xung đột nào nữa và tránh xa mọi đau buồn bằng cách đoàn kết toàn bộ dân chúng trong một mong muốn khôi phục trật tự và tìm kiếm sự hiểu biết hòa bình là điều cần thiết cho sự tiến bộ của quốc gia. Giữa tháng 9, một ủy ban liên lạc giữa Công giáo và Phật giáo được thành lập với mục đích tìm hiểu lẫn nhau nhằm tránh các cuộc đụng độ bạo lực giữa tín đồ hai tôn giáo này. Uỷ ban này là sáng kiến của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình và hòa thượng Thích Tâm Châu. Ủy ban này duy trì liên lạc cũng nhu giải quyết các hiểu lầm có thể phát sinh, theo lá thư tuyên bố chung của Tổng giám mục Bình và Hòa thượng Châu. Ngày 18 tháng 9, tướng Maxwell D. Taylor có cuộc gặp với tướng Nguyễn Khánh và hai lãnh đạo phía Phật giáo cũng như phía Công giáo Roma. Đại diện phía Phật giáo là Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Thích Tâm Châu, đại diện phía Công giáo là Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Bình. Nội dung cuộc gặp mặt được cho rằng là tướng Taylor có lời đề nghị các vị đại diện tôn giáo về việc kêu gọi tín đồ ngừng những cuộc đụng độ hoặc các hành động chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa, tạo điều kiện cho tướng Khánh tìm cách giải quyết các vấn đề chính trị.
Ngày 30 tháng 9 năm 1964, Tòa Thánh quyết định bổ nhiệm Giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền giữ chức Giám quản Tông Tòa Tổng giáo phận Huế, Ngày đưa tiễn giám mục Điền ra Huế, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng tham gia và có lời giới thiệu tân giám quản đến tín hữu Công giáo tại Huế. Trong nửa cuối năm 1964, nhiều trận bão và lũ lụt lớn xảy ra tại các tỉnh Trung Bộ, phần nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Nhiều tổ chức từ nhiều tôn giáo chung tay hỗ trợ những nạn nhân chịu ảnh hưởng từ lũ lụt. Riêng Tổng giáo phận Sài Gòn quyên góp được số tiền 800.000 piastres – 10.884 đô la Mỹ, tờ báo Công giáo mang tên Xây Dựng thu được nửa khoản trên, tổ chức Phật giáo thu được 300.000 piastres. Về phía Công giáo, đại diện các giáo phận miền trung Việt Nam và các linh mục, giáo dân của Sài Gòn đã có cuộc gặp vào ngày 19 tháng 11 để lên kế hoạch cứu trợ. Tham gia cứu trợ còn có Tham tán Tòa Thánh Francesco De Nittis. Cá nhân Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình di chuyển bằng đường hàng không vào ngày 20 tháng 11, dẫn đầu nhóm 10 người Công giáo bay đến Qui Nhơn và Đà Nẵng, mang theo tiền và các vật dụng tiếp tế. Nói với báo N.C.W.C. khi trở về, tổng giám mục Bình kể về khuôn mặt teo tóp của các trẻ em vì đói và lạnh. Tổng giám mục Bình cho rằng việc tiếp tế khẩn cấp rất cần thiết nhưng gặp khó khăn trong tình hình hiện tại. Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Hương cũng bày tỏ sự ấn tượng của ông này khi chứng kiến các nữ tu Công giáo và ni cô Phật giáo phối hợp với nhau trong việc phân phát gạo cho người dân.
Giữa tháng 10 năm 1964, 7 giám mục người Việt họp chung với sự chủ sự của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Các giám mục sau đó không đưa ra tuyên bố chung vì tình hình các giáo phận mang tính đặc thù và có thể có chuyển biến nhanh. Mặt khác, các giám mục sẽ hướng dẫn giáo sĩ vào giáo dân vào thời điểm thích hợp. Ngày 25 tháng 11 năm 1964, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cử hành lễ cầu nguyện cho cố tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy, theo yêu cầu từ chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Tham gia có thủ tướng Trần Văn Hương và nội các chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Về phía người Hoa Kỳ, có các quan chức cấp cao cũng tham dự như Phó đại sứ U. Alexis Johnson, Tư lệnh Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam William Westmoreland. Riêng đại sứ Maxwell D. Taylor đã trở về Washington D.C. nên không tham gia nghi lễ này.
Đại hội Thánh Mẫu tổ chức tại Sài Gòn giữa tháng 12 cùng năm, Tổng giám mục Bình tham gia đại hội này và chủ sự nghi thức bế mạc. Thượng Hội đồng Quốc gia Việt Nam Cộng hòa gồm nhóm tướng lĩnh tự giải tán vào ngày 20 tháng 12 và không có tuyên bố chung nào được đưa ra. Linh mục Hoàng Quỳnh, chủ tịch Hội đồng Trung ương của tổ chức Công giáo Đấu Tranh tuyên bố vào ngày 22 tháng 12 rằng ông tán thành quyết định của Hội đồng và cho rằng Hội đồng đã loại bỏ "một số thành viên Cộng sản" ra khỏi Hội đồng. Trước đó và nhiều lần Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đã xác nhận linh mục Quỳnh không phải phát ngôn viên của phía Công giáo. Lễ đêm giáng sinh năm 1964 chỉ diễn ra từ 6 giờ tối đến 10 giờ tối. Tổng giám mục Bình cũng cấm các lễ ở nơi công công do lệnh giới nghiêm quy định 1 giờ sáng. Đây là lễ Giáng sinh đầu tiên không được tổ chức tại nơi công cộng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đất đai thuộc trại phong Thanh Bình được Hội Thừa Sai Paris (MEP) bán lại cho Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn với giá 1 đồng bạc có diện tích 106 mẫu, nhằm mục đích phục vụ bệnh nhân phong. Trại phong Thanh Bình do Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình thành lập và mang tên ông. Trại phong này chính thức thiết lập ngày 31 tháng 12 năm 1964, với địa chỉ nay thuộc về phường Bình Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các hoạt động giai đoạn 1965 – 1967
Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình bỏ phiếu vào ngày 11 tháng 9 năm 1966 Từ sau năm 1965, phong trào chính trị thiên hướng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, Tổng giám mục Bình đứng ngoài các đảng phái chính trị để tạo sự hợp nhất cho giáo dân. Ông cũng tìm hiểu và thông thông cảm với tất cả các quan điểm chính trị. Cuối tháng 1, Thủ tướng Trần Văn Hương và nội các của ông bị bãi bỏ do một cuộc binh biến. Người dân Việt Nam Cộng hòa cảm thấy khó chịu vì ông Hương được họ đánh giá cao vì họ đánh giá ông là người chính trực, không nhượng bộ dù chịu nhiều áp lực. Nguyên nhân thứ hai, họ đánh giá chính phủ ông bị lật đổ vì những người Phật giáo thiếu quyền lực ủng hộ thỏa thuận với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam do những nhà lãnh đạo Cộng sản kiểm soát. Thủ lĩnh nhóm tín đồ Phật giáo là Thích Trí Quang, một người có quan điểm tích cực chống Công giáo. Phía Công giáo, không có một tổ chức nào lên tiếng, nhưng từ những gì các linh mục, giáo dân trả lời cho thấy họ lo lắng trước tình hình trên. Tổng giám mục Bình cho rằng tình hình chưa rõ ràng nên chưa có bình luận chính thức và kêu gọi giáo dân Công giáo bình tĩnh. Linh mục Hoàng Quỳnh cho rằng quốc gia chỉ có thể tồn tại nếu trật tự được tôn trọng.
Sáng ngày 6 tháng 2 năm 1965, cố vấn an ninh Quốc gia Hoa Kỳ McGeorge Bundy tổ chức loạt cuộc họp tại dinh thự của Đại sứ Maxwell D. Taylor và Phó Đại sứ U. Alexis Johnson với các nhà lãnh đạo tôn giáo Việt Nam: Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình từ Giáo hội Công giáo Rôma; ông Trần Quang Vinh, lãnh đạo Cao Đài; ông Lương Trọng Tường, lãnh đạo Hòa Hảo; Hòa thượng Thích Thiện Minh, lãnh đạo Phật giáo; và Trần Quang Thuận, một cư sĩ Phật giáo nổi tiếng. Cuộc trò chuyện với Tổng giám mục Bình được hai bên thảo luận bằng tiếng Pháp. Trong khuôn khổ ba ngày cầu nguyện cho hòa bình, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình dẫn đầu đoàn giáo dân từ tỉnh Quảng Trị đến Đền thánh Đức Mẹ La Vang, nhân dịp lễ Công giáo mang tên Lễ Đức Mẹ Lên Trời, ngày 22 tháng 8.
Đầu tháng 9 năm 1965, Tổng giám mục Bình khởi hành đi Roma tham gia Công đồng Vatican II, giai đoạn thứ IV. Cùng năm, trong phiên họp cuối cùng của Công đồng Vatican II, ngày 28 tháng 10 năm 1965, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình và 23 nghị phụ khác đồng tế lễ với Giáo hoàng Phaolô VI.
Ngày 9 tháng 11, Tòa Thánh bổ nhiệm linh mục Tổng đại diện Tổng giáo phận Sài Gòn Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm làm giám mục phụ tá Tổng giáo phận này, hỗ trợ mục vụ cho Tổng giám mục Bình. Trong một cuộc họp báo do tổ chức từ thiện đến từ Tây Đức tổ chức vào ngày 21 tháng 12 năm 1965, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tuyên bố Việt Nam cần nhiều nguồn viện trợ khổng lồ để phục vụ nhu cầu của người dân không phân biệt tôn giáo. Ông cho biết mối quan hệ Phật giáo và Công giáo trở nên tốt đẹp hơn vì sự thúc đẩy đại đoàn kết của Công đồng Vatican II. Khi được hỏi về vấn đề người Công giáo thuộc khu vực do những người theo tư tưởng Cộng sản kiểm soát, Tổng giám mục Bình cho rằng những người Cộng sản đã tránh những vụ việc được xem là đàn áp tôn giáo. Ông cũng cho biết các linh mục bị tấn công và cầm tù vì lý do "lạc đàng" trong chính trị.
Vì tình hình phân bổ dân cư Tổng giáo phận Sài Gòn khá phức tạp do diện tích quá lớn, dân cư đa dạng nguồn gốc, sắc dân, kinh tế, văn hóa lẫn truyền thống sống đạo nên Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình kiến nghị Tòa Thánh chia Tổng giáo phận ra làm 3 giáo phận: Giáo phận Xuân Lộc, Giáo phận Phú Cường và Tổng giáo phận Sài Gòn. Linh mục Hoàng Quỳnh tuyên bố chính phủ Nguyễn Cao Kỳ trong thời gian này là chính phủ tệ nhất từ khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ vì không thể nâng cao mức sống cho người dân, không thể giải quyết khủng hoảng kinh tế. Ông này cũng yêu cầu lập chính phủ dân sự gồm các nhà lãnh đạo thuộc các tôn giáo chính. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình khẳng định linh mục Quỳnh chỉ bày tỏ trên tư cách cá nhân. Quan điểm của Giáo hội Việt Nam nếu có sẽ được hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam công bố. Trong bối cảnh trên, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình từ chối lời mời của Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đến tham gia hội nghị chính trị quốc gia tổ chức vào giữa tháng 4 năm 1966. Không tham gia hội nghị nhưng tổng giám mục Bình cho phép hai tín đồ Công giáo tham gia hội nghị này với tư cách cá nhân, không phải với tư cách đại diện Tổng giám mục Bình. Phía Phật giáo cũng từ chối lời mời và không cử đại diện tham gia.
Đầu tháng 5 năm 1966, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình chấp thuận kiến nghị đổi tên Trung tâm Công giáo Đại Đoàn Kết thành Khối Công dân Công giáo Việt Nam. Tổ chức này tiền thân là Uỷ ban Đấu Tranh Công giáo, thành lập tháng 6 năm 1964 để phản đối việc các quyền lợi người Công giáo bị xem nhẹ. Sáng lập viên là linh mục Hoàng Quỳnh. Sau quá trình điều tra về nghi vấn các giáo xứ lập đội sát thủ để hãm hại những ứng viên theo tư tưởng Cộng sản cố tham gia tranh cử, Chủ tịch Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Bình bác bỏ tin đồn trên vào ngày 3 tháng 5 năm 1966. Nhiều linh mục khác như Giám đốc Cục Thông tin Công giáo Quốc gia, biên tập viên báo Công giáo mang tên Xây Dựng cũng bác bỏ tin này.
Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cử hành nghi thức thành hiến và cử hành lễ đầu tiên tại Trung tâm hành hương Fatima Bình Triệu vào ngày 15 tháng 8 năm 1966. Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình nói với các linh mục Hạt trưởng thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn để thông báo cho tất cả các linh mục Họ đạo rằng ông muốn tất cả người Công giáo ủng hộ cuộc bầu cử cho Hội đồng Lập hiến vào ngày 11 tháng 9. Đề nghị này không được lập thành văn bản, nhưng tổng giám mục Bình bày tỏ mong muốn người Công giáo sẽ bỏ phiếu tận tâm. Trả lời phỏng vấn tạp chí Anh ngữ Free Observer, Tổng giám mục Bình cho biết ông kêu gọi giáo dân tham gia với tư cách công dân và nhắn nhủ giáo dân thực hiện quyền công dân. Tổng giám mục Bình cho rằng những công dân Công giáo cần bầu cử cho những người xứng đáng, không bầu chọn với lý do tôn giáo của ứng viên. Nói về các linh mục Công giáo tham gia chính trị, Tổng giám mục Bình tuyên bố các linh mục Quỳnh và Dư không đại diện cho Giáo hội Công giáo, ngay cả bản thân ông cũng vậy. Trả lời phỏng vấn nhật báo Công giáo Xây Dựng, Tổng giám mục Bình nói với ứng viên Công giáo rằng họ vào Hội đồng lập hiến để làm việc cho quốc gia chứ không phải vì Giáo hội Công giáo hay lợi ích cá nhân. Hội đồng Lập hiến được bầu chọn, gồm 33 ứng viên Công giáo trên tổng số 108 ứng viên đắc cử. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham gia phiên khai mạc Hội đồng này ngày 27 tháng 9, với Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas. Phía Phật giáo có hòa thượng Thích Minh Trúc tham dự.
Ngày 30 tháng 9 năm 1966, Tổng giám mục Sergio Pignedoli, đại diện Giáo hoàng Phaolô VI tham gia cuộc họp của Hội đồng giám mục miền Nam Việt Nam. Ông chủ tế lễ cầu nguyện cho hòa bình tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn ngày 4 tháng 10 và trao các món quà mà Giáo hoàng đã gửi cho Chủ tịch Hội đồng giám mục là Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình là chén thánh và lễ phục (áo lễ).
Nữ Ðan viện Biển Ðức Thánh Mẫu Maria thuộc dòng tu thuộc quyền Giáo hoàng là dòng Nữ Biển Ðức Thánh Bathilde, phát xuất từ Pháp. Tại Việt Nam, đan viện đầu tiên được thành lập năm 1954 tại Buôn Ma Thuột, sau đó dời về Thủ Ðức do yêu cầu của Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình vào năm 1967. Phong trào Cursillo chính thức vào Việt Nam năm 1967, khóa tiếng Việt đầu tên được mở ngày 27 tháng 1 năm 1967 tại tu viện Bêtania, Sài Gòn. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham dự và chủ sự nghi thức trao sứ vụ và lễ bế mạc. Ngày 18 tháng 3 năm 1967, Tỉnh dòng đầu tiên của dòng Đa Minh chính thức thiết lập tại Việt Nam sau gần ba thế kỷ dòng này đến Việt Nam. Lễ nhậm chức của Giám tỉnh tiên khởi Joachim Nguyễn Văn Liêm tổ chức tại nhà thờ của tu viện thánh Albertô. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cùng các giáo sĩ cấp cao tham gia sự kiện này.
Ngày 1 tháng 4 năm 1967, Hiến pháp mới của Việt Nam Cộng hòa được ban bố tại Dinh Độc Lập. Các lãnh đạo tôn giáo được mời hầu hết không tham gia buổi lễ trên, vì trước đó Hòa thượng Thích Tâm Châu đã can thiệp nhằm mục đích Hội đồng quốc gia loại bỏ từ "Đấng Tối Cao" vào giai đoạn cuối trước khi công bố hiến pháp mới. Chính hòa thượng Châu cũng không tham gia sự kiện này và được một nhà sư đại diện. Tổng giám mục Bình dù được mời nhưng không đến tham gia sự kiện này và không cử đại diện. Phía Công giáo có Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas, tham dự với tư cách là một quan chức ngoại giao. Lễ tang cố giám mục Tađêô Lê Hữu Từ, một nhân vật Công giáo, chính trị nổi bật được tổ chức vào ngày 28 tháng 4. Nhiều giáo sĩ cấp cao tham gia buổi lễ, trong đó có Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình. Một số quan chức Việt Nam Cộng hòa cũng có mặt trong lễ tang.
Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cử hành lễ trao Bí tích Thêm Sức cho 80 người tại Nhà nguyện Không quân Hoa Kỳ tại Căn cứ Tân Sơn Nhất. Trong số những người nhận bí tích này có 80 quân nhân Hoa Kỳ và chuyển sang đạo Công giáo trong thời gian ngắn trước đó. Đây là lần đầu tiên ông cử hành lễ Thêm sức cho các đối tượng là quân nhân Hoa Kỳ. Bài giảng lễ được Tổng giám mục Bình giảng bằng tiếng Latinh. Trong dịp này, Tổng giám mục Bình cũng tham quan căn cứ không quân và dùng bữa tối tại đây. Hội nghị Công giáo quốc gia đầu tiên liên quan đến truyền thông đại chúng được tổ chức tại Sài Gòn vào ngày 15 và 16 tháng 6. Tham gia hội nghị đa phần là các linh mục tại miền Nam Việt Nam. Phần khai mạc do Giám mục Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi chủ sự, trong khi ngày thứ hai có Khâm sứ Angelo Palmas. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng tham dự và có bài phát biểu vào ngày bế mạc của hội nghị.
Trong năm 1967, Việt Nam Cộng hòa có kỳ bầu cử Tổng thống vào ngày 3 tháng 9. Trong dịp này, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cấm các linh mục của mình tuyên bố công khai ủng hộ bất cứ ứng cử viên nào cả trong và ngoài Giáo hội. Tổng giám mục Bình cũng tuyên bố ông chào đón tất cả mọi người đến thăm, nhưng không đồng nghĩa ông gặp gỡ ứng viên nào thì ông ủng hộ ứng viên đó. Tổng giám mục Hoa Kỳ Robert E. Lucey, Tổng giáo phận San Antonio, Texas có chuyến viếng thăm Việt Nam Cộng hòa nhân dịp quốc gia này tổ chức bầu cử. Ông đã gặp và trò chuyện với Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình bằng tiếng Ý. Nói về vấn đề tôn giáo, Tổng giám mục Bình cho rằng các bài báo về mâu thuẫn giữa các tôn giáo hầu hết đến từ các báo chí nước ngoài, ông cho rằng tại Việt Nam, vấn đề hầu như không được nhắc đến. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho rằng đang có mối quan hệ mật thiết giữa Công giáo và Phật giáo, thể hiện qua việc một phần lớn ứng viên Công giáo đắc cử trong bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa, trong khi giáo dân Công giáo chỉ chiếm 10%. Nguyễn Văn Bình tuyên bố Nga và Trung Quốc thừa nhận tự do tôn giáo phát triển tại miền Nam Việt Nam nhờ có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Tổng giám mục Bình cho rằng nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, Việt Nam Cộng hòa khó có thể đẩy lùi các cuộc tấn công của quân đội Cộng sản. Nguyễn Văn Bình rời Hoa Kỳ ngày 29 tháng 9 cùng năm để tham gia Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, tổ chức tại Roma với tư cách đại diện Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam.
Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình có bài tham luận tại Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới năm 1967 vào ngày làm việc thứ 12 của Hội đồng, khoảng đầu tháng 10. Vì chưa thể trở về từ Roma, Giám mục phụ tá Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm đại diện Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tham gia lễ nhậm chức tổng thống Việt Nam Cộng hòa của ông Nguyễn Văn Thiệu cuối tháng 10 năm 1967. Phía Công giáo tham gia sự kiện này còn có Khâm sứ Tòa Thánh Palmas. Sau khi trở về Việt Nam sau Thượng Hội đồng, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình lâm bệnh. Trong tình thế này, Giám mục phụ tá Trần Thanh Khâm thay mặt ông gửi lời chia buồn đến các linh mục, tu sĩ và giáo dân, đặc biệt là những người tị nạn khi nhận tin Hồng y Francis Spellman qua đời. Hồng y này đến Việt Nam nhằm mục đích chúc mừng Giáng sinh năm 1962, 1965 và 1966 với quân nhân Hoa Kỳ tại Việt Nam và dự tính trở lại Việt Nam vào dịp Giáng sinh năm 1967.
Những hoạt động trước và sau Sự kiện Mậu Thân (1968)
Ngày 1 tháng 1 năm 1968, thông điệp về Hòa bình của Giáo hoàng Phaolô VI được công bố nhân dịp tổ chức Ngày Hòa bình Thế giới, Tham dự có Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas và nhiều giáo sĩ khác. Cùng tham dự có các đại diện đến từ Phật giáo, Hòa Hảo và Nho giáo. Các đại diện Tin Lành không tham gia sự kiện này. Một số quan chức Việt Nam Cộng hòa dẫn đầu bởi ông Trần Văn Hương, Chủ tịch Thượng viện cũng có mặt tại sự kiện.
Một thông điệp hòa bình được Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam ban hành đã gây tranh cãi. Trong một cuộc phỏng vấn, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tóm tắt quan điểm của các giám mục trong hội đồng là các giám mục xem việc đấu tranh của người dân Nam Việt Nam là tự vệ nhằm bảo vệ chính nghĩa và tự do. Nói rõ hơn, tổng giám mục Bình cho biết các giám mục Việt Nam kêu gọi người Công giáo hoàn thành nghĩa vụ với tư cách là công dân. Các giám mục có quan điểm rằng những nỗ lực phải được thực hiện để chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình, nhưng không ủng hộ luận điểm hòa bình bằng mọi giá. Nói về tuyên bố hòa bình của Hội đồng Giám mục, Tổng giám mục Bình cho biết tuyên bố này tiếp nối nỗ lực của Giáo hoàng Phaolô VI vì hòa bình thế giới và chứa đựng ước nguyện của hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam gửi đến giáo dân. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cũng đề cập đến lời kêu gọi tạm dừng ném bom miền Bắc Việt Nam và nhấn mạnh rằng điều này rõ ràng phải đến từ hai phía. Hội đồng giám mục Việt Nam cho rằng đồng thời với việc dừng ném bom, việc xâm nhập miền Nam từ phía miền Bắc nên dừng lại. Khi được hỏi về vấn đề hàng giáo phẩm Công giáo có ủng hộ liên minh với những người Cộng sản hay không, Tổng giám mục Bình cho rằng vấn đề này thuộc về lĩnh vực chính trị và các giám mục không thể trả lời vấn đề này. Khi được hỏi về việc liên lạc với Mặt trận Giải Phóng, một tổ chức của những người theo lý tưởng Cộng sản, Tổng giám mục Bình cho biết ông đã liên lạc với mặt trận nhưng chưa có thành viên nào của mặt trận này đến gặp mặt ông. Trả lời về vấn đề có tin đồn theo Công đồng Vatican II thì người Công giáo phải buông bỏ vũ khí và liên minh với những người Cộng sản, tổng giám mục Bình cho rằng Công đồng không yêu cầu người Công giáo khoanh tay đứng nhìn quân Cộng sản tiến vào miền Nam.
Cuối tháng 1 năm 1968, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình có cuộc gặp với 500 giáo sĩ thuộc quân đội Hoa Kỳ đang đóng quân tại Việt Nam. Trong trận chiến Tết Mậu Thân, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đã tới hai trong số các bệnh viện trung ương (thuộc Việt Nam Cộng hòa) vào ngày 2 tháng 2 để đến thăm các nạn nhân. Ông cho rằng những bệnh nhân dân sự và quân sự đều đã được chăm sóc tốt. Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình gửi thông điệp đến tín đồ Công giáo, trong đó khuyến kích họ tin tưởng và nỗ lực của chính phủ Việt Nam Cộng hòa để bảo vệ thủ đô Sài Gòn và quốc gia. Ông cũng kêu gọi giáo dân tham gia hiến máu để hỗ trợ các nạn nhân chiến tranh và hỗ trợ những người vô gia cư. Tổng giám mục Bình nhắc nhở các linh mục, tu sĩ và giáo dân cần phản ứng thận trọng trước những tin đồn gieo rắc sợ hãi và tin tưởng vào sự chở che của Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria. Hai tuyên bố của Tổng giám mục Bình được phát trên đài phát thanh Sài Gòn. Về vấn đề tham gia lễ buộc ngày Chúa nhật của người Công giáo, tổng giám mục Bình cho phép họ không tham gia nếu tình hình còn nguy hiểm. Nói với N.C. New Sevices, tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cho biết ông muốn trấn an giáo dân. Tổng giám mục Bình cũng đến thăm các bệnh viện, bao gồm bệnh viện quân đội và các trung tâm tị nạn.
Vào ngày 6 tháng 2 năm 1968, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định người ngoại quốc, kể cả người Hoa Kỳ không nên tham gia làm việc trong các trung tâm tị nạn vì lý do an ninh. Trong tình hình mới, Caritas Sài Gòn do linh mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi đã hỗ trợ tài chính