✨Nguyễn Văn Hiếu (quan nhà Nguyễn)

Nguyễn Văn Hiếu (quan nhà Nguyễn)

Nguyễn Văn Hiếu (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam.

Tiểu sử

Nguyễn Văn Hiếu là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh Gò Công (nay huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang). Tiếng là con của Cẩm y Chưởng vệ Nguyễn Văn Đán, nhưng nhà ông rất nghèo. Thuở thiếu thời, ông từng phải đi cắt cỏ thuê để nuôi thân.

Năm Ất Tỵ (1785), ông gia nhập quân Đông Sơn, ở Gò Khổng Tước (tức Gò Công), dưới quyền của Võ Tánh.

Sau khi Võ Nhàn, một thuộc tướng của Đỗ Thanh Nhơn, bị giết vì tội mưu phản; nghe tin Võ Văn Lượng ở Tân Hòa (Gò Công) là người nghĩa hiệp, nên Võ Tánh cùng các thuộc hạ, trong số đó có Nguyễn Văn Hiếu tìm đến phò giúp Văn Lượng. Sau, Văn Lượng tôn Võ Tánh đứng đầu, phát lệnh dấy nghĩa ở Phù Viên (Vườn Trầu).

Mùa thu năm Đinh Mùi (1787), chúa Nguyễn Phúc Ánh từ Vọng Các (Xiêm La) về nước, sai Nguyễn Đức Xuyên đến chiêu dụ, Võ Tánh cùng Nguyễn Văn Hiếu theo về. Văn Hiếu được chúa trao chức Cai cơ hỗ giá.

Khi chúa Nguyễn đóng binh ở Hồi Oa (Nước Xoáy, Sa Đéc), ông được cử chức Khâm sai Cai cơ, có kèm theo một chiếc thẻ bài.

Năm Bính Thìn (1796), ông giữ chức Hữu chi Phó trưởng chi, rồi Chánh trưởng chi.

Năm Tân Dậu (1801), ông theo Võ Tánh giữ thành Quy Nhơn.

Lúc xảy ra trận thủy chiến ở Thị Nại, ở trong thành Quy Nhơn, thấy lửa hỏa công của quân nhà, Võ Tánh cùng ông bèn mở cửa Đông tung quân ra đánh. Ông Hiếu bị trúng đạn, bị quân của Trần Quang Diệu bắt sống, mãi đến năm 1802, sau khi quân Tây Sơn đại bại ở lũy Trấn Ninh mới được cứu.

Năm Nhâm Tuất (1802), ông được thăng Phó tướng Hữu quân.

Năm Quý Hợi (1803), ông theo Lê Văn Duyệt đánh dẹp dân nổi dậy ở Đá Vách (Thạch Bích, Quảng Ngãi) rồi được triệu về kinh (Huế).

Năm Gia Long thứ 4 (1805), ông được cử giữ chức Quyền trấn thủ Bình Định.

Năm Canh Ngọ (1810), ông được phái đem binh đi Bắc Thành, rồi sau đó gặp tang mẹ, nên xin thôi việc.

Chịu tang xong, ông được bổ làm Trấn thủ Sơn Nam Hạ (tức Nam Định).

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), nhà vua ra Bắc, nghe tiếng ông cai trị giỏi, nên có triệu đến thăng cho một cấp, ban cho ống nhòm, gươm và súng (tất cả đều mạ vàng); cử ông làm Án trấn Thanh Hóa. Ở đây, ông phạm lỗi (xem bên dưới), nên bị giáng ba cấp, nhưng vẫn được giữ chức cũ.

Năm 1826, ông cùng quan trấn Nghệ An dẫn quân đi dẹp yên được cuộc nổi dậy ở Ninh Tạo. Nhờ công lao này, ông được triệu về kinh, thăng Thần sách Tả doanh, Phó Đô Thống chế, lãnh chức Trấn thủ Nghệ An.

Năm 1827, ông được xung chức Kinh lược đại thần đến Nam Định tuần hành các làng xã. Khi về, xét thưởng, ông được thăng Thần sách Tả doanh Đô Thống chế, nhưng vẫn lãnh chức cũ ở Nghệ An.

Năm 1828, quan binh đi kinh lược biên giới Nghệ An, ông hỗ trợ đầy đủ các nhu yếu.

Năm 1829, vì tuổi cao sức yếu, ông xin nghĩ. Nhà vua chấp thuận, nhưng vẫn cho ông được hưởng lương. Khi khỏi bệnh, ông lại giữ chức Đô Thống, Trấn thủ Nghệ An.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh, ông lại được bổ làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình).

Năm 1832, ông thăng Thự Tả doanh Đô Thống phủ Chưởng phủ sự, tước Bá (Lương Năng bá), và được cấp một ngàn quan tiền.

Năm Ất Tỵ (1835), ông mất. Năm Tự Đức thứ 5 (1851), ông được thờ ở miếu Trung hưng Công thần. Năm Tự Đức thứ 11 (1858), Nguyễn Văn Hiếu được thờ ở Hiền Lương Từ.

Cũng dưới triều Tự Đức, không rõ năm, một hôm nhà vua phê vào giấy long đằng hai chữ Nguyên Lương, rồi sai người đem treo tại từ đường nhà ông. Từ đó, con cháu của ông Hiếu đổi tên lót là Nguyễn Lương thay vì Nguyễn Văn.

Giai thoại

Nguyễn Văn Hiếu, tính người thuần phác. Khi làm quan thì được tiếng thanh liêm, cần mẫn. Sách Gò Công xưa chép: :...Ông Hiếu tuy xuất thân võ biền, nhưng có phong thái của một nho thần. Một lần, các vị tân khoa đến nhà chào, ông tiếp đãi rất ân cần, rồi nói rằng: "Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin mừng cho các thầy. Nhớ ngày sau được bổ dụng làm quan, cũng nên giữ gìn như lúc tân khổ, chớ có xa xỉ quá để mang tiếng xấu cho thân danh, và phụ ý tốt (tuyển chọn nhân tài) của triều đình". :Khi làm quan, ông được dân thương mến, lại nghiêm trị thuộc lại, nên họ đều sợ. Trong hạt nhiều trộm, ông Hiếu đến, bọn trộm bảo nhau rằng: Ông Trấn thủ là người nhân huệ, ta phải tránh đi. :Lúc ở Thanh Hóa, một hôm có một thổ ty đem lễ vật đến ra mắt, ông Hiếu lấy lời ôn tồn từ khước. Thổ ty ra về, một thuộc lại của ông lẻn theo, dọa nạt ông này để lấy lễ vật. Ông Hiếu biết được, giận lắm, lập tức đem ra chém. Các quan đều can gián, nhưng ông không nghe. Chém rồi, ông dâng sớ xin chịu tội với triều đình, bị gián ba cấp, nhưng vẫn cho lưu lại chức cũ.

:''Tư cách như vậy, nên dù làm quan lớn đã lâu, cảnh nhà ông trông rất tiêu điều, vì lương bổng chỉ đủ tiêu dùng. Người vợ đem điều ấy thưa với ông, ông cười nói: Bà không nhớ lúc cắt cỏ thuê sao? Lúc ấy, mỗi khi đi đâu thì vợ chồng phải đổi áo mà mặc, chỉ lo đủ cái ăn cho mỗi ngày; nay sánh với xưa, đã hơn gấp mấy lần, thế mà còn muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu sao?. Từ đó, vợ ông không dám đem chuyện "tài lợi" mà thưa với ông nữa.

Câu nói lưu danh

Dưới triều Minh Mạng, có lần cùng các đồng liêu xét án. Thấy có tên trộm đã thú tội rồi, mà vẫn còn bị tra tấn. Ông Hiếu chậm rãi nói:

Nghe ông nói, ai nấy đều giật mình.

Hậu duệ

Nguyễn Văn Hiếu có 6 con trai, là:

  • Nguyễn Văn Nhâm bị tật ở chân, không có con nối dõi.
  • Nguyễn Văn Tôn làm Vệ úy Tả vệ Bình Định, tập tước Lương Năng tử
  • Nguyễn Văn Túc lấy An Phú Công chúa Khuê Gia, hoàng nữ thứ hai của vua Minh Mạng, được phong làm Phò mã Đô úy. Cả hai có với nhau 3 con trai và 3 con gái.
  • Nguyễn Văn Tình làm Thành thủ úy
  • Nguyễn Văn Ân làm Phó quản cơ
  • Nguyễn Văn Nhân làm Lãnh binh Khánh Hòa.

Theo sự tra cứu riêng của Huỳnh Minh, thì dòng họ của ông Hiếu còn ở Thừa Thiên (Huế) khá đông. Vì buổi ấy, các vị công thần trong Nam ra giúp vua Gia Long, rồi định cư luôn ở đó. Xa quê, ông và các bạn có chung hoàn cảnh đã lập một hiệp hội (hội sinh hoạt trong một ngôi đình) ở gần cầu Kim Long (Huế) lấy tên là Nam Châu, sau đổi thành Nam Trung, để hợp theo nghĩa "người Nam Kỳ ra làm quan ở Trung Kỳ". Tên làng có ngôi đình trên, cũng được đổi thành làng Nam Trung).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Ngọc Tương** (1827-1898), còn có tên là **Nguyễn Ngọc Chấn**, tự là _Khánh Phủ_, hiệu là _Trà Phong_ và _Tang Trữ_. Ông là một viên quan nhà Nguyễn và là một sĩ phu theo
**Nguyễn Quang Toản ** (chữ Hán: 阮光纘, 1783 – 1802), là vị hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là con trai của vua Quang
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Nhà diện 2/IV** (thường đọc là _hai trên bốn_) theo định nghĩa của Chính phủ Việt Nam là "_mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính quyền Mỹ ngụy quản lý
**Nguyễn Chế Nghĩa** (阮制義, 1265-1341) là một tướng lĩnh thời nhà Trần. ## Tiểu sử Nguyễn Chế Nghĩa là danh tướng thời Trần và là người thông thạo thập bát ban võ nghệ. Ông là
**Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch** là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và báo
**Nguyễn Văn Hiệu** (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1938 – mất ngày 23 tháng 1 năm 2022) là giáo sư, nhà vật lý, và chính trị gia của Việt Nam. Ông là ủy viên
**Nguyễn Văn Hiếu** (1929-1975) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Võ
**Vòng chung kết giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia 2018** (hay còn gọi là _Giai đoạn 2_ của Giải Futsal Vô địch Quốc gia HDBank 2018) thi đấu theo thể thức vòng
**Nguyễn Văn Huấn** () là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. ## Công trạng Nguyễn Văn Huấn là em của Đại Tư mã Nguyễn Văn Danh. Hai anh em
**Quân khu 7** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam là một trong 7 quân khu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay có nhiệm vụ tổ chức, xây dựng, quản lý và
**Nguyễn Nhược Bích** (chữ Hán: 阮鄀碧; 1830 – 1909), biểu tự **Lang Hoàn** (嫏嬛), phong hiệu **Tam giai Lễ tần** (三階禮嬪), là một phi tần của vua Tự Đức nhà Nguyễn. Bà nổi tiếng là
**Nguyễn Văn Danh** () hay **Nguyễn Văn Tứ** là một tướng lĩnh kiệt xuất của phong trào Tây Sơn. Ông là anh của Hộ giá Thượng tướng quân Nguyễn Văn Huấn. Hai anh em là
**Vòng loại giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia 2018** (hay còn gọi là **Vòng loại Giải Futsal Vô địch Quốc gia HDBank 2018**) là bao gồm các trận đấu vòng loại bóng
**Bà Huyện Thanh Quan** (chữ Nôm: 婆縣青關, chữ Hán: 青關縣夫人 _Thanh Quan huyện phu nhân_; 1805 - 1848), tên thật là **Nguyễn Thị Hinh** (阮氏馨); là một nữ thi sĩ trong thời cận đại của
**Lee Nguyễn** (tên tiếng Việt: **Nguyễn Thế Anh**; sinh ngày 7 tháng 10 năm 1986) là một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp người Mỹ và là cựu cầu thủ làm trợ lý huấn
**_Con côi nhà họ Triệu_** hay **_Triệu thị cô nhi_** (, nghĩa là _đứa con mồ côi của nhà họ Triệu_) là một vở tạp kịch thời nhà Nguyên, tác giả là Kỷ Quân Tường
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Văn Chính Công** (_chữ Hán_:文正公) là thụy hiệu của một số vị công tước trong lịch sử các triều đại phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Bắc Tống Ngụy Văn Chính
**Nguyễn Minh Triết** (chữ Hán: , 1578–1673) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Minh Triết người làng Dược Sơn, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
**Nguyễn Trọng Hiền** (sinh 1963 tại Đà Nẵng) là một nhà vật lý người Mỹ gốc Việt, hiện là giám sát viên nhóm Thiết bị Thiên văn, chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu của Phân
Vụ **tấn công trụ sở Bộ Tổng tham mưu**, cơ quan đầu não của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH), xảy ra vào rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968. Trụ sở Bộ
**Nguyễn Văn Tư** (sinh năm 1935 – mất ngày 26 tháng 10 năm 1964, bí danh là Thành Ngọc) là một quân nhân người Việt Nam, nguyên quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ
**Nguyễn Côn** (15 tháng 5 năm 1916 9 tháng 1 năm 2022) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Bộ trưởng Bộ
**Nguyễn Hữu Tảo** (1900-1966), là một nhà giáo Việt Nam trong thế kỉ 20, người đặt nền móng cho bộ môn Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam. Ông cũng là thầy dạy của
**Phụ Thiên Thuần Hoàng Hậu** (chữ Hán: 輔天純皇后, 22 tháng 12 năm 1870 - 19 tháng 11 năm 1935), còn được gọi là **Đức Thánh Cung** (德聖宮), là chính thất của Đồng Khánh hoàng đế
**Nguyễn Văn Hiếu** (24 tháng 11 năm 1922 – 6 tháng 3 năm 1991) là một chính khách Việt Nam. Ông sinh tại Cà Mau, từng tham gia phong trào Cách mạng Tháng Tám, là
**Giải bóng đá trong nhà vô địch quốc gia 2018** (Hay còn gọi: **Giải Futsal Vô địch Quốc gia HDBank 2018**) là sự kiện lần thứ 12 của Giải bóng đá trong nhà vô địch
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nhà Minh**, quốc hiệu chính thức là **Đại Minh**, là triều đại cai trị Trung Quốc từ năm 1368 đến năm 1644 sau sự sụp đổ của nhà Nguyên do người Mông Cổ lãnh đạo.
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là