✨Hoàng tộc nhà Nguyễn
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng Tôn Thất), đồng thời còn có các quý tộc có công trạng. Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập hệ thống quý tộc tương tự nhà Thanh và có áp dụng hệ thống nhà Hậu Lê.
Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Thế Tổ đã thiết lập hệ thống tước hiệu mô phỏng các triều đại trước. Các tước Quận công thường được ban cho công thần hoặc Tôn Thất đã có công trạng lớn, một số sau này được truy phong. Trong một số trường hợp được truy phong tước vương là tiền vương đời trước như Tuyên vương, Mục vương,... và tuy triều Nguyễn cũng có tước Vương cho những người khi còn sống (như Thọ Xuân vương Nguyễn Phúc Miên Định), song đều do công trạng hoặc tuổi tác cao.
Tới thời kỳ Minh Mạng, thiết lập hệ thống tôn tước gồm 21 bậc. Đồng thời quy định chế độ "tập phong" - tức cho phép con tập tước của cha, thì so với tước được phong của cha trước phải kém xuống một bậc. Có một số trường hợp con lập được công trạng ban phong hơn tước của cha. Các triều đại Hoàng đế triều Nguyễn sau dựa theo cơ bản thiết lập tôn tước của Vua Minh Mạng mà ban phong.
Hoàng tộc
Nam giới
Hoàng tộc nhà Nguyễn chia ra 2 cách gọi cho hậu duệ hoàng tộc. Gồm:
- Hoàng thân (皇親): những hậu duệ trực tiếp từ Nguyễn Thế Tổ.
- Tôn Thất (尊室): những hậu duệ của các Chúa Nguyễn, được chia ra làm 9 hệ. Tương đương Giác La của Hoàng thất nhà Thanh.
Thời điểm này, các Hoàng thân là Hoàng tử, hoặc các người chú của Vua Thế Tổ đều có tước Công như Quận công, so với các công thần vẫn chưa có khu biệt, chỉ đặc biệt nhấn mạnh bằng các danh xưng như "Hoàng tử" hay "Quốc thúc" để biểu ý quan hệ hoàng tộc. Tháng 8 (âm lịch) năm Gia Long thứ 9 (1810), chỉ dụ phong cho người hoàng tộc và cách gọi như sau:
Hệ thống phân cấp tước vị của thời kỳ Minh Mạng được hoàn chỉnh rất nhiều với thời kỳ Gia Long, đánh dấu bằng việc thành lập Tôn Nhân phủ. Từ đây bắt đầu đã thành lập khái niệm "Tôn Thất" chính thức và hoàn thiện để chỉ hậu duệ (không tính nhánh lớn kế thừa) của 9 hệ xa xưa của các Chúa Nguyễn. Danh sách các 9 hệ gồm:
Hậu duệ của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế Nguyễn Kim, là Đệ nhất hệ (第一系);
Hậu duệ của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế Nguyễn Hoàng, là Đệ nhị hệ (第二系);
Hậu duệ của Hi Tông Hiếu Văn Hoàng đế Nguyễn Phúc Nguyên, là Đệ tam hệ (第三系);
Hậu duệ của Thần Tông Hiếu Chiêu Hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, là Đệ tứ hệ (第四系) không có kế tự (tức không lập được Phòng);
Hậu duệ của Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế Nguyễn Phúc Tần, là Đệ ngũ hệ (第五系);
Hậu duệ của Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng đế Nguyễn Phúc Thái, là Đệ lục hệ (第六系) không có kế tự (tức không lập được Phòng);
Hậu duệ của Hiện Tông Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu, là Đệ thất hệ (第七系);
Hậu duệ của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chú, là Đệ bát hệ (第八系);
Hậu duệ của Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế Nguyễn Phúc Khoát, là Đệ cửu hệ (第九系);
Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), Vua Thánh Tổ đã cho chuẩn nghị đem soạn Hoàng triều tôn phổ (皇朝尊譜), chia làm Tiền biên là ghi hậu duệ của các Chúa Nguyễn, tức Tôn Thất; còn Chính biên ghi lại hậu duệ trực tiếp của Vua Thế Tổ Gia Long, tức Hoàng thân về sau. Trong 9 chi hệ kia, có thể gọi là Viễn chi Tôn Thất (遠支尊室), còn Hoàng thân có thể được gọi là Cận chi Tôn Thất (近支尊室). Nhưng dần dà về sau theo chế độ, "Tôn Thất" dùng như một họ để ám chỉ các hậu duệ "Viễn chi" của hoàng tộc nhà Nguyễn.
Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), Vua Thánh Tổ định lệ tôn tước gồm 21 bậc, định làm phép truyền mãi về sau.
Quy định về thân phận ban phong:
- Các Hoàng tử đủ 15 tuổi trở lên theo lệ thì Hoàng đế sẽ xem xét để ban phong, gọi là [Khảo phong; 考封]. Với thành viên Tôn Thất phải trải qua phẩm đức mới tính đến ban tước, không áp dụng lệ ban phong, hơn nữa họ phải chờ cho Hoàng đế lên ngôi hay Đại khánh nào đó, mới dựa vào đức hạnh mà chính thức phong tước.
- Từ Thân vương đến Hương công, thường ban phong cho Hoàng tử và các thành viên hoàng tộc đã từng làm Hoàng tử, gọi chung là Hoàng thân. Các Hoàng tử khi lần đầu gia phong, hầu như ít nhất là Quận công và cao nhất là Thân công. Từ tước Huyện hầu trở xuống, thường để phong cho các Tôn Thất. Dĩ nhiên có các trường hợp Tôn Thất có công lao thì phong vượt, hoặc Hoàng thân bị tội mà giáng tước xuống các tước dưới thông thường.
- Về lệ kế thừa tước hiệu, có hai phương thức gọi là [Tập phong; 袭封] cùng [Ân phong; 恩封], cả hai phương thức này đều bị giáng tước qua các đời, như cha là tước Công thì người tập phong là tước Hầu,... cứ thế đến mức hạn nhất định. Điểm khác nhau, "Tập phong" dựa nguyên tước của cha và là phương thức kế thừa cơ bản, còn "Ân phong" chỉ dành cho người cha có quân công và tên tước ấy không bị phụ thuộc vào nguyên tước của người cha. Nếu con cháu có công trạng vượt trội, thì hoàn toàn có thể cho tập nguyên tước của cha hoặc vượt tước của cha. Điểm đặc biệt là hai phương thức này đều không nhất thiết phải đợi khi người cha qua đời thì mới tiến hành (xem ví dụ về Thọ Xuân vương bên dưới).
- Còn như những người con khác không được dự vào hai hạng trên, thì đều phải qua khảo phong mới xét có ban tước hiệu hay không, phạm vi phong tước đều từ Trợ quốc khanh đến Phụng quốc lang.
Về tên gọi, con trai Hoàng đế khi chưa phân tước đều được gọi là Hoàng tử (皇子), trong cung gọi theo kiểu [Ông hoàng] kèm số thứ tự. Khi phân tước, thì đều gọi theo tên tước, dâng tấu biểu trực tiếp lên Hoàng đế thì mới kèm tên thật (xem quy định năm Gia Long thứ 9 ở trên). Về tên tước, Thân vương thì lấy tên tỉnh, Quận vương, Thân công, Quốc công, Quận công, thì lấy tên phủ, Huyện công và Huyện hầu thì lấy tên huyện, Hương công cùng Hương hầu và Đình hầu thì lấy tên xã. Dưới nữa là Kỳ nội hầu và Kỳ ngoại hầu, cả hai đều là xưng hô thông thường của các tước Hầu, không lập thái ấp. Trợ quốc khanh trở xuống đều lấy chức để gọi. Bên cạnh đó, người xét "Tập phong" vẫn giữ tên tước cũ của người cha, trong khi trường hợp "Ân phong" thì không cần thiết. Ví dụ như Thọ Xuân vương Miên Định, người con trai cả là Hồng Tuấn theo lệ Ân phong mà thụ tước "Ân Mông Đình hầu", tên tước không theo của cha; mà người con thứ 7 là Hồng Hạo theo lệ Tập phong thụ tước "Thọ Xuân Đình hầu", cả hai người con này đều thừa tước khi Thọ Xuân vương vẫn còn sống.
Trong lễ thiết triều, Hoàng tử cũng như Hoàng tử triều trước, tức là anh em con chú bác với đương kim Hoàng đế, hoặc phong Vương, hoặc phong Công, không cứ tước phẩm, đều đứng ở trên điện. Không tính tước, chỉ tính bậc thứ hơn kém. Còn những người Tôn Thất phong đến tước Vương trở xuống, cũng đứng vào ban với các quan ở sân điện theo phẩm hàm. Trường hợp chức có phẩm cao hơn tước thì lấy phẩm cao hơn để định xét. Do đó, trong các văn bản triều Nguyễn, bất kể đã phong tước hay không, thì các Hoàng tử chi gần của Hoàng đế đều gọi theo vai, kèm tước hiệu nếu có.
Cách gọi theo vai vế của các Hoàng tử triều Nguyễn. Tất cả đều xét bối phận đối với "Hoàng đế đang tại vị", trong đó trừ Hoàng tử được xác định là cách gọi cho các con trai của Hoàng đế, thì:
- Hoàng đệ (皇弟), là bối xưng gọi em trai của các Hoàng đế.
- Hoàng huynh (皇兄), là bối xưng gọi anh trai của các Hoàng đế.
- Hoàng thúc (皇叔), là bối xưng gọi chú của các Hoàng đế, em trai của Tiên Đế.
- Hoàng bá (皇伯), là bối xưng gọi bác của các Hoàng đế, anh trai của Tiên Đế.
- Hoàng thân (皇親), là bối xưng gọi chung Thân công triều trước so với Hoàng đế đương kim.
- Thành tố Tiên triều (先朝) hoặc Tiền triều (前朝) kèm danh xưng Hoàng tử: cách gọi chung chung không theo vai vế, trong đó "Tiên triều" là cách 1 đời (so với Hoàng đế đương kim), còn "Tiền triều" là cách 2 đời, rồi cách thêm 1 đời nữa là cứ thêm 1 chữ "Tiền" đằng trước.
Các cháu trai của Hoàng đế, thường được gọi chung là Hoàng tôn (皇孫). Trước quy định chính thức vào năm năm Minh Mạng thứ 10 (1829), thì việc xưng hô con trai con gái của các Hoàng tử hay bị lạm xưng với cách gọi con trai con gái của các Hoàng thân tước Công, hoàn toàn không hợp lý. Cho nên năm ấy, vào mùa đông, Vua Thánh Tổ quy định thêm về cách gọi cho các con trai con gái của Hoàng tử như sau:
Về sau, sang triều Thiệu Trị và Tự Đức, lại định thứ bậc từng ban trong Tôn Nhân phủ cho rõ ràng hơn. Như dịp dâng biểu văn chúc mừng, trước hết viết tên Hoàng tử, rồi đến Hoàng thân Công, Hoàng đệ Công và Hoàng đệ. Khi đứng vào ban thứ ở điện Thái Hoà, thì Hoàng thân Công được đứng trước, rồi đến Hoàng Công, thứ đến Hoàng đệ không có tước, rồi cuối cùng mới đến Hoàng tử, đều liệt vào làm một hàng. Còn khi ở điện Cần Chính thì trước hết là Hoàng đệ còn bé, rồi đến Hoàng tử còn bé, cũng liệt vào một hàng.
Nữ giới
Nữ giới trong hoàng tộc nhà Nguyễn, về cơ bản nói đến các Hoàng nữ - con gái của Hoàng đế cùng chị em và các cháu nội. Con gái Hoàng đế được gọi Hoàng nữ (皇女), khi được sắc phong thì trở thành Công chúa kèm theo theo tên hiệu riêng. Dù vậy, trong thời gian chưa có tên hiệu chính thức, các Hoàng nữ thường được gọi là [Bà chúa] kèm thứ tự trong gia đình, thẻ bài của các bà Chúa cũng ghi thứ tự kèm danh hiệu "Công chúa", ví dụ [Hoàng thứ nữ Công chúa], tức "Bà Hoàng nữ công chúa thứ 2", đây là vì các Hoàng nữ đều không có tước phong nào khác ngoài Công chúa, tương tự việc các Hoàng tử hay được gọi là "Hoàng tử Công" hoặc "Hoàng thân Công" do việc phong tước "Công" xảy ra thường xuyên đối với Hoàng tử triều Nguyễn.
Về danh xưng chính thức, các Hoàng nữ đều chỉ có tên đất phong (thường lấy tên tổng) cùng danh xưng "Công chúa", việc phong tước này xảy ra cực kỳ cụ thể, có lễ sách phong đàng hoàng. Do lễ sách phong Công chúa khá tốn kém, bên cạnh việc khá xem nhẹ Công chúa nói chung, hầu hết Hoàng nữ triều Nguyễn đều phải khi hoặc sau khi gả chồng mới có tước phong Công chúa chính thức, có người thậm chí không đợi được mà qua đời, chỉ được truy tặng. Nhưng để biểu thị vai vế thì các văn bản vẫn dùng theo bối phận danh xưng (so với Hoàng đế) để phân biệt vai vế giữa các bà, tương tự trường hợp các Hoàng tử vậy.
Ngoại trừ Hoàng nữ công chúa biểu thị con gái của đương kim Hoàng đế, thì những bối xưng thường được sử dụng:
- Hoàng muội (皇妹), là bối xưng gọi chung các Công chúa / Hoàng nữ là em gái của Hoàng đế đương nhiệm. Thường dùng khi chưa phong tước hoặc do còn trẻ.
- Trưởng công chúa (長公主), là bối xưng gọi chung Công chúa / Hoàng nữ là chị hoặc em gái của Hoàng đế đương nhiệm. Dùng thường xuyên hơn "Hoàng muội".
- Thái trưởng công chúa (太長公主), là bối xưng gọi chung Công chúa / Hoàng nữ là cô của Hoàng đế đương nhiệm.
- Thái thái trưởng công chúa (太太長公主), gọi chung Công chúa / Hoàng nữ là bà cô của Hoàng đế đương nhiệm.
- Thành tố Tiên triều (先朝) hoặc Tiền triều (前朝) kèm danh xưng Hoàng nữ: dụng ý tương tự như cách dùng cho Hoàng tử.
- Lưu ý: tất cả cách dùng trên là dùng cho Hoàng nữ nói chung, bất chấp đã phong tước hay là chưa, và cũng không có sự ràng buộc vai vế để thống nhất cách ghi. Ví dụ như Xuân Hòa công chúa ở dưới, được Thực lục ghi lại gọi là Tiền triều Hoàng nữ do bà là con gái của Vua Thánh Tổ, đến đời Vua Dực Tông thì đã là vai cô (cách 2 đời nên dùng chữ "Tiền triều"). Trong khi ấy, hai vị triều Thiệu Trị là An Lễ công chúa Ngọc Cửu cùng Nghĩa Hoà công chúa Ngọc Nguyệt, đều là con gái Vua Thế Tổ, do là cô của Vua Hiến Tổ nên được ghi là Thái trưởng công chúa. Có thể thấy cách ghi khác hẳn dù cả 3 đều vai như nhau. Cả hai vị Thái trưởng công chúa khi chết chỉ có thụy hiệu mà chưa có đất phong, sau khi được Vua Dực Tông suy xét công đức mới được truy tặng tên ấp là [An Lễ] và [Nghĩa Hoà] như đã biết.
Ngoài Hoàng nữ là con gái Hoàng đế, thì các con gái của các Hoàng tử được gọi chung là Hoàng tôn nữ (皇孫女), do các bà là "Cháu gái của Hoàng đế đương kim", luận bối phận mà gọi. Quy định năm Minh Mạng thứ 10 cũng ghi lại rõ, các cháu gái của Hoàng tử được gọi là Hoàng tằng tôn nữ (皇曾孫女), rồi Hoàng huyền tôn nữ (皇玄孫女), đây là bởi vì các bà là cháu nội-cháu cố-cháu chắt của Hoàng đế đang tại vị mà luận gọi. Sau khi cha của các Hoàng tôn nữ, tức các Hoàng tử khi trước, trở thành em trai hay anh trai của Hoàng đế đương kim, thì danh xưng cũng liền đổi thành Công nữ (公女; tức "Con gái người tước Công") như các con gái của Hoàng thân tước Công triều trước, để phân biệt vai vế so với Hoàng tôn nữ của Hoàng đế đương kim. Từ đấy, cháu gái của Hoàng tử, cũng như các cháu gái của Hoàng thân công, được gọi là Công tôn nữ (公孫女). Cứ như vậy, cháu chắt của Hoàng tử cũng như Hoàng thân công là Công tằng tôn nữ (公曾孫女), cháu chút của Hoàng tử như Hoàng thân công là Công huyền tôn nữ (公玄孫女),... Để rút gọn, các đời sau được gọi chung họ là Tôn Nữ.
Thân phận của Hoàng nữ có thể bị giáng xuống Tôn nữ nếu phạm đại tội. Triều Tự Đức, có Tiền triều Hoàng nữ là Thục Tư, con gái thứ 43 của Vua Thánh Tổ, vốn được chỉ phong làm Xuân Hòa công chúa, chưa kịp tuyên phong thì Thục Tư vì việc làm bất chính phải tước mất, giáng làm Tôn nữ. Cụ thể sự việc:
Theo thể lệ nhà Nguyễn, nhiều Tôn Nữ đều vào Hậu cung nhà Nguyễn làm Nữ quan, hoặc được chỉ định coi lăng tẩm. Các Công chúa cũng không ngoại lệ, dù gả chồng hay chưa, công việc thường thấy của họ đều là vào hầu Thái hậu, là hầu chuyện hoặc làm lễ dâng cơm hoặc giúp đỡ dâng rượu khi làm lễ Điện tế các đời. Điều này là thông lệ rất nghiêm, có thể thấy triều Thiệu Trị nguyên niên (1841), mùa xuân, ngay sau khi vừa lên ngôi thì trông thấy các Thái trưởng công chúa tuổi cao mà còn phải quỳ lạy khi vào Nội đình hầu, Vua Hiến Tổ bèn ra chỉ dụ:
Lương bổng
Khi mới lập triều, lệ cấp lương cho Hoàng thân, Tôn Thất cùng quan lại của triều đình vẫn là tùy trường hợp mà ân ban, chứ chưa có số liệu cụ thể làm phép bất biến. Năm Gia Long thứ 15 (1816), Vua Thế Tổ phong Hoàng tứ tử Đảm làm Hoàng thái tử (tức Vua Thánh Tổ), lệnh mỗi năm 5000 quan tiền và 3000 phương gạo.
Năm đầu Minh Mạng (1820), Thánh Tổ định ban bổng hằng năm cho các Thân công (là em khác mẹ của Hoàng đế được phong năm cuối Gia Long) với mức bổng khá hậu hĩnh, 3000 quan tiền và 2000 phương gạo, trong đó có 60 phương gạo trắng. Năm thứ 10 (1829), khi bắt đầu phong các Hoàng tử của mình làm Công tước, Thánh Tổ quy định cấp lệ năm là 1000 quan tiền cùng 1000 phương gạo. Từ năm thứ 13 (1832), Vua Thánh Tổ nghĩ lại "khi ấy có thiên lệch quá, ban ơn (hậu như thế) cũng là quá đáng", sau cũng vì lý do các em cùng cháu nhận lệ cũ chỉ còn 7 người mà không nỡ cắt đi, nên trừ những người đã được lệnh gia ân mà giữ nguyên, thì nghị định về sau các Hoàng tử tước nào thì vẫn như bổng đã định bàn.
Năm thứ 21 (1840), chính thức ban dụ về cấp bổng lộc những Hoàng thân có tước vị theo như bảng dưới. Về lệ cấp lương, dụ rằng cứ lấy tháng mới phong mà tính toán. Hai thân phận cơ bản là Hoàng tử cùng Hoàng thân, trong đó Tôn Thất họ xa của hoàng gia cũng tính cùng đãi ngộ với Hoàng thân. Cách gọi "Hoàng thân" chính là nói đến anh em chú bác của Hoàng đế cùng hậu duệ của họ, chia rõ với thân phận Hoàng tử luôn có đãi ngộ cao nhất.
Còn như những Hoàng tử và Hoàng nữ chưa có tước, cùng các Hoàng tôn (cháu trai và cháu gái của Hoàng đế) cùng một số thân thuộc khác của hoàng tộc vẫn chưa có lệ định cụ thể. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), Thánh Tổ định bàn lệ cấp bổng theo năm:
- Hoàng tử: từ tròn tháng đến 10 tuổi, 150 quan tiền và 80 phương gạo, trong ấy có 12 phương gạo trắng. Từ 11 tuổi đến 17 tuổi, nâng thành 200 quan tiền và 150 phương gạo (trong ấy là 18 phương gạo trắng), còn từ 18 tuổi đến 29 tuổi thì 300 quan tiền và 300 phương gạo, trong ấy có 24 phương gạo trắng. Còn trên 30 tuổi thì 400 quan tiền và 300 phương gạo, trong ấy tăng phương gạo trắng lên thành 30 phương.
- Hoàng nữ: từ tròn tháng đến 10 tuổi, 120 quan tiền và 60 phương gạo, trong ấy có 12 phương gạo trắng. Từ 11 tuổi đến 21 tuổi, nâng thành 180 quan tiền và 120 phương gạo (trong ấy là 18 phương gạo trắng), còn từ 22 tuổi thì 300 quan tiền và 240 phương gạo, trong ấy có 24 phương gạo trắng. Dẫu đến lúc lấy chồng, bổng lộc của Hoàng nữ cũng không tăng thêm.
- Hoàng tôn và Công tôn: Hoàng tôn tử (cháu trai của Hoàng đế): từ 3 tuổi đến 10 tuổi, 60 quan tiền và 40 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 11 tuổi đến 15 tuổi, 120 quan tiền và 70 phương gạo, từ 16 tuổi trở lên tăng 10 đơn vị mỗi thứ, trong đó có 18 phương gạo trắng. Hoàng tôn nữ (cháu gái của Hoàng đế): từ 3 tuổi đến 15 tuổi, 60 quan tiền và 40 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 16 tuổi trở lên lãnh 110 quan tiền và 80 phương gạo, trong đó có 18 phương gạo trắng. Khi gả chồng thì chỉ cấp 1 nửa tổng số lương. Hoàng tằng tôn (chắt của Hoàng đế): từ 3 tuổi đến 10 tuổi, 30 quan tiền và 15 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 11 tuổi đến 19 tuổi, 45 quan tiền và 18 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 20 tuổi trở lên, 60 quan tiền và 30 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Công tử (con trai Hoàng thân công): từ 3 tuổi đến 10 tuổi, 60 quan tiền và 40 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 11 tuổi đến 15 tuổi, 110 quan tiền và 60 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 16 tuổi trở lên tăng thành 120 quan tiền và 80 phương gạo, trong đó có 18 phương gạo trắng. Công nữ (con gái Hoàng thân công): từ 3 tuổi đến 15 tuổi, 60 quan tiền và 40 phương gạo, trong đó có 12 phương gạo trắng. Từ 16 tuổi trở lên lãnh 90 quan tiền và 70 phương gạo, trong đó có 18 phương gạo trắng. Khi gả chồng thì chỉ cấp 1 nửa tổng số lương. Công tôn (cháu Hoàng thân công): còn cha thì từ 5 tuổi đến 20 tuổi, lãnh 12 quan tiền và 12 phương gạo. Cha mất, từ 3 tuổi đến 10 tuổi, lãnh 12 quan tiền và 12 phương gạo, từ 11 tuổi đến 20 tuổi lãnh 15 quan tiền và 15 phương gạo. Từ 21 tuổi, không xét cha còn hay mất, lãnh 18 quan tiền và 18 phương gạo. Từ 70 tuổi trở lên, lãnh 36 quan tiền và 36 phương gạo
- Vợ quan Nhất phẩm: Phu nhân (夫人);
- Vợ quan Nhị phẩm: Phu nhân (夫人), sau đổi Đoan nhân (端人);
- Vợ quan Tam phẩm: Thục nhân (淑人);
- Vợ quan Tứ phẩm: Cung nhân (恭人);
- Vợ quan Ngũ phẩm: Nghi nhân (宜人);
- Vợ quan Lục phẩm: An nhân (安人);
- Vợ quan Thất phẩm: An nhân (安人), sau đổi Nhu nhân (柔人). Còn quan chủ hôn đến điện Hoàng Nhân thông cáo việc này, sau lại đến Từ Cung trình lên Thái hậu biết, rồi đến nhà Thanh Phong đường truyền chỉ Công tử nào sẽ lấy Công chúa nào, sau bái mạng rồi lên đường đến phủ quan đại thần cha Công tử truyền chỉ. Hôm sau, cha của Công tử cùng các Công tộc trong họ mặc áo lễ vào tiện điện Văn Minh chờ ngoài sân, bái lạy tạ Hoàng đế. Còn các mệnh phụ mặc áo lễ đến từng cung Khôn Đức và cung Từ Thọ để làm lễ bái tạ.
Sau đó, Cha của công tử đến phủ quan chủ hôn xin hỏi ngày làm lễ ăn hỏi, quan chủ hôn sẽ hỏi Khâm thiên giám chọn 3 ngày tốt để tiến hành "Lục lễ", nhà trai phải liên hệ để biết mà chuẩn bị, cũng có thể kết hợp một ngày 2 đến 3 lễ. Trước lễ ăn hỏi một ngày, cha công tử dẫn các công tộc dâng làm lễ con sinh, lễ vật gồm: 1 lợn mổ, 1 lợn quay và 1 mâm xôi yết kiến Hoàng đế trong tiện điện. Cả họ lạy tạ 5 lạy, lại lên nhận lễ uống trà, ăn trầu cùng Hoàng đế rồi lui. Các mệnh phụ làm tương tự các cung Khôn Đức và cung Từ Thọ.
Quy trình lễ theo điển nghi tiêu chuẩn đầu thời Nguyễn:
- Lễ nạp thái và vấn danh: gia đình Phò mã sẽ đưa lễ vật vào cung, cúng tổ tiên Công chúa và được chủ hôn mở tiệc khoản đãi. Công chúa nhận vàng bạc và nữ trang.
- Lễ nạp trưng và nạp cát: gia đình Phò mã lại đưa lễ vật vào cung, sau đó hai bên tự tổ chức lễ cáo với tổ tiên mình về việc cưới hỏi.
- Lễ điện nhạn và thân nghinh: trước đó, Hoàng đế sai quan khâm mạng đến phủ đệ Phò mã, bày giường thất bảo, màn tiên. Đúng ngày giờ đã định, gia đình Phò mã lễ vật vào cung, trong đó có một cặp ngỗng. Vị đại thần làm chủ hôn lập một phái đoàn rước Công chúa về phủ Phò mã.
Phẩm vật cưới về số lượng mỗi khi mỗi khác và thường là khá nặng. Vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), lễ nạp thái được ghi nhận gồm: 20 lạng vàng, 100 lạng bạc, 2 mâm trầu, 2 mâm cau; lễ vấn danh gồm: một con trâu, hai con lợn, 2 hũ rượu; lễ nạp cát gồm: 4 tấm gấm, 10 tấm lĩnh màu, 10 tấm sa màu; lễ nạp trưng gồm: 2 mâm trầu, 2 mâm cau, 2 hũ rượu; lễ thỉnh kỳ gồm: một con bò, hai con dê, 3 hũ rượu; lễ điện nhạn gồm: hai con chim nhạn (được thay bằng ngỗng), 1 hộp kim chỉ, 100 đồng tiền cổ, 20 lạng vàng, 100 lạng bạc. Có quan nghèo không lo nổi nên Vua Hiến Tổ dụ rằng: ::"Đời xưa, vua Nghiêu gả hai con gái cho Ngu Thuấn ở Vĩ Nhuế, chả nghe nói lễ cưới sang trọng. Hơn nữa, đám cưới chỉ dùng 2 da hươu làm lễ, xưa kia vẫn nói thế. Nay gả Hoàng nữ cho con các đại thần, mà các đại thần thanh thận trung cần, trẫm biết sẵn, vậy 6 lễ cưới, cho tuỳ theo cảnh nhà giàu nghèo mà sắm sửa, không nên ấn định lễ vật, chớ nên bày đặt quá nhiều. Vậy các quan chủ hôn cần biết rõ".
Sách phong cho hoàng tử, hoàng thân
Phàm hoàng tử, hoàng thân được phong từ tước Công trở lên đều cấp cho sách bạc mạ vàng và ấn bạc; tước Hầu trở xuống thì dùng trục lụa ngũ sắc. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840) trở về sau, các tước Quốc công và Quận công đều không cấp cho ấn nữa.
Trước kỳ sách phong, tòa Khâm thiên giám sẽ định ngày tốt để cử hành lễ, bộ Lễ liệt kê các quan ban văn từ Tam phẩm trở lên để đợi chọn phái làm Khâm sứ (Đình hầu thì dùng quan Tứ phẩm). Trước 1 ngày làm lễ sách phong, ty viên ở bộ Lễ sẽ đến phủ đệ của vị hoàng tử công, hoàng thân công đó để chỉ bảo treo đèn kết hoa cho hợp nghi thức; ai chưa ra ở phủ riêng thì làm lễ ở Khánh Thiện đường (nơi phục vụ ăn uống) hoặc Duyệt Thị đường (nhà hát hoàng cung). Gian chính giữa đặt hương án và 1 cái án (bàn dài) sơn vàng ở phía nam hương án để đặt cờ tiết (phong Đình hầu thì không treo cờ tiết và không đặt án để cờ tiết). Chỗ lạy nhận sách ấn đặt ở phía nam án sơn vàng, hướng về phía bắc. Khâm sứ đứng ở phía đông án sơn vàng, hơi chếch về phía nam, mặt hướng về phía tây bắc. Ở gian giữa điện Cần Chánh đặt 2 án vàng, 1 án đặt cờ tiết, án còn lại đặt hộp đựng sách và ấn (phong Đình hầu thì không đặt án, trục lụa do Nội các để ở một nơi tôn trọng, đến giờ thì viên Khâm sứ lãnh đi, để ở trên thái đình, ty loan nghi khiêng đi).
Lại đặt 1 cái thái đình dưới thềm điện Cần Chánh. Sáng ngày sách phong, ty loan nghi đưa lọng vàng, thự Hòa thanh trỗi nhã nhạc, đứng ở 2 bên tả hữu trong sân. Viên Khâm sứ mặc áo mãng bào đợi thuộc viên ở Nội các, ty viên bộ Lễ mặc phẩm phục đứng ở hành lang phía đông. Ty loan nghi đưa lọng vàng, đội Hộ vệ, Cảnh tất mang gươm trường, thân binh, cấm binh mang trượng sơn đỏ đứng ở ngoài cửa Ngọ Môn; nếu sách phong ở nhà Duyệ Thị thì biền binh mang súng trường đứng ở ngoài cửa Nhật Tinh (sau điện Thái Hòa).
Đến giờ, Khâm sứ quỳ trước sân điện, Nội các mang cờ tiết trao cho viên khâm sứ, viên tiếp nhận rồi đứng dậy. Ty viên ở bộ bưng hộp sách, hộp ấn đặt lên thái đình, lính dẫn đường đi trước, nhã nhạc cất lên, khâm sứ cầm cờ tiết đi trước, kế đến là kiệu thái đình được che lọng vàng, ty viên của bộ theo sau. Đến cửa Ngọ Môn thì khâm sứ cưỡi ngựa đi trước, thân binh, cấm binh và biền binh theo đến phủ đệ của hoàng thân công, hoặc nhà Khánh Thiện (nếu phong ở nhà Duyệt Thị thì theo cửa Hưng Khánh đi vào).
Vị Công đó quỳ rước ngoài cửa phủ (phong ở nhà Duyệt Thị thì rước ngoài cửa Hưng Khánh), kiệu thái đình đi qua thì phải dập đầu xuống đất hành lễ rồi đứng dậy theo vào. Viên khâm sứ cắm cờ tiết trên án sơn vàng, ty loan nghi để kiệu thái đình ở phía nam án vàng, ty viên ở bộ sẽ mang hộp sách ấn đặt trên án rồi cho kiệu ra ngoài, đội nhã nhạc và binh lính đứng ở 2 bên tả hữu trước sân. Vị Công ấy đến trước án bái lễ 5 lạy, rồi quay mặt về phương bắc quỳ xuống, 1 ty viên mở bộ sách cho khâm sứ tuyên đọc, xong ty viên đặt sách vào hộp, tương tự như ấn.
Sau khi tuyên đọc xong tất cả, khâm sứ trao lại sách rồi đến ấn cho Công. Công tiếp nhận, giơ lên trán rồi trao cho thuộc phủ tiếp nhận. Công dập đầu rồi đứng dậy, lạy 5 lạy tạ ơn, rồi mời khâm sứ đến chỗ tiếp khách khoản đãi. Khâm sứ xong việc, bưng cờ tiết đến điện Cần Chánh quỳ nộp. Khâm sứ đứng dậy vọng bái 5 lạy làm lễ phục mệnh.
Sách phong cho hoàng nữ
Hoàng nữ thường sau khi lấy chồng (Hạ giá; 下嫁) sẽ sách phong Công chúa (公主)
Danh sách tước Vương
Tước Vương (gồm Thân vương và Quận vương) là tước vị cao nhất của triều Nguyễn sau Hoàng đế. Lệ phong Vương có từ thời kỳ Gia Long, nhưng mang mục đích truy phong chứ không ban phong. Kể từ thời kỳ Minh Mạng về sau tước Vương được thiết lập ban phong.
Minh Mạng
- Thiệu Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Chẩn (truy phong 1824). Hoàng tử thứ chín con vua Gia Long.
- Nghĩa Hưng Quận vương Tôn Thất Khê (Nguyễn Phúc Khê) (truy phong 1831).
- Tương Dương Quận vương Tôn Thất Hạo (truy phong 1831).
- Hải Đông Quận vương Tôn Thất Đồng (truy phong 1831).
- An Biên Quận vương Tôn Thất Mân (truy phong 1831).
- Thông Hóa Quận vương Tôn Thất Điển (truy phong 1831).
- Vĩnh Tường Quận vương Nguyễn Phúc Miên Hoành (truy phong 1835). Hoàng tử thứ năm con vua Minh Mạng.
Tự Đức
- Thường Tín Quận vương Nguyễn Phúc Cự (truy phong 1849). Hoàng tử thứ 11 con vua Gia Long.
- Kiến An vương Nguyễn Phúc Đài (truy phong 1849). Hoàng tử thứ năm con vua Gia Long.
- Diên Khánh vương Nguyễn Phúc Tấn (truy phong 1854). Hoàng tử thứ bảy con vua Gia Long.
- Định Viễn Quận vương Nguyễn Phúc Bính (truy phong 1863). Hoàng tử thứ sáu con vua Gia Long.
- Thọ Xuân Quận vương Nguyễn Phúc Miên Định (ban phong 1874), tấn phong Thọ Xuân vương (1878). Hoàng tử thứ ba con vua Minh Mạng.
- Ninh Thuận Quận vương Nguyễn Phúc Miên Nghi (ban phong 1874). Hoàng tử thứ bốn con vua Minh Mạng.
- Kiến Thuỵ Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Y (truy phong 1877), sau truy phong Thụy Thái vương (1889).
- Tùng Thiện Quận vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm (truy phong 1878). Hoàng tử thứ 10 con vua Minh Mạng.
- Quảng Ninh Quận vương Nguyễn Phúc Miên Mật (truy phong 1878). Hoàng tử thứ 30 con vua Minh Mạng.
- Tương An Quận vương Nguyễn Phúc Miên Bảo (truy phong 1878). Hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mạng.
- Tuy Lý Quận vương Nguyễn Phúc Miên Trinh, sau ban phong Tuy Lý Vương năm 1883. Giáng tước Tuy Lý Huyện công (1883), sau Tuy Lý Công (1886), năm 1889 phong lại Tuy Lý Quận vương, đến năm 1894 ban phong lại Tuy Lý Vương. Hoàng tử thứ 11 con vua Minh Mạng.
- Gia Hưng Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Hưu phong 1883, tấn phong Gia Hưng vương (1884). Xóa tước vương 1884, khôi phục Quận vương năm 1889, tước thân vương năm 1941.
Đồng Khánh
- Bảo hộ Quận vương Philippe-Marie-Henri Roussel de Courcy (ban phong 1885).
- Kiên vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (truy phong 1885), sau truy tặng Kiên Thái vương (1888).
- Thuỵ Nguyên Quận vương Nguyễn Phúc Ưng Chân (tấn phong 1885).
Thành Thái
- Tuy Hòa Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Truyền (truy phong 1889).
- Văn Lãng Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Dật (truy phong 1891).
- Hoài Đức Quận vương Nguyễn Phúc Miên Lâm (ban phong 1894). Hoàng tử thứ 57 con vua Minh Mạng.
- Thái Thạnh Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Phó (truy phong 1897).
- Hoằng Trị Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Tố tấn phong 1897. Truy phong Hoằng Trị vương năm 1922.
- An Xuyên Quận vương Nguyễn Phúc Miên Bàng (tấn phong 1898). Truy phong An Xuyên vương năm 1902.
- An Phước Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Kiện (truy phong 1899).
- An Khánh Quận vương Nguyễn Phúc Quang (truy phong 1899). Sau truy phong An Khánh vương (1918). Hoàng tử thứ 12 con vua Gia Long.
- Hòa Thạnh Quận vương Nguyễn Phúc Miên Tuấn (tấn phong 1899). Truy phong Hòa Thạnh vương năm 1907. Hoàng tử thứ 37 con vua Minh Mạng.
- Hoằng Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Miên Triện (truy phong 1905). Hoàng tử thứ 66 con vua Minh Mạng.
Duy Tân
- An Thành Quận vương Nguyễn Phúc Miên Lịch (tấn phong 1908). Sau tấn phong An Thành vương (1911).
Khải Định
- An Phong Quận vương Nguyễn Phúc Hồng Bảo.
- Cẩm Xuyên Quận vương Nguyễn Phúc Miên Ký (truy phong 1918).
Bảo Đại
- An Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Bửu Tủng (truy phong 1926).
- Hoài Ân Quận vương Nguyễn Phúc Bửu Liêm (tấn phong 1933). Sau truy phong Hoài Ân vương (1940).
- Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo (truy phong 1937). Hoàng tử thứ sáu con vua Minh Mạng.
- Tuyên Hóa Quận vương Nguyễn Phúc Bửu Tán (tấn phong 1942). Sau truy phong Tuyên Hóa vương (1942).
- Lãng Xuyên Quận Vương Nguyễn Uông (truy phong 1943).