✨Thái Nguyên
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn được hợp nhất thành tỉnh Thái Nguyên. Trong lịch sử, tỉnh Bắc Kạn được thành lập từ một phần của tỉnh Thái Nguyên vào năm 1900, hai tỉnh được hợp nhất thành tỉnh Bắc Thái vào năm 1965, và được tách riêng vào năm 1997.
Phần phía Bắc của tỉnh có địa hình núi cao, hai cánh cung Ngân Sơn và Sông Gâm đóng vai trò quan trọng, và là nơi có tỷ lệ che phủ rừng đứng hàng đầu tại Việt Nam. Phần phía Nam của tỉnh có địa hình đặc trưng là đồi núi thấp xen kẽ với ruộng đồng, có dãy núi Tam Đảo nằm ở phần Tây Nam. Sông Cầu là sông dài nhất và quan trọng nhất chảy trên địa bàn Thái Nguyên. Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam, hồ Núi Cốc là hồ nhân tạo và cung cấp nước cho phần phía Nam của tỉnh. Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại, có trữ lượng lớn về vonfram, than, quặng sắt.
Khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 là cuộc khởi nghĩa lớn nhất nổ ra tại Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Thái Nguyên và lập căn cứ chính tại ATK Định Hóa để lãnh đạo lực lượng Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương cho đến năm 1954. Thành phố Thái Nguyên trước đây từng là thủ phủ của khu tự trị Việt Bắc. Ba đơn vị hành chính đông dân nhất của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, phường Vạn Xuân và phường Tích Lương. Thái Nguyên là nơi đóng trụ sở Bộ tư lệnh của Quân khu 1.
Người Kinh chiếm hơn một nửa trong dân cư tỉnh Thái Nguyên, các dân tộc thiểu số như người Tày chiếm tỷ lệ cao và có thế đa số tại phần phía Bắc của tỉnh. Phần phía Nam của tỉnh Thái Nguyên là khu vực phát triển sớm hơn và ở mức độ cao hơn trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Thái Nguyên là một trong các trung tâm lớn về giáo dục bậc đại học của Việt Nam. Các khu công nghiệp của Thái Nguyên tập trung tại phần cực Nam của tỉnh, gần với Hà Nội. Trà Thái Nguyên là một sản phẩm nổi tiếng.
Tên gọi
Tên gọi Thái Nguyên có từ lâu đời, thời nhà Lý gọi là châu Thái Nguyên, thời nhà Trần là một trấn, thời nhà Minh cai trị là một phủ, thời vua Lê Thánh Tông là một thừa tuyên và đến thời vua Minh Mạng của nhà Nguyễn năm 1831 là tỉnh Thái Nguyên. Thái () là to, là rộng lớn, mênh mông, khoáng đạt và yên lành. Nguyên () là nguồn, đầu nguồn; cũng còn nhiều nghĩa nữa. Thái Nguyên nghĩa là một vùng đất lành, rộng lớn, đầu nguồn. Thời Lý, khu vực Thái Nguyên thuộc phủ Phú Lương. Đầu thời Trần, phủ Thái Nguyên thuộc lộ Như Nguyệt Giang. Năm 1469, thừa tuyên Thái Nguyên được đổi tên thành thừa tuyên Ninh Sóc, nhưng đến năm 1490 thì đổi lại thành xứ thừa tuyên Thái Nguyên. Năm 1965, hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn hợp nhất thành một tỉnh, lấy tên là Bắc Thái. Lưu vực sông Năng và vùng hồ Ba Bể từ thời đồ đá cũ khoảng 20.000 đến 10.000 năm TCN đã có người tiền sử sinh sống.
[[Đền Đuổm tại xã Phú Lương là nơi thờ Dương Tự Minh]] Thái Nguyên vào thời phong kiến là vùng đất nhiều rừng núi hoang vu, dân cư thưa thớt. Một cuộc hội thảo vào năm 2012 nhận định rằng Lý Bí tức Lý Nam Đế có quê gốc là thôn Cổ Pháp thuộc phường Vạn Xuân hiện nay, ông rời quê vào năm 13 tuổi. Ông lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Lương, lên ngôi vua và lập nên nước Vạn Xuân. Trong Chiến tranh Tống - Việt năm 981, tàn quân Tống rút lui theo hướng Thái Nguyên, bị quân nhà Lý vượt sông Cầu đuổi đánh đến Võ Nhai. Năm 1076, quân dân nhà Lý tại Thái Nguyên chặn quân Tống tại núi mỏ Gà và tả ngạn sông Cầu, tham gia xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Dương Tự Minh làm thủ lĩnh phủ Phú Lương, bao gồm tỉnh Thái Nguyên và Cao Bằng hiện nay, vào thời nhà Lý thế kỷ XII, từng dẫn quân triều đình nhà Lý đi bình định khu vực biên giới phía Bắc, lần lượt kết hôn với hai vị công chúa nhà Lý. Năm 1150, ông tham gia một cuộc chính biến trong triều đình nhà Lý, khi sự việc thất bại thì ông bị lưu đày tại núi Đuổm thuộc xã Phú Lương. Do địa hình hiểm trở nên phát triển giao thông trong vùng gặp khó khăn, nhà Lý cho khai thông sông Cầu, làm một số đường ngựa và đặt các trạm dịch tại các châu huyện phía bắc, giúp thông hành xuyên suốt Thái Nguyên. Lưu Nhân Chú là người ở xã Vạn Phú, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, và sau này được nhậm chức tể tướng của nhà Lê. Từ thời nhà Lê sơ, nhà Mạc đến nhà Lê trung hưng, xứ Thái Nguyên có chín người đỗ đại khoa tiến sĩ.
Năm 1499, nhà Lê quyết định tách phủ Cao Bằng ra khỏi thừa tuyên Thái Nguyên, đặt thành trấn Cao Bằng. Thái Nguyên là nơi diễn ra các cuộc hỗn chiến gay gắt trong nhiều thập niên do sau khi nhà Mạc mất kinh thành Thăng Long vào tay quân Lê-Trịnh năm 1592, các tướng của nhà Mạc chia nhau chiếm đóng Thái Nguyên. Quân Mạc tập trung rất đông ở tỉnh nhưng cuối cùng vẫn bị quân Trịnh đánh bại, bị đẩy lui về phía bắc. Năm 1596, hai bên giao tranh đẫm máu ở khu vực hồ Ba Bể, sau đó quân nhà Mạc cai quản đất Cao Bằng và một phần Thái Nguyên hiện nay. Sau khi nhà Mạc bị tiêu diệt hoàn toàn vào năm 1677, phủ Cao Bằng lại được tách khỏi trấn Thái Nguyên để trở thành một trấn riêng biệt.
Thời Nguyễn
thumb|Đồn Chợ Chu tại Định Hoá, thập niên 1920 thumb|Nhân viên người châu Âu tại khu khai khoáng tại Mỏ Ba thuộc xã Quang Sơn, 1912 Năm 1813, thủ phủ của trấn Thái Nguyên được chuyển từ xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (nay thuộc phần cực bắc của Hà Nội) lên xã Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay là phường Phan Đình Phùng). Ngày 4 tháng 11 năm 1831, trấn Thái Nguyên đổi thành tỉnh, ngày này được coi là mốc thành lập tỉnh Thái Nguyên. Nhiều cuộc nổi dậy chống nhà Nguyễn nổ ra tại Thái Nguyên, khiến triều đình đối phó một cách chật vật, cuộc nổi dậy do Dương Đình Cúc lãnh đạo có quy mô lớn. Đến năm 1823, Dương Đình Cúc sau khi thua quân Nguyễn thì đưa quân vào rừng Thần Sa củng cố lực lượng, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Đến thời Minh Mạng, nhà Nguyễn cho đặt chức lưu quan do người Kinh nắm giữ ở các tỉnh miền núi, bao gồm Thái Nguyên, gây mâu thuẫn với các thổ quan và người dân bản địa. Trong cuộc nổi dậy Nông Văn Vân từ năm 1833-1835, tỉnh Thái Nguyên là một chiến trường sôi động. Quân nổi dậy từng chiếm thủ phủ tỉnh Thái Nguyên, bắt quan lại nhà Nguyễn, thích vào dòng chữ "quan tỉnh hay ăn hối lộ" rồi đuổi đi.
Từ giữa thế kỷ 18, ghi nhận có nhiều người từ Trung Quốc sang khu vực châu Bạch Thông và huyện Cảm Hoá để khai thác mỏ. Việc khai thác mỏ tại Thái Nguyên phát triển mạnh dưới thời nhà Nguyễn. Triều đình cho mở mỏ diêm tiêu và mỏ chì vào năm 1831, sau đó cho mở các mỏ khai thác vàng và mỏ sắt.
trái|nhỏ|[[Đội Cấn là một trong các nhà lãnh đạo của Khởi nghĩa Thái Nguyên.]] Quân khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp từng tràn sang Thái Nguyên, được nhiều người dân hưởng ứng. Năm 1914, các tù nhân yêu nước và lính khố xanh từng nổi dậy tại thị xã Bắc Kạn. Thực dân Pháp cũng thực hiện tuyên truyền chia rẽ giữa các dân tộc, giữa người vùng cao và vùng thấp.
thumb|[[Mỏ chì kẽm Chợ Điền|Mỏ kẽm Chợ Điền do tư bản Pháp khai thác tại xã Yên Thịnh vào thập niên 1920.]] Quá trình người Pháp cướp đất lập đồn điễn diễn ra gay gắt vào thập niên 1890 và tiếp tục sau đó. Họ chủ yếu kinh doanh gạo và cà phê vì khi đó đang khan hiếm trên thị trường thế giới. Tính đến năm 1918, thực dân Pháp đã tịch thu của nông dân Thái Nguyên trên 80,7 nghìn ha đất để lập 24 đồn điền. Mỏ chì kẽm Chợ Điền ở Chợ Đồn là một mỏ khoảng sản quan trọng ở Bắc Kỳ.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn 1940, căn cứ Bắc Sơn-Võ Nhai của lực lượng cách mạng dần dần hình thành. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày 15 tháng 9 năm 1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Mánh, là đội quân cách mạng đầu tiên của tỉnh. Ngày 10 tháng 3 năm 1945, quân Nhật tiến vào Thái Nguyên, công sứ của Pháp tại Thái Nguyên đầu hàng Nhật. Quân Nhật chiếm đóng thị xã Bắc Kạn vào ngày 17 tháng 3. Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp tuyên bố giải phóng tỉnh Thái Nguyên trong một buổi mít tinh lớn. Tỉnh Thái Nguyên đã tiếp nhận 12.000 người từ các tỉnh khác tản cư đến tính đến tháng 2 năm 1947. Tỉnh Bắc Kạn cũng tiếp nhận nhiều người tản cư từ miền xuôi, thị xã Bắc Kạn trở nên tấp nập, sầm uất hơn hẳn trước đó.
Theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhân dân Thái Nguyên thực hiện tiêu thổ kháng chiến, tự dỡ bỏ hoặc phá hoại tất cả công trình và nhà cửa. Công tác tự phá hoại tại tỉnh Bắc Kạn được tiến hành chậm và ít kết quả hơn. Quân Pháp bắt đầu Chiến dịch Việt Bắc bằng việc tiến hành nhảy dù xuống tỉnh Bắc Kạn vào ngày 7 tháng 10 năm 1947, do lầm tưởng Bắc Kạn là thủ đô chính trị mới của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 24 tháng 8 năm 1949, Bắc Kạn trở thành tỉnh đầu tiên được giải phóng. Năm 1948, tỉnh ủy Thái Nguyên bị cảnh cáo vì hãng Việt Thái (cơ quan của tỉnh bộ) làm ăn thua lỗ gây thất thoát lớn về công quỹ, mờ ám về sổ sách. Cùng năm, quân cách mạng bắt đầu tiến hành "tiễu phỉ" tại khu vực Pác Nặm. Quân đội Pháp nhiều lần tấn công Thái Nguyên bằng cả bộ binh và không quân. Năm 1953-1954, tại xã Phú Đình, Bộ Chính trị quyết định về việc tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thái Nguyên được Trung ương Đảng và chính phủ chọn làm nơi thí điểm chính sách ruộng đất. Tháng 11 năm 1952, Trung ương Đảng chọn hai xã trên địa bàn để thí điểm thực hiện chính sách giảm tô. Đến tháng 12 năm 1953, Trung ương Đảng chọn sáu xã thuộc huyện Đại Từ làm thí điểm cải cách ruộng đất, người Kinh chiếm hơn 95% tổng dân số các xã này, nhằm rút kinh nghiệm để thực hiện cách mạng ruộng đất trên cả nước. Các đội giảm tô và cải cách ruộng đất phạm phải sai lầm nghiêm trọng như đấu tố tràn lan, nên tình hình nông thôn tỉnh Thái Nguyên hết sức phức tạp, mất đoàn kết nghiêm trọng. Cuối năm 1956, tỉnh Thái Nguyên bắt đầu thực hiện chính sách sửa sai. Các xã miền núi trong tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn không tiến hành cải cách ruộng đất như vùng trung du và đồng bằng mà thực hiện giảm tô và cải cách dân chủ, do đại đa số là nông dân lao động, còn thành phần bần cố nông chủ yếu là người Kinh đến làm thuê. Đầu năm 1955, nạn đói lan rộng ở tỉnh Thái Nguyên.
Tháng 8 năm 1956, Khu tự trị Việt Bắc chính thức được thành lập, thủ phủ là thị xã Thái Nguyên. Khu tự trị ban đầu gồm có các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang. Đến ngày 3 tháng 11 năm 1961, chức năng và quyền hạn của khu tự trị Việt Bắc bị Trung ương Đảng thu hẹp, từ cấp chỉ đạo xuống chỉ còn là cấp đôn đốc, kiểm tra. Tỉnh Thái Nguyên cũng hình thành các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, và thành lập công ty hợp doanh với các hộ tư sản và tiểu chủ. Trong giai đoạn này, nạn phá rừng ngày càng nhiều, mỗi năm tỉnh Bắc Thái mất khoảng 100 km² rừng.
thumb|left|[[Chiến dịch Sấm Rền|Không quân Hoa Kỳ oanh tạc khu gang thép Thái Nguyên năm 1967.]] thumb|left|Khu vực đường tròn Gang thép và tượng đài công nhân Gang thép tại phường Gia Sàng - Tích Lương, 2022 Công trường khu Gang thép Thái Nguyên được bắt đầu vào năm 1959, có hơn 22 nghìn người từ nhiều nơi đến đây làm việc, xây dựng khu công nghiệp luyện kim đầu tiên của Việt Nam. Năm 1960, hàng loạt xí nghiệp quốc doanh về các ngành nghề cơ khí, vật liệu xây dựng, lâm sản, thực phẩm, dệt may được hình thành và đi vào hoạt động tại tỉnh Thái Nguyên. Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên thành tỉnh Bắc Thái.
Tỉnh Bắc Thái có các cơ sở kinh tế quan trọng và hệ thống các nhà máy phục vụ cho quân sự nên là một mục tiêu ném bom phá hoại của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam. Đầu tháng 8 năm 1965, 80% cư dân trung tâm thành phố Thái Nguyên phải đi sơ tán. Tỉnh Bắc Kạn cũ có 9.021 chiến sĩ ra mặt trận, với hơn 2.000 người mất. Tình hình cung ứng lương thực sau chiến tranh hết sức khó khăn, Thái Nguyên càng khó khăn hơn do trên 60% lương thực được nhà nước cung cấp cho các đối tượng theo sổ gạo. Nông nghiệp Thái Nguyên phát triển chậm, tổ chức hợp tác xã nông nghiệp có những hạn chế và yếu kém, trong khi kinh tế cá thể từng bước lấn án kinh tế tập thể, phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Do quản lý yếu kém, rừng bị tàn phá nặng nề, diện tích rừng nhanh chóng bị thu hẹp. Các ngành công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ đời sống và sản xuất. Năm 1976, tình trạng đói giáp hạt đã xảy ra ở một số nơi trong tỉnh.
Công trình thủy lợi hồ Núi Cốc được khởi công vào năm 1973, phục vụ cho khu công nghiệp Gang Thép và sản xuất nông nghiệp, là một công trình trọng điểm của Nhà nước khi đó. Các vùng cây trồng tập trung và chuyên canh, chủ yếu là chè, được hình thành để phục vụ cho xuất khẩu. Khi Chiến tranh biên giới Việt-Trung bùng phát, hơn 25.000 người từ Cao Bằng và Lạng Sơn sơ tán đến tỉnh. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, hai huyện Ngân Sơn, Chợ Rã của tỉnh Bắc Thái được nhập vào tỉnh Cao Bằng.
Sự kiện chế độ cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ có tác động đến kinh tế trong tỉnh, do hầu hết các cơ sở công nghiệp đều do các nước này giúp đỡ, nên phụ thuộc vào thiết bị, kỹ thuật và vật tư. Đây cũng là thị trường xuất khẩu truyền thống cho hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh. Chính quyền tỉnh chủ trương chỉ đầu tư vào các xí nghiệp quốc doanh có hiệu quả, các xí nghiệp quốc doanh còn lại bị giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Nguồn vốn và năng lực kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh được huy động, thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh sang sản xuất hàng hoá. Chính quyền tỉnh cũng cho sắp xếp lại y tế và giáo dục trên địa bàn, chống xuống cấp các cơ sở y tế và giáo dục. Do tỉnh có nhiều điểm khai thác vàng sa khoáng, nên giai đoạn này nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội như thuốc phiện, ma túy, mại dâm, cờ bạc. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành, kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh năm 1995 đạt 9,6%, cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ.
Từ 1997
thumb|Tuyến đường Thái Nguyên - Chợ Mới được khai thác từ năm 2016 thumb|Khu vực phường Phan Đình Phùng tại trung tâm tỉnh Thái Nguyên, 2021 Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Thái chính thức được chia tách thành tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên, hai huyện Ngân Sơn và Ba Bể của tỉnh Cao Bằng được chuyển về tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Bắc Kạn mới tái lập có tình hình kinh tế - xã hội kém phát triển, có nền kinh tế thuần nông cùng cơ sở vật chất và hạ tầng yếu kém. Bắc Kạn thực hiện tốt việc quản lý bảo vệ và phát triển rừng, là tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất cả nước với 73,4% theo số liệu năm 2020.
nhỏ|220x220px|left|Cổng tam quan đường Bắc Sơn, liên kết thủ phủ tỉnh và hồ Núi Cốc, phường Quyết Thắng. Trong thập niên 2010, Quốc lộ 3 mới (đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên) được hoàn thành vào năm 2014, quốc lộ 3 cũ qua địa bàn tỉnh cũng được nâng cấp, đường Thái Nguyên - Chợ Mới được xây dựng. Đầu năm 2013, Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc bắt đầu triển khai tổ hợp công nghệ cao tại khu công nghiệp Yên Bình của tỉnh Thái Nguyên. Sự ra đời của tổ hợp này và các dự án phụ trợ khiến công nghiệp Thái Nguyên có bước phát triển vượt bậc, giá trị xuất khẩu của tỉnh tăng vọt, và tuyển dụng một lượng lớn người lao động.. Festival Trà quốc tế Thái Nguyên được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2011. Năm 2013, việc xây dựng mỏ đa kim Núi Pháo cơ bản hoàn thành, là dự án mỏ đa kim lớn nhất Việt Nam cho đến khi đó. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, thị xã Bắc Kạn có nghị quyết chuyển thành thành phố Bắc Kạn, đô thị này phát triển thành một đô thị hiện đại. Sau khi tái lập tỉnh, Bắc Kạn có sự phát triển vượt bậc so với trước, hạ tầng giao thông được đầu tư đến tận các xóm, trường học được xây dựng khang trang, có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế đồi rừng. Trong trận lụt sau bão Yagi vào tháng 9 năm 2024, mức nước sông Cầu tại cầu Gia Bẩy đã vượt trận lụt lịch sử năm 1959.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc sắp xếp một số đơn vị hành chính cấp tỉnh, theo đó tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên được hợp nhất thành tỉnh Thái Nguyên.
Địa lý
thumb|Cánh đồng tại xã Đồng Hỷ, phía xa là núi Voi. Thái Nguyên thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Tỉnh có diện tích là 8.375,21 km², trước khi sáp nhập vào năm 2025 thì tỉnh Bắc Kạn có diện tích 4.853,25 km² và tỉnh Thái Nguyên có diện tích là 3.521,96 km². Thái Nguyên giáp với tỉnh Cao Bằng ở phía bắc, giáp với tỉnh Lạng Sơn ở phía đông, giáp với tỉnh Bắc Ninh, thành phố Hà Nội và tỉnh Phú Thọ ở phía nam, giáp với tỉnh Tuyên Quang ở phía tây. Trong đó, ranh giới tự nhiên giữa Thái Nguyên và Phú Thọ là dãy núi Tam Đảo Khu vực thủ phủ của tỉnh Thái Nguyên cách trung tâm Hà Nội 75 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách cụm cảng Hải Phòng khoảng 200 km.
Năm 1677, Cao Bằng được tách khỏi Thái Nguyên để trở thành trấn Cao Bằng. Năm 1807, một phần đất phía Nam của Thái Nguyên được chuyển về Bắc Ninh, bao gồm thủ phủ của Thái Nguyên (nay thuộc khu vực Sóc Sơn) khi đó, thủ phủ Thái Nguyên chuyển đến khu vực hiện nay. Năm 1890, huyện Bình Xuyên tách khỏi Thái Nguyên để nhập vào tỉnh Sơn Tây. Năm 1894, khu vực Bắc Sơn được tách khỏi Thái Nguyên. Năm 1901, 4 tổng của tỉnh Bắc Giang, trong đó có khu vực phía Bắc sông Công của huyện Đa Phúc, được chuyển sang Thái Nguyên. Năm 1913, 2 xã của châu Định Hoá được chuyển sang tỉnh Tuyên Quang.
Địa hình
thumb|Cảnh quan khu vực Ba Bể Thái Nguyên là tỉnh miền núi và trung du, địa hình có tính đa dạng. Khu vực tỉnh Bắc Kạn cũ có địa hình núi cao, cao hơn các tỉnh xung quanh, các mạch núi cánh cung chi phối địa hình. Cánh cung Ngân Sơn chạy liên tục từ nam Cao Bằng dọc theo phía Đông của Bắc Kạn đến bắc tỉnh Thái Nguyên cũ, tạo thành hình cánh cung rõ rệt. Dãy núi này có nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Cốc Xô cao 1.131 m ở xã Côn Minh. Cánh cung sông Gâm kéo dài dọc theo phía Tây của Bắc Kạn. Khu vực này có đỉnh Phja Bjoóc cao 1.575 m là đỉnh núi cao nhất tỉnh Bắc Kạn, cùng nhiều đỉnh cao trên 1.000 m. Xen giữa hai cánh cung là nếp lõm thuộc hệ thống thung lũng các con sông. Địa hình Bắc Kạn có thể chia làm 3 khu vực: Phía Đông là cánh cung Ngân Sơn mang tính điển hình nhất ở vùng Đông Bắc, có cấu tạo tương đối thuần nhất, chủ yếu thuận lợi phát triển lâm nghiệp; phía Tây cũng là những khối núi cao; khu vực trung tâm dọc thung lũng sông Cầu có địa hình thấp hơn nhiều, thích hợp phát triển nông nghiệp.
Địa hình tỉnh Thái Nguyên trước khi sáp nhập chủ yếu là đồi núi thấp chạy theo hướng Bắc - Nam. Phía Tây Nam có dãy núi Tam Đảo với đỉnh cao nhất đạt 1.591 m. Ở phía bắc có dãy Ngân Sơn từ Bắc Kạn kéo xuống Võ Nhai, cùng với dãy núi Bắc Sơn có hướng Tây Bắc - Đông Nam. Mực địa hình chủ yếu của Thái Nguyên cũ là 200 - 600 m. Thái Nguyên cũ có 3 vùng địa hình: Vùng núi phía Tây và Tây Bắc, vùng núi phía Đông, vùng có địa hình thấp dưới 100 m từ Nam Phú Lương về phía Nam. Phía Đông có dãy núi đá vôi đồ sộ kéo dài từ La Hiên đến Bắc Sơn, cùng những khối núi đá vôi lớn gồm Thần Sa và Phương Giao.
thumb|left|Địa hình vùng núi khu vực quanh hồ Ba Bể. Một dải từ Hà Châu đến cầu Đa Phúc thuộc vùng rìa đồng bằng Bắc Bộ, cao 10 - 15 m so với mực nước biển. Vùng Phú Bình và Phổ Yên cũ phần lớn có địa hình đồng bằng thung lũng sông và đồi thấp. Kiểu đồng bằng đáy thung lũng và cánh đồng karst phân bổ ở Võ Nhai và các vùng phía Bắc khác của Thái Nguyên cũ. Đồng bằng giữa núi có thể tìm thấy ở Vạn Phú hay Trại Cau. Vùng có độ dốc 4 - 8° chiếm phần lớn diện tích vùng Phú Bình và Phổ Yên, độ dốc phổ biến của tỉnh Thái Nguyên cũ là 16 - 25°, vùng núi đá vôi có độ dốc rất lớn và có khi dốc đứng gần 90°. Phần lớn địa hình tỉnh Bắc Kạn cũ có độ dốc lớn trên 15°, chiếm 83,76% diện tích tự nhiên. Tại Bắc Kạn, xen giữa các dãy đồi núi là những dải đất thấp, tương đối bằng phẳng, như cánh đồng Nam Cường hay Mỹ Thanh..
Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành suốt Trung sinh, kết thúc cách nay 67 triệu năm. Sau khi được hình thành xong, lãnh thổ tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục trong 50 triệu năm, địa hình được san bằng thành bình nguyên. Đến tạo sơn Himalaya cách đây 25 triệu năm, Thái Nguyên được nâng cao, có thể từ 200-500 m tùy nơi, làm cho địa hình trẻ lại. Các núi cổ lại lộ ra, tạo lập địa hình như lúc hình thành vào cuối Trung sinh. Trong địa phận Thái Nguyên cũ, phức nếp lồi Bắc Thái chiếm phần lớn diện tích từ thủ phủ tỉnh trở lên phía bắc, nhìn chung là một vùng nâng tương đối gồm các đá Paleozoi. Từ thủ phủ tỉnh trở xuống thuộc võng chồng An Châu, được hình thành mạnh mẽ vào thời kỳ Trias đến Kỷ Creta.
Khí hậu
thumb|Sương mù trên đèo Gió tại xã Nà Phặc-xã Ngân Sơn, 2019 Khí hậu tỉnh Bắc Kạn cũ có sự phân hoá theo độ cao và hướng núi. Mùa hè có nhiệt độ cao và mưa nhiều, mùa đông nhiệt độ thấp và mưa ít, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm của khu vực tỉnh Bắc Kạn cũ là từ 20 - 22°C, nhiệt độ thấp tuyệt đối từng ghi nhận được là -0,1°C ở thành phố Bắc Kạn và -0,6°C ở khu vực Ba Bể, -2°C ở khu vực Ngân Sơn. Nhiệt độ trung bình năm có thể cao hơn 22°C ở thung lũng sông Cầu và vùng cao dưới 200 m. Nhiệt độ trung bình ở hầu hết Bắc Kạn có thể cao đến 25,7 - 27,5°C vào tháng 7, và hạ xuống 12,1 - 14,4°C vào tháng 1. Những nơi cao hơn 1.000 m có thể còn xuống tới 10°C và thấp hơn. Bắc Kạn có băng giá, rét đậm và rét hại kéo dài, ảnh hưởng lớn đến cây trồng, vật nuôi. Số giờ nắng trung bình của khu vực là 1.555 giờ, thấp hơn khoảng 100 - 150 giờ/năm so với khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, các tháng mùa đông chỉ có khoảng 55 - 60 giờ nắng. Khí hậu của khu vực có nhiều thuận lợi cho việc phát triển một số cây trồng cận nhiệt đới và ôn đới.
thumb|left|Khu vực phường Phan Đình Phùng sau cơn mưa, 2019 thumb|left|Lũ lụt sau [[Tác động của bão Yagi tại Việt Nam|bão Yagi tháng 9 năm 2024 tại phường Quan Triều.]] Khí hậu khu vực tỉnh Thái Nguyên cũ có tính chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi. Biên độ dao động nhiệt độ ngày và đêm lớn hơn đồng bằng sông Hồng khoảng 0,5 - 1°C. Mưa tại khu vực thường lớn hơn vùng đồng bằng, còn gió thì yếu hơn. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22 - 23°C, giảm còn 20°C ở vùng đồi núi cao khoảng 600 m. Nhiệt độ trung bình dưới 17°C từ tháng 12 đến tháng 2, vùng đồi núi cao hơn 400 m có thể có 5 tháng lạnh. Tháng 1 là tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình là 15 - 16°C ở vùng thấp, dưới 12°C ở vùng núi. Vùng thấp có 5 tháng có nhiệt độ trung bình vượt quá 25°C và tháng nóng nhất là tháng 7. Ở các vùng núi thì mùa nóng chỉ kéo dài 3 tháng, những vùng núi cao như Tam Đảo không có tháng nào có nhiệt độ trung bình vượt quá 25°C. Số giờ nắng trung bình tại khu vực thành phố Thái Nguyên cũ là 1.690 giờ, trong tỉnh trời âm u vào mùa đông và chỉ đạt 30% số giờ nắng của mùa hè. Mỗi năm có 20 - 30 ngày có thời tiết nồm trong khu vực, riêng tháng 3 có trên dưới 12 ngày. Gió tây khô nóng có nguồn gốc từ vịnh Bengal ảnh hưởng đến Thái Nguyên trong một số ngày vào tháng 5 - 7.
Lượng mưa trung bình năm tại khu vực tỉnh Thái Nguyên cũ là 1.600 - 1.900 mm, vùng Phú Bình ở phía Đông Nam có thể dưới 1.450 mm. Phía Đông có ít mưa hơn hơn phía Tây một cách rõ rệt. Vùng chân núi Tam Đảo của Thái Nguyên có lượng mưa trung bình năm trên 2.000 m, cao hơn sườn phía Tây của dãy núi này do địa hình dốc hơn và đón gió. Lượng mưa vào tháng 7 - 8 thường vượt quá 300 mm, và đạt trên 400 mm tại vùng núi đón gió. Lượng mưa từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm 85 - 90% lượng mưa cả năm, lượng mưa vào mùa còn lại chỉ đạt 200 - 400 mm. Phần lớn tỉnh Thái Nguyên cũ có 3 - 4 tháng mùa khô, riêng vùng Phú Bình có 5 tháng. Độ ẩm trung bình năm tại khu vực là 82 - 84%. Trong vùng miền núi phía Bắc, chỉ có tỉnh Thái Nguyên cũ là có thể phân biệt một mùa khô khá rõ trong tháng 11 - 12. Khu vực Võ Nhai và Phú Bình hay xuất hiện thời tiết sương muối vào cuối tháng 12. Ở phía Tây Thái Nguyên cũ, gió thổi mạnh vào tháng 4 - 5, ở phía Đông thì gió thổi mạnh vào tháng 1-2.
Thủy văn
nhỏ|[[Sông Công đoạn chảy qua thành phố Sông Công cũ]] Tỉnh Thái Nguyên có mạng lưới sông suối khá dày. Sông suối khu vực phía Bắc tỉnh thuộc Bắc Kạn cũ có đặc điểm chung là lòng nhỏ và dốc, nên tốc độ dòng chảy lớn. Diện tích lưu vực sông Năng tính đến thác Đầu Đẳng là 1.890 km², thuộc phần tây bắc của Thái Nguyên. Diện tích lưu vực sông Nà Rì - sông Bắc Giang trên địa bàn là khoảng 1.200 km², thuộc phần đông bắc tỉnh. Diện tích lưu vực sông Phó Đáy trên địa bàn khoảng 250 km², thuộc nam huyện Chợ Đồn cũ.
Sông Cầu bắt nguồn từ vùng núi Tam Tao của xã Chợ Đồn, ở độ cao trên 1.200 m, thuộc hệ thống sông Thái Bình. Đoạn sông Cầu chảy trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn cũ dài khoảng 105 km và qua Thái Nguyên cũ dài khoảng 100 km. Vùng thượng lưu kéo dài đến Chợ Mới nằm giữa vùng núi cao nên lòng sông hẹp, nhiều thác ghềnh và độ dốc là 10%; trung lưu từ Chợ Mới đến đập Thác Huống có độ dốc đáy sông khoảng 1%; hạ lưu từ Thác Huống có độ dốc lòng sông rất nhỏ. Các phụ lưu tả và hữu của sông Cầu tại tỉnh Thái Nguyên tạo thành hình lông chim rõ rệt, khiến lũ sông Cầu không quá đột ngột. Các phụ lưu chính của sông Cầu trên địa bàn Thái Nguyên là sông Chợ Chu, sông Nghinh Tường, sông Đu, sông Mo Linh, sông Công. Trong số này, sông Công dài 96 km là phụ lưu lớn nhất và chiếm khoảng 40% lượng nước của sông Cầu, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước tưới cho tả ngạn sông Cầu. Tháng 2 là tháng có dòng chảy thấp nhất trên phần lớn các sông tại Thái Nguyên cũ, chỉ chiếm 1-2% tổng lượng dòng chảy hàng năm, riêng sông Công là vào tháng 1, và sông Mo Linh là vào tháng 3.
thumb|left|Sông Năng đoạn qua động Puông vào mùa mưa, xã Ba Bể thumb|left|Quang cảnh hồ Ba Bể và núi quanh hồ. Hồ Ba Bể thuộc xã Ba Bể là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam, nằm ở độ cao khoảng 145 m so với mực nước biển. Hồ nhận được nước của sông Chợ Lèng và sông Nam Cường, rồi chảy ra sông Năng. Hồ có chiều dài hơn 8 km, nơi rộng nhất 2 km, diện tích mặt nước khoảng 6,50 km², độ sâu trung bình 20 m. Hồ Núi Cốc được xây dựng từ năm 1973, đập chính dài 480 m và cao 26 m ngăn dòng sông Công tại xã Đại Phúc. Hồ có diện tích mặt nước 25 km², chỗ dài nhất là 12 km và chỗ rộng nhất là 3 km, dung tích 175 triệu m³ nước. Hồ có vai trò rất quan trọng trong điều tiết lũ sông Công, cung cấp nước tưới cho cây trồng, công nghiệp, và nước sinh hoạt. Hồ Nặm Cắt tại xã Phong Quang được xây xong vào năm 2020, diện tích lòng hồ là 87 ha, giúp cung cấp nước cho thành phố Bắc Kạn cũ. Một số hồ thủy lợi lớn khác trên địa bàn tỉnh là hồ Bảo Linh (83 ha), Ghềnh Chè (80 ha), Suối Lạnh (48,8 ha), Trại Gạo (47 ha), Quán Chẽ (43 ha), Bản Chang (40 ha), Vai Miếu (39,4 ha), Khuổi Khe (32 ha), Vân Hán (31 ha)), Phượng Hoàng (20,5 ha), Phú Xuyên/Vai Bành (18,25 ha), Cặp Kè (12 ha). Tỉnh có các hồ chứa thủy điện lớn là Pác Cáp trên sông Nà Rì và Thác Giềng 1 trên sông Cầu, và một phần nhỏ của hồ thủy điện Tuyên Quang.
Đập Thác Huống tại phường Gia Sàng được khánh thành từ năm 1929, để lấy nước sông Cầu cho công trình thủy nông Thác Huống (sông Máng). Toàn bộ tuyến kênh này dài hơn 52 km, đảm bảo nước tưới cho khu vực Phú Bình và một phần của tỉnh Bắc Ninh. Kênh chính hồ Núi Cốc có chiều dài khoảng 18 km, rộng 13-15 m, dẫn nước đến khu vực Phú Bình. Thái Nguyên cũ có tài nguyên nước mặt khá phong phú, khoảng trên 2 tỷ m³. Về nước ngầm, khu vực này có khả năng cung cấp nước mang tính cục bộ, nhưng có độ khoáng hoá khá lớn trên 10g/l, có điểm nước khoáng La Hiên. Nước dưới đất trong khu vực thường nằm ở độ sâu tương đối lớn, do đó việc khai thác nước ngầm không dễ dàng.
Thổ nhưỡng
thumb|Ruộng tại xã Phú Bình, thuộc vùng thấp phía nam của tỉnh Thái Nguyên, 2017. thumb|Mỏ đá Núi Voi tại phường Linh Sơn. Xu hướng chung của toàn bộ lớp phủ đất miền đồi núi khu vực tỉnh Thái Nguyên cũ là bị feralit mạnh mẽ. Phần lớn đất đồi núi khu vực này có dung tích hấp thu thấp, nghèo cation kiềm trao đổi, tỉ lệ các khoáng trong đất rất thấp. Nhìn chung, do thành phần đá mẹ thống trị ở khu vực là đá phiến và sa diệp thạch cùng các sản phẩm phá hủy từ chúng, nên đất có chất lượng yếu hoặc trung bình về mặt nông học. Theo đặc điểm, đất khu vực Thái Nguyên cũ gồm có: Đất feralit màu vàng nhạt trên núi thấp chiếm 48,1% diện tích, thường phân bổ ở độ cao trên 200 m, hình thành do phong hoá từ đá mácma, đá biến chất và đá trầm tích. Đất feralit điển hình vùng đồi và núi thấp chiếm 31,1% diện tích, chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết, phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đất feralit trên đá vôi có màu nâu đỏ, chủ yếu ở Võ Nhai. Đất dốc tụ phù sa chiếm 12,4% diện tích, nằm ở ven sông suối, trong các thung lũng hẹp hoặc các bãi đá chân núi. Đất ngập nước phân bổ chủ yếu dọc theo sông Công và phía nam Phổ Yên.
thumb|left|Nhũ đá tại hang Phượng Hoàng, xã Võ Nhai Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn cũ, nhóm đất đỏ vàng là nhóm có diện tích lớn nhất, chiếm 85,51%. Trong đó, đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất chiếm 53,32% diện tích, đất vàng đỏ trên đá macma axit chiếm 14,26% diện tích, đất đỏ nâu trên đá vôi chiếm 11,61% diện tích và có nhiều ở Na Rì. Các loại đất này có độ dày tầng đất thường lớn hơn 100 cm, với độ dày tầng canh tác trung bình khoảng 15 cm và 16 cm. Nhóm đất thung lũng có diện tích 9,93 km². Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi có diện tích 215,12 km², phân bố trên địa hình đồi núi cao. Nhóm đất phù sa có diện tích 88,31 km², phân bố thành dải hẹp ven các sông. Nhóm đất đen có diện tích 51 ha, phân bố tại vùng Ba Bể và Bạch Thông. Đá vôi tập trung ở các vùng như Na Rì và Chợ Mới, với diện tích khoảng 564,11 km².
Hệ sinh thái
thumb|Quả rừng tại Vườn quốc gia Ba Bể. Khu vực tỉnh Bắc Kạn cũ có hơn 1.790 loài thực vật, 84 loài thú, 314 loài chim, 69 loài lưỡng cư - bò sát, 1.091 loài côn trùng, 109 loài cá. Trong đó, có 213 loài động, thực vật quý hiếm, có giá trị bảo tồn cao. Rừng rậm thường xanh nhiệt đới từng bao phủ toàn bộ diện tích tỉnh Thái Nguyên cũ trước khi con người tác động. Hệ thực vật ít nhất là có 2.000 loài; hệ động vật có 422 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái; vẫn còn một số loài quý hiếm.
Vườn quốc gia Ba Bể có diện tích là 100,48 km², phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 38,46 km², là một phức hệ sông, hồ, rừng trên núi đá vôi. Vườn có các loài cây gỗ quý hiếm như: nghiến, đinh, lim, trúc dây, lát hoa; trong đó, trúc dây là một loài tre đặc hữu của Ba Bể. Đây là trung tâm đa dạng và đặc hữu cao nhất về loài lan không chỉ của Việt Nam mà còn của toàn Đông Nam Á. Các loài động vật đặc hữu quý hiếm trong vườn là voọc đen má trắng, gấu ngựa, vạc hoa, cá cóc bụng hoa,, cầy vằn bắc, rắn hổ mang chúa. Vườn có các thảo dược quý như bảy lá một hoa, lan hành, ba kích, hoàng đằng, mã tiền rừng.
Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc nằm tại vùng Bắc Chợ Đồn có các loài thực vật quý hiếm như nghiến, trai, đinh, các loài Lan (Lan hài) và một số loài dược liệu quý như đẳng sâm, ba kích, kê huyết đằng; các loài động vật quý hiếm như khỉ đen, khỉ mốc, cu li lớn, cu li nhỏ, gấu chó, vạc hoa.
thumb|left|[[Lan hài Việt Nam là loài đặc hữu của tỉnh Thái Nguyên. Khu vực được cho là nơi có nhiều chủng loại dơi nhất tại Việt Nam.
Khu dự trữ thiên nhiên Thần Sa-Phượng Hoàng có tổng diện tích 187 km², trải rộng trên các dãy núi đá vôi của vùng bắc Võ Nhai, có hệ sinh thái rừng núi đá vôi rất đặc trưng, có giá trị bảo tồn cao. Khu dự trữ có một số loài cây quý hiếm như: Củ bình vôi, rau sắng, giảo cổ lam, ba kích, lan kim tuyến; có các loại gỗ quý hiếm: Nghiến, trai, lý, sến; có khỉ mặt đỏ có trong Sách đỏ Việt Nam. Lan hài Việt Nam (Paphiopedilum vietnamense) là loài lan đặc hữu của Việt Nam, chỉ được tìm thấy tại vùng Đồng Hỉ của Thái Nguyên.
thumb|Thác Ngao tại xã Quân Chu, thuộc Vườn quốc gia Tam Đảo Vườn quốc gia Tam Đảo trải rộng trên ba tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, là khu rừng sinh thái lớn nhất miền Bắc, rộng hơn 300 km², trong đó có 261,63 km² rừng, chủ yếu là dạng rừng tự nhiên mưa ẩm thường xanh. Vườn quốc gia Tam Đảo có 11 loài đặc hữu: Rắn sãi angen, rắn dáo thái dương; cá coóc Tam Đảo và 8 loài côn trùng. Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới bao phủ phần lớn dãy núi, phân bố ở độ cao dưới 800 m, có các loài như chò chỉ, giổi, re, trường mật. Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới phân bổ từ độ cao 800 m trở lên. Từ độ cao 1.000 m trở lên xuất hiện một số loài thuộc ngành hạt trần như: Thông nàng, pơ mu, thông tre. Dưới tán rừng có các loài như: Vầu đắng, sặt gai, các loài cây bụi thuộc họ cà phê. Rừng lùn trên đỉnh núi xuất hiện ở các đỉnh núi cao khoảng 1.000 m trở lên, chủ yếu là các loài thuộc họ đỗ quyên, họ re, họ dẻ, họ hồi, họ thích..
Khu bảo vệ cảnh quan Thác Giềng có tổng diện tích hơn 5,9 km², có quần thể khoảng hơn 500 cây gỗ nghiến.
Môi trường
thumb|Đường đang thi công tại xã Đồng Hỷ, 2020 Thái Nguyên còn nhiều diện tích đất bạc màu, đất chua, đất lầy thụt cần được cải tạo. Đến thập niên 2000, khoảng 60% diện tích đất canh tác của tỉnh Thái Nguyên cũ thuộc loại nghèo dinh dưỡng. Nhiều diện tích đất rừng bị biến thành đất trống, đồi trọc, cần có nhiều công sức và tiền bạc để phục hồi. Nhiều vùng đất lớn trở thành các khai trường, các khu bãi thải, hoặc bị nhiễm kim loại nặng do khai thác mỏ. Các khu mỏ tự do cũng tàn phá đất trồng trọt ở các sườn đồi, ven suối. Đồng ruộng dưới các sườn dốc có nguy cơ bị bồi lấp do cát và đất đá từ trên xuống.
Do chênh lệch về lượng mưa, và độ che phủ rừng, tỉnh có nguy cơ về lũ lụt và hạn hán. Mức độ ô nhiễm trên sông Cầu và sông Công có chiều hướng giảm. Nước mặt và nước ngầm ở khu vực đô thị bị nhiễm bẩn vượt quy định. Chất lượng nước tại các khu khai khoáng và khu công nghiệp có chiều hướng tốt hơn do các doanh nghiệp đầu tư công nghệ giảm thiểu ô nhiễm. Trong vùng núi đá vôi xuất hiện suối ngầm nên thường gây mất nước trong mùa khô. Vùng cánh đồng Nam Cường thường bị ngập úng nhiều ngày do hang thoát nước sang hồ Ba Bể bị phù sa bồi lắng. Các công trình thủy điện từng gây cạn kiệt nước sông, ngập nước đất sản xuất.
thumb|left|Bãi thải của mỏ than Khánh Hoà tại phường Quyết Thắng trở thành một ngọn núi nhân tạo. Do có nhiều cơ sở công nghiệp và khai khoáng, không khí Thái Nguyên có nhiều loại chất thải độc hại như khói, bụi, các loại khí độc. Tại các đô thị lớn hay vùng mỏ than, có hàm lượng khí CO2, SO2, asen vượt quy định, bụi có nơi gấp nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Chất lượng không khí các đô thị khu vực tỉnh Bắc Kạn cũ nhìn chung khá tốt, nhưng không khí tại các khu vực khai thác khoáng sản cũng bị ô nhiễm trầm trọng.
thumb|[[Đèo So trên Quốc lộ 3C từng là ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Bắc Kạn trước năm 2025, thuộc xã Kim Phượng - Yên Phong.]] Rừng tại Thái Nguyên từng bị khai thác quá mức, rừng tự nhiên hiện còn lại rất ít, khả năng phòng hộ bảo vệ môi trường thấp. Phần lớn diện tích rừng hiện nay là rừng thứ sinh, có chất lượng thấp. Việc mất rừng làm suy giảm tính đa dạng sinh học, mất nguồn gen quý. Tài nguyên rừng của tỉnh suy giảm do khai thác lâm nghiệp bừa bãi một thời gian dài trong thời bao cấp, khai thác khoáng sản, người dân tộc thiểu số lấy gỗ củi và đốt rừng làm nương rẫy. Cần thiết phải bảo vệ rừng, đồng thời khôi phục tài nguyên rừng.
Đến năm 2023, khoảng hơn 90% số hộ dân ở các đô thị ở Thái Nguyên cũ sử dụng nước sạch. Một số nơi phải cấm khai thác nước ngầm do xảy ra sự cố sụt, lún đất. Một số khu vực của thành phố Thái Nguyên xảy ra tình trạng ngập úng khi có mưa lớn. Bãi rác Đá Mài là nơi xử lý rác lớn nhất Thái Nguyên, tiếp nhận 220 tấn rác thải sinh hoạt mỗi ngày, nhưng có hiện tượng phát tán bụi, khói, mùi hôi, nước rỉ rác ra môi trường.
Chính quyền
nhỏ|Nông Đức Mạnh từng giữ các chức vụ bí thư tỉnh ủy Bắc Thái, Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 2024, tỉnh Thái Nguyên cũ có tổng số 1.887 biên chế hành chính; 25.435 biên chế sự nghiệp công lập. Cùng năm, tỉnh Bắc Kạn cũ có tổng số biên chế hành chính là 1.459; biên chế sự nghiệp công lập là 9.619 người. Số liệu của hai tỉnh thuộc cấp tỉnh và cơ sở, phần lớn người thuộc về lĩnh vực giáo dục. Sau khi sáp nhập, tỉnh Thái Nguyên mới dự kiến có 60 cán bộ, 2.095 công chức, 9.446 viên chức và 526 người lao động ở cấp tỉnh. Trong năm 2024, tỉnh Thái Nguyên cũ thu ngân sách đạt 20.403 tỷ đồng, xếp thứ 9-10 tại miền Bắc, tự cân đối ngân sách và có tỷ lệ điều tiết về ngân sách Trung ương. Trong đó, thu nội địa là 17.590 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương là 16.187 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển là 4.847 tỷ đồng, chi thường xuyên là 9.938 tỷ. Tại tỉnh Bắc Kạn cũ, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2024 ước đạt 1.010 tỷ đồng; tổng chi ngân sách địa phương đạt 9.126 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư phát triển là 3.593 tỷ đồng, chi thường xuyên là 5.530 tỷ. Tỉnh Thái Nguyên sau sáp nhập có 2.888 trụ sở, trong đó dự kiến có 2.507 trụ sở tiếp tục được sử dụng làm trụ sở cho các cơ quan, đơn vị, 258 trụ sở có phương án sử dụng khác và 123 trụ sở không tiếp tục sử dụng. Năm 2019, trên 90% cán bộ, công chức hệ thống chính trị cấp xã ở vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Bắc Kạn là người dân tộc thiểu số.
Tại Quốc hội Việt Nam khóa XV, tỉnh Bắc Kạn có sáu đại biểu thuộc hai khu vực, trong đó có hai đại biểu do Trung ương giới thiệu; tỉnh Thái Nguyên có bảy đại biểu thuộc ba khu vực, trong đó có ba đại biểu do Trung ương giới thiệu. Hội đồng Nhân dân tỉnh Bắc Kạn khoá X có 50 đại biểu trúng cử, thuộc 14 đơn vị, trong đó 50% là nữ giới. HĐND Thái Nguyên khóa XIV có 66 đại biểu trúng cử, thuộc 27 khu vực, có 19 đại biểu là nữ giới. Trụ sở làm việc Khối các cơ quan tỉnh Thái Nguyên được khởi công từ tháng 6 năm 2023 tại phường Phan Đình Phùng, với chi phí 405 tỉ đồng. Một trụ sở làm việc liên cơ quan cấp địa phương cũng được xây dựng tại phường Vạn Xuân từ tháng 8 năm 2023, với mức đầu tư khoảng 400 tỉ đồng. Sau khi thị trấn Chùa Hang sáp nhập vào thành phố Thái Nguyên năm 2017, khu hành chính mới của huyện Đồng Hỷ được xây dựng tại Hoá Thượng với nhiều hạng mục. Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Thái Nguyên được khai trương vào năm 2020, là nơi thực hiện nhiều thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của các sở, ban, ngành, doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan Trung ương trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Bắc Kạn cũ cũng có trung tâm phục vụ hành chính công. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2024 của tỉnh Thái Nguyên xếp thứ 26, còn tỉnh Bắc Kạn không được xếp hạng. Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) năm 2024 của tỉnh Thái Nguyên xếp thứ 4, của tỉnh Bắc Kạn xếp thứ 22.
thumb|left|Trụ sở cũ của Công an tỉnh Thái Nguyên và Công an thành phố Thái Nguyên Thái Nguyên là tỉnh có truyền thống cách mạng, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn cũ vào năm 2024 có 12 đảng bộ trực thuộc, với 37.782 đảng viên, chiếm hơn 11% dân số. Tỉnh Bắc Kạn cũ có tỷ lệ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên tổng dân số thuộc diện cao nhất Việt Nam. Năm 2023, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên cũ có 16 đảng bộ trực thuộc, có 98.378 đảng viên, chiếm khoảng 7,3% dân số. Trong khi đó, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm tỷ lệ 5,4% dân số cả nước vào năm 2025. Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020 - 2025 bầu ra 51 ủy viên ban chấp hành, 15 ủy viên ban thường vụ; và 21 đại biểu chính thức và ba đại biểu dự khuyết dự Đại hội Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 bầu ra 47 ủy viên ban chấp hành, 13 ủy viên ban thường vụ; và 16 đại biểu chính thức cùng một đại biểu dự khuyết dự Đại hội Toàn quốc.
Trong phong trào kết nghĩa Bắc – Nam thời Chiến tranh Việt Nam, tỉnh Bắc Kạn kết nghĩa với tỉnh Kon Tum, tỉnh Thái Nguyên kết nghĩa với tỉnh Khánh Hoà. Tỉnh Thái Nguyên từng ký kết hợp tác với một số địa phương nước ngoài như tỉnh Gyeongsangbuk của Hàn Quốc, tỉnh Luang Prabang của Lào, thành phố Linköping của Thụy Điển. Những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã cử các đoàn công tác đến nhiều quốc gia, như Hoa Kỳ, Úc, Hàn Quốc, Cuba, Brazil, Trung Quốc, Đức, Hungary, Slovakia để xúc tiến đầu tư. Một vài trong số các dự án có sử dụng vốn vay nước ngoài trên địa bàn là: Quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên được xây dựng từ vốn vay của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), chương trình đô thị miền núi phía Bắc tại thành phố Thái Nguyên và thành phố Bắc Kạn sử dụng vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB), kè chống sạt lở tại thành phố Bắc Kạn sử dụng vốn vay từ Cơ quan Phát triển Pháp (AFD).
thumb|Toà nhà Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Thái Nguyên là nơi đặt trụ sở của Bộ Tư lệnh Quân khu 1, Ngân hàng Nhà nước khu vực V, Kiểm toán Nhà nước khu vực X, Kho bạc Nhà nước khu vực VII, Chi cục Thuế khu vực VII. Chi cục Dự trữ nhà nước khu vực VI. Trong năm 2024, toà án nhân dân hai cấp của tỉnh Thái Nguyên cũ thụ lý và giải quyết 6.365/6.653 vụ việc, đạt tỷ lệ chung 95,7%, công bố 4.565 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật lên trang thông tin điện tử. Cùng năm, tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Kạn thụ lý và giải quyết 1.663/1.734 vụ việc; đạt tỷ lệ 96%. Quân khu 1 có tòa án quân sự quân khu, viện kiểm sát quân sự quân khu. Năm 2024, lực lượng công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện, xử lý 748 vụ phạm tội và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, tham nhũng, chức vụ, môi trường; phát hiện, bắt giữ 495 vụ phạm tội về ma túy; tỷ lệ điều tra khám phá án về trật tự xã hội đạt 85,3%. Cùng năm, lực lượng công an tỉnh Bắc Kạn có tỷ lệ điều tra khám phá án về trật tự xã hội đạt 94,6%; khởi tố và chuyển viện kiểm sát 163 vụ, 248 bị can. Trại giam Phú Sơn 4 của Bộ Công an tại xã Vô Tranh có khoảng 6.000 phạm nhân.
Tháng 12 năm 2022, Ủy ban Kiểm tra Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam cảnh cáo Ban cán sự đảng UBND tỉnh Thái Nguyên các nhiệm kỳ 2011 - 2016, 2016 - 2021, và cảnh cáo một số cựu lãnh đạo cấp tỉnh (Dương Ngọc Long, Vũ Hồng Bắc, Nhữ Văn Tâm, Đoàn Văn Tuấn), do có những vi phạm trong quản lý, thực hiện các dự án đầu tư công, quản lý khu công nghiệp, các dự án đầu tư ngoài ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, gây hậu quả nghiêm trọng; nguy cơ thất thoát, lãng phí lớn tiền, tài sản của Nhà nước. Trong những năm gần đây, một số cán bộ cấp cao của tỉnh Thái Nguyên bị kết án tù là cựu Chủ tịch UBND TP Sông Công Lê Văn Khôi. cựu Bí thư Thành ủy Thái Nguyên, cựu Trưởng Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Phan Mạnh Cường. cựu Giám đốc Sở Công thương Nguyễn Ngô Quyết, cựu Giám đốc Nguyễn Thanh Tuấn và cựu Phó giám đốc Nguyễn Thế Giang của Sở Tài nguyên và Môi trường. cựu Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ Trần Tùng. Tại tỉnh Bắc Kạn, cựu Giám đốc Sở Giáo dục và đào tạo Ma Thế Quyên từng bị khởi tố, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Nông Đức Di bị bắt khẩn cấp.
Hành chính
thumb|Bản đồ tỉnh Bắc Kạn năm 1909 thumb|Bản đồ tỉnh Thái Nguyên năm 1909 Theo đề án thì khi sắp xếp đơn vị hành chính tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn vào năm 2025, tỉnh Thái Nguyên có 92 đơn vị hành chính, gồm 15 phường, 77 xã trực thuộc. Tỉnh Bắc Kạn cũ trước khi sáp nhập gồm thành phố Bắc Kạn và bảy huyện là Pác Nặm, Ba Bể, Ngân Sơn, Chợ Đồn, Bạch Thông, Na Rì, Chợ Mới; với 108 đơn vị hành chính cấp xã, gồm: 95 xã, sáu phường, bảy thị trấn. Sau sáp nhập, khu vực tỉnh Bắc Kạn cũ có 37 đơn vị hành chính cấp xã; gồm 35 xã và 02 phường, giảm 65,74%. Tỉnh Thái Nguyên cũ trước khi sáp nhập gồm chín đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm: ba thành phố là Thái Nguyên, Phổ Yên, Sông Công và sáu huyện là Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai; với 172 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm: 121 xã, 41 phường và 10 thị trấn. Sau sáp nhập khu vực tỉnh Thái Nguyên cũ có 55 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 13 phường và 42 xã, giảm 68,02%. Thời điểm tái lập tỉnh Bắc Kạn năm 1997, tỉnh có 112 đơn vị hành chính cấp xã, số lượng này sau đó từng tăng lên 122. Tỉnh Thái Nguyên cũ từng có 181 đơn vị hành chính cấp xã. Năm 2011, tỉnh Thái Nguyên giải thể các thị trấn nông trường Sông Cầu, Quân Chu, Bắc Sơn, và thành lập các thị trấn tương ứng.
Trước năm 2025, tỉnh Bắc Kạn cũ có một số xã có trên dưới 1.000 dân như xã Cao Sơn của huyện Bạch Thông, ngân sách nhà nước cấp khoảng 5–6 tỷ đồng cho chi tiêu thường xuyên của xã này mỗi năm, ngoài ra còn ngân sách cấp cho giáo dục và y tế. Phường Phan Đình Phùng là phường đông dân nhất thành phố Thái Nguyên với trên 26 nghìn người. Một số xã vùng thấp phía nam tỉnh Thái Nguyên có mật độ dân số hơn 1.000 người/km² như Nhã Lộng, Thanh Ninh và Hà Châu của huyện Phú Bình. Các đơn vị hành chính đông dân nhất tỉnh Thái Nguyên sau sáp nhập năm 2025 là phường Phan Đình Phùng, phường Vạn Xuân và phường Tích Lương; các đơn vị hành chính ít dân nhất là xã Sảng Mộc, xã Thượng Quan và xã Quảng Bạch, đều chỉ hơn 3.000 người; trong đó phường Phan Đình Phùng được sáp nhập từ bảy phường cũ, còn hai xã Sảng Mộc và Thượng Quan là hai xã duy nhất không thực hiện sáp nhập vì các lý do như vị trí biệt lập. Các đơn vị hành chính có diện tích rộng nhất tỉnh Thái Nguyên là xã Bằng Thành (208,22 km²), xã Đồng Phúc và xã Văn Lang; các đơn vị hành chính có diện tích nhỏ nhất là phường Sông Công, phường Phan Đình Phùng và phường Bá Xuyên.
Năm 1967, thị xã Bắc Kạn trở thành thị trấn, là thủ phủ huyện Bạch Thông. Năm 1990, thị xã Bắc Kạn được tái lập từ huyện Bạch Thông, thủ phủ huyện Bạch Thông chuyển đến Nguyễn Thị Minh Khai. Khi tái lập tỉnh, Bắc Kạn cũng tiếp nhận lại hai huyện Ngân Sơn và Ba Bể; huyện Bạch Thông tiếp nhận một số xã của huyện Phú Lương, và chuyển một số đơn vị sang thị xã Bắc Kạn, thủ phủ huyện này chuyển đến thị trấn Phủ Thông. Năm 1998, thành lập huyện Chợ Mới từ một phần huyện Bạch Thông. Năm 2003, huyện Pác Nặm được thành lập từ một phần của huyện Ba Bể.
thumb|Khu vực trung tâm xã Ngân Sơn, 2017 Năm 2021, tất cả 108 đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Bắc Kạn và 110/178 đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Thái Nguyên thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; tổng cộng có 117 đơn vị cấp xã thuộc khu vực I, 19 đơn vị cấp xã thuộc khu vực II, 82 đơn vị cấp xã thuộc khu vực III. Sau ba lần sắp xếp, sáp nhập vào năm 2019, 2021 và 2024, toàn tỉnh Bắc Kạn giảm từ 1.421 xuống còn 939 thôn, tổ dân phố. Từ năm 2018 đến 2024, tỉnh Thái Nguyên cũ tiến hành sắp xếp, sáp nhập để giảm từ 3.032 xuống còn 2.206 xóm, tổ dân phố (gồm 1.548 xóm, 658 tổ dân phố).
Trước khi sắp xếp đơn vị hành chính năm 2025, thành phố Thái Nguyên là đô thị loại I từ năm 2010, thành phố Sông Công là đô thị loại II từ năm 2024, thị xã Bắc Kạn là đô thị loại III từ năm 2012 và trở thành một thành phố vào năm 2015, Phổ Yên trở thành đô thị loại III từ năm 2019 và trơ thành một thành phố vào năm 2022. Tỉnh Thái Nguyên cũ từng có định hướng thành lập thị xã Đại Từ và thị xã Phú Bình.
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
|}
Kinh tế
thumb|Chợ Thái tại phường Phan Đình Phùng là một trong các chợ lớn nhất của tỉnh Thái Nguyên. Thái Nguyên thuộc vùng Trung du và Miền núi phía bắc Việt Nam, phần phía nam nằm sát với vùng Đồng bằng sông Hồng, giáp với Hà Nội. Do vậy, tỉnh dễ dàng tiếp nhận các tiến bộ về kinh tế, khoa học-kỹ thuật, vốn đầu tư từ Hà Nội và vùng đồng bằng. Thái Nguyên có lợi thế về tài nguyên, có nhiều loại khoáng sản, giúp xây dựng ngành công nghiệp của tỉnh. Thái Nguyên cũng có lợi thế về giáo dục khi có một số trường đại học, các trường kỹ thuật và dạy nghề, cung cấp nguồn lao động có trình độ. Khí hậu trong tỉnh thuận lợi để kết hợp phát triển nông-lâm nghiệp. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp Thái Nguyên nâng cao giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất - nhập khẩu trong những năm gần đây.
Năm 2024, GRDP của tỉnh Thái Nguyên cũ là hơn 162 nghìn tỷ đồng, xếp thứ 15 tại Việt Nam, GRDP bình quân đầu người của tỉnh là hơn 119 triệu đồng (4.732 USD). GRDP trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn cũ năm 2024 ước đạt hơn 9,5 nghìn tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt hơn 57 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế của Thái Nguyên trong năm 2024: Công nghiệp và xây dựng 55,08%, dịch vụ và thuế 34,43%, nông-lâm nghiệp và thủy sản 10,19%. Cơ cấu kinh tế của Bắc Kạn trong năm này: Dịch vụ và thuế 55,9%, nông-lâm nghiệp và thủy sản 25,9%, công nghiệp 18,2%. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của tỉnh Thái Nguyên cũ đạt gần 27,6 tỷ USD, trong đó của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 26,8 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu của tỉnh Thái Nguyên trong năm này là 16,7 tỷ USD, thặng dư 10,8 tỉ USD. Theo bảng giá đất do UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành vào tháng 11 năm 2024, mức giá đất ở cao nhất tại thành phố Thái Nguyên là 46,8 triệu đồng/m².
Năm 2023, trong nhóm tuổi từ 15 trở lên, tỉnh Bắc Kạn cũ có 61,3% là người làm việc; tỉnh Thái Nguyên cũ có 61,9% là người làm việc. Trong sáu tháng đầu năm 2023, số người lao động tại tỉnh Thái Nguyên cũ làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng 38% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, đến quý 1 năm 2024, số người được cho hưởng trợ cấp thất nghiệp tại tỉnh Thái Nguyên cũ giảm khoảng 30% so với cùng kỳ năm 2023. Về mức lương tối thiểu, từ tháng 7 năm 2024, các thành phố Thái Nguyên, Sông Công và Phổ Yên thuộc vùng II; thành phố Bắc Kạn và các huyện Phú Bình, Phú Lương, Đồng Hỷ, Đại Từ thuộc vùng III; các huyện còn lại thuộc vùng IV.
thumb|Cầu Bến Tượng qua sông Cầu tại phường Linh Sơn và phường Phan Đình Phùng Năm 2024, tỉnh Bắc Kạn cũ có 16.123 hộ nghèo và 7.678 hộ cận nghèo, lần lượt chiếm 19,46% và 9,27% tổng số hộ. Cùng năm, tỉnh Thái Nguyên cũ có 6.938 hộ nghèo và 7.804 hộ cận nghèo, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,04% và 2,3% tổng số hộ. Thu nhập bình quân của hộ người dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên cũ vào năm 2024 đạt 51,07 triệu đồng/người. Hai huyện Pác Nặm và Ngân Sơn nằm trong số 74 huyện nghèo của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũ vào năm 2024 ước đạt 65 nghìn tỉ, vốn nhà nước khoảng 10,4 nghìn tỉ, vốn ngoài nhà nước khoảng 27,3 nghìn tỉ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 27,3 nghìn tỉ. Trong năm tỉnh Thái Nguyên cũ có 27 dự án FDI được cấp mới, tổng vốn đăng ký khoảng 521,3 triệu USD. Lũy kế đến năm 2024, tỉnh Thái Nguyên cũ có 219 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng mức đầu tư đạt gần 10,94 tỉ USD.. Năm 2024, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên cũ vượt mốc một triệu tỷ đồng theo giá so sánh năm 2010, tăng 8% so với cùng kỳ, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của Công ty Gang thép Thái Nguyên được triển khai từ năm 2007, nhưng tính đến năm 2024 vẫn chưa hoàn thành, khiến công ty gặp khó khăn với khoản nợ lớn. Công ty Luyện cán thép Gia Sàng ngừng sản xuất kinh doanh từ năm 2013. Công ty Cổ phần thương mại Thái Hưng nắm giữ vốn chi phối tại Công ty TNHH Natsteelvina chuyên sản xuất thép. Nhà máy luyện gang Bắc Kạn bắt đầu vận hành từ năm 2016, nhưng đã ngừng sả