✨Bửu tỷ triều Nguyễn

Bửu tỷ triều Nguyễn

nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long Bửu tỷ triều Nguyễn hay bảo tỷ triều Nguyễn là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ được coi là trọng khí của quốc gia, nó có tác dụng xác nhận ý chí và mệnh lệnh của nhà vua. Các ấn tín của nhà Nguyễn được chia làm hai loại: Loại ấn bằng vàng gọi là "kim bửu tỷ" hay "kim tỷ" và loại ấn bằng ngọc hay còn gọi là "ngọc tỷ".

Mỗi loại ấn đều có một cách sử dụng riêng và dùng cho một loại văn thư được chỉ định. Dưới chế độ quân chủ, ấn kiếm thường là những vật tượng trưng cho quyền lực tối thượng của vua chúa. trong đó ấn là vật bảo chứng cho sự hiện diện và quyền lực tối thượng của nhà vua nên vai trò càng quan trọng. Ấn của vua vốn có nhiều loại, đúc bằng vàng, bằng ngọc, và gọi chung là bảo (bửu) tỷ.

Khái yếu

nhỏ|phải|Ấn tín của vua Gia Long Theo ghi chép của Nội Các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ thì bảo tỉ là từ để chỉ chung ấn của hoàng đế. Theo Khang Hy Từ điển, mục bộ "NGỌC" chữ Tỉ giải thích là "ấn của Thiên tử và Chư hầu" (Thiên tử Chư hầu ấn dã); ở mục chữ Bảo (Bửu) cũng giải thích là ấn của hoàng đế và chú thêm: "nhà Tân gọi ấn hoàng đế là Tỉ, nhà Đường đổi lại gọi là Bảo (bửu)". Thiều Chữu trong Hán Việt Tự Điển cũng có cách giải thích tương tự, ở phần chữ ẤN và có giải thích thêm như sau: "Phép nhà Thanh định, ấn của các quan thân vương trở lên gọi là bảo. Từ quận vương trở xuống gọi là ấn, của các quan nhỏ gọi là kiềm ký, của các quan khâm sai gọi là quan phòng, của người thường dùng gọi là đồ chương"

Từ thời Nguyễn Phúc Chu đã cho đúc bảo ấn vàng, sau khi Gia Long lập ra triều Nguyễn, việc đúc ấn mới được chú trọng. Tổng cộng trong thời Nguyễn sơ (1802-1883), nhà Nguyễn đã đúc đến hơn 20 chiếc bảo tỷ bằng vàng và bằng ngọc. Trong đó loại đúc bằng vàng chiếm đa số. Nhìn chung, các vua Nguyễn có rất nhiều tỷ, ấn. 13 đời vua nhà Nguyễn có tổng cộng khoảng 46 tỷ ấn. Trong đó, triều Gia Long có 6 chiếc ấn bằng vàng; triều Minh Mạng, chế thêm 8 chiếc.

Các tỷ, ấn cùng với các loại kim sách, ngân sách, phù tín (hổ phù) bằng vàng, bạc được cất giữ trong các tráp, hòm tại điện Cần Chánh. Đến đời Khải Định và Bảo Đại, một số báu vật được lưu giữ tại điện Càn Thành và được bảo mật tuyệt đối. Nếu không có lệnh vua thì không một người nào được tự tiện mở ra xem. Trong 20 chiếc bảo tỷ đúc đầu thời Nguyễn, có 6 chiếc đúc thời Gia Long và 14 chiếc đúc dưới thời Minh Mạng. Danh sách cụ thể gồm:

Kim bửu tỷ

Hoàng Đế chi bửu Ấn Quốc gia tín bảo cùng kim sách mừng vua Gia Long lên ngôi năm 1806 Loại bửu tỷ này gồm có 14 ấn, tất cả các ấn vàng này đều làm núm hình rồng, trên mỗi ấn đều khắc chữ để phân biệt, gồm:

  • Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo
  • Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành
  • Ngự tiền chi bửu (御前之寶): Dùng để đóng vào các Dụ hay Chỉ thuộc về thường sự ở trang thứ nhất, hàng niên hiệu và trang cuối cùng trên hai chữ "Khâm thử" (欽此). Nói chung là dùng để đóng vào các chỉ dụ bình thường
  • Văn lý mật sát bửu (文理密察寶): Đóng lên những văn bản ở chỗ có sửa chữa, thêm bớt và điểm "giáp phùng" (dấu giáp lai) hoặc dùng để đóng vào các chỉ dụ, sớ chương đã có tẩy xóa hoặc thêm vào hoặc những chỗ giáp nhau của 2 tờ văn bản quan trọng.
  • Hoàng đế chi bửu (皇帝之寶): Dùng để đóng lên các bản "Cáo dụ" ban xuống cho các bậc huân thần và các nhân viên cao cấp.
  • Sắc mệnh chi bửu (敕命之寶): Dùng để đóng vào các Cáo mệnh hoặc chiếu văn phong tặng cho hoàng thân quốc thích hay công thần.
  • Chế cáo chi bửu (制誥之寶): Dùng để đóng vào các tờ huấn giới hay chiếu lệnh sai phái các quan văn võ.
  • Mệnh đức chi bửu (命德之寶): Dùng để đóng vào các văn bản ban thưởng cho các quần thần có công lao, thành tích.
  • Quốc gia tín bửu (國家信寶): Dùng để đóng vào các văn bản tuyên triệu các tướng soái hay trừng phạt binh sĩ.
  • Hoàng đế tôn thân chi bửu (皇帝尊親之寶): Dùng để đóng trên các đạo sắc văn khuyến giới dân chúng, hay khen tặng các nhân vật hiếu hạnh, tiết nghĩa.
  • Thảo tội an dân chi bửu (討罪安民之寶): Dùng để đóng vào các mệnh lệnh sai tướng xuất quân đi đánh dẹp.
  • Khâm văn chi tỷ (欽文之璽): Dùng để đóng vào các văn kiện liên quan đến các vấn đề học thuật như: mở khoa thi, thiết học đường, lập ban tu thư...
  • Duệ võ chi tỷ (叡武之璽): Dùng để đóng vào các văn kiện liên quan đến việc binh như Cáo văn cho binh sĩ, Lệnh mở khoa thi võ...
  • Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bửu (大南协紀曆之寶): Dùng để đóng lên trên những cuốn lịch do triều đình in và ban phát mỗi năm.
  • Tề gia chi bửu (齊家之寶): Dùng để đóng trên các Dụ, Chỉ hay Huấn thị trong nội đình.

Trong các loại trên thì chiếc ấn quan trọng nhất và là biểu tượng cho hoàng đế là ấn Hoàng đế chi bửu. Ấn này được đúc bằng vàng ròng vào ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15 tháng 3 năm 1823). Đây là chiếc bảo ấn lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn. Ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rỗng uốn khúc, đầu ngẫng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước, đỉnh đầu rỗng khắc hình chữ vương, kỳ (vây lưng) dựng đứng, đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước, 4 chân rồng đúc rõ năm móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng. Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng đế chi bảo. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: :"Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo" (Đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4) : "Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân" (Đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân: khoảng 10,7 kg)

Sử sách chép về chiếc ấn này như sau "Ngày Giáp thìn đúc ấn Hoàng Đế chi bảo, nuốm làm rỗng cuốn hai tầng, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân, làm bằng vàng 10 tuổi, nặng 180 lượng 9 đồng 2 phân... gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy, và ban sắc, thư cho ngoại quốc".

Ngọc tỷ

nhỏ|phải|Ấn triện của vua Gia Long Các loại ngọc tỷ gồm 5 ấn, trên mỗi ấn có khắc các chữ để phân biệt như sau:

  • Vạn thọ vô cương: Được làm bằng ngọc lục, dùng để đóng trên ấn chiếu trong dịp lễ Vạn thọ hoặc dùng cho việc khánh tiết, các điều khoản ban ơn.
  • Hoàng đế chi tỷ: Được làm bằng ngọc bạch): Dùng để đóng trên các Chiếu văn ban trong các dịp cải nguyên hay trong các kỳ đại xá. hay các dịp trọng đại.
  • Đại Nam Thiên tử chi tỷ: Được làm bằng ngọc bích và dùng cho việc tổ chức điển lễ lớn như tuần thú, xem xét các địa phương, ban thư sắc cho nước ngoài hay dùng để đóng trên các Văn kiện ngoại giao.
  • Đại Nam Hoàng đế chi tỷ: Được là bằng ngọc trắng và dùng như Đại Nam Thiên tử chi tỷ.
  • Thân hành chi tỷ: Được là bằng ngọc trắng và dùng để đóng trên các bản Huấn dụ hay Sắc thư trong lúc nhà vua ngự giá tuần du hay vi phục xuất tuần (vi hành) ban xuống nơi hành tại, dùng cho việc vua viết dụ chữ son.

Trong 6 chiếc bảo tỷ bằng ngọc này có 4 chiếc núm hình hai con rồng cuốn, là các ấn Hoàng đế chi tỷ, Đại Nam hoàng đế chi tỷ, Đại Nam Thiên tử chi tỷ và Thần hàn chi tỷ.

Các loại khác

Ngoài 20 chiếc bửu tỷ trên, triều Nguyễn có 4 chiếc Ấn đúc từ thời các chúa Nguyễn. Đây là những chiếc ấn được xếp vào loại quý, chỉ để cất giữ. Gồm: nhỏ|phải|Ấn tín của vua Khải Định

  • Truyền quốc kim bảo
  • Truyền quốc ngọc tỷ (làm bằng ngọc trắng)
  • Tiểu lang kim bảo
  • Tự lịch kim bảo. Và 4 ấn chữ triện để đóng vào các sử sách và hoạ đồ đều làm bằng ngọc trắng, đúc năm Minh Mạng 17 (1836):
  • Tuấn triết văn minh (濬哲文明) với ý nghĩa là thâm thuý, sáng suốt và văn minh.
  • Quan văn hóa thành (觀文化成) với ý nghĩa là xem văn chương, thấy muôn vật đều theo giáo hoá mà thành tựu.
  • Khuê bích lưu quang (奎璧流光) với ý nghĩa là như sao Khuê hoặc như ngọc bích toả ánh sáng.
  • Tân hựu nhật tân (新又日新) với ý nghĩa là đã mới, ngày lại thêm mới. Ngoài 24 chiếc bửu tỷ trên, triều Nguyễn còn nhiều ấn triện quý khác cũng làm bằng vàng ngọc như:
  • Tự Đức thần hàn (làm bằng vàng)
  • Khâm minh văn tứ (làm bằng ngọc trắng)
  • Thể Thiên hành kiện (làm bằng ngọc trắng)
  • Thiên điện tâm (làm bằng ngọc xanh)
  • Phong cương vạn cỗ (làm bằng ngọc xanh)
  • Ký thọ vĩnh xương (làm bằng ngọc xanh) Ngoài ra còn 6 chiếc ấn bằng ngọc tốt khác. Các loại ấn triện này chỉ được xếp vào loại "đồ thư văn bảo" chứ không xếp vào loại bảo tỷ.

Cách thức sử dụng

nhỏ|phải|Ấn tín của vua Khải Định Các kim ngọc bửu tỷ đều được cất ở Trung Hòa Điện trong Càn Thành. Mỗi khi Nội các dùng đến bưu tỷ nào thì do Cung giám phụng đưa các bửu tỷ ấy ra. Mỗi lần đóng Ngự tiền chi bửu, Văn lý mật sát bửu và Sắc mệnh chi bửu, quan Nội các hiệp đồng với Bộ quan đang trực, thiết án giữa Tả Vu của Điện Cần Chánh để hầu bửu.

Khi dùng đến những bửu tỷ khác quan trọng hơn phải theo một thủ tục riêng. Trước hết, cơ quan có trách nhiệm làm phiến tâu trình lên hoàng đế để xin phép định ngày "hầu bửu". Đúng ngày định kỳ đã được phê duyệt, án được thiết lập tại Điện Cần Chánh. Quan Nội hầu thỉnh tráp đựng ấn ra, vệ binh cầm kiếm tuốt khỏi vỏ đứng hầu ở hai bên đàn. Quan Nội các và bộ quan đang trực mặc phẩm phục, bước vào chiếu, mở tráp ấn ra để đóng dấu. Khi ấn được đóng xong, Bửu tỷ được đặt lại vào tráp. Quan Nội Các niêm phong rồi Nội Thần nhận thỉnh vào cất. Mỗi lần đóng ấn về việc gì, hội đồng phải lập biên bản và ghi vào sổ.

Lễ nghi

Từ năm 1837, mỗi năm cứ vào hạ tuần tháng chạp âm lịch tại Hoàng cung, nhà Nguyễn cử hành lễ "phất thức". Trước nhật kỳ, Nội các đem bản danh sách các Hoàng tử và văn võ đại thần trật nhất phẩm, các trưởng quan ở Nội các và Cơ mật Viện để trình Hoàng đế chọn người cho dự lễ trên.

Đến ngày hành lễ, thiết án giữa Cần Chánh Điện, Nội thần thỉnh các Bửu tỷ rồi đưa lên án. Các Hoàng tử và các quan lại mặt lễ phục kính cẩn bước vào kiểm thị một cách cung kính. Các hòm ấn cất lại chỗ cũ trước khi niêm phong cẩn thận. Đó là ngày phong ấn của triều đình hay còn gọi là lễ phất thức.

Từ ngày này trở về sau, không được dùng những ấn này để đóng nữa mà phải đợi đến năm sau làm lễ Khai ấn mới dùng lại.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long **Bửu tỷ triều Nguyễn** hay **bảo tỷ triều Nguyễn** là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Nguyễn Duy** (阮惟) hay **Nguyễn Văn Duy** (阮文惟), tự: **Nhữ Hiền** (1809–1861), là một danh tướng triều Nguyễn, (Việt Nam) hy sinh trong Trận Đại đồn Chí Hòa. Ông cũng chính là em của danh
Bưu điện tỉnh An Giang là đơn vị trực thuộc Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (Vietnam Post), đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ bưu chính công ích và
**Ty Bưu chính** là một cơ quan bưu chính - viễn thông - vận tải được thành lập vào năm 1820 dưới triều đại nhà Nguyễn ở Việt Nam thời kỳ phong kiến. Ty Bưu
**Nguyễn Xuân Đàm** (阮春談, 1889-1953), hiệu **Tùng Lâm**, là một danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20. Ông đỗ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi (1919), kỳ thi Nho
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Thủy Nguyên** là một thành phố cũ thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Thủy Nguyên nằm ở cửa ngõ phía bắc của thành phố Hải Phòng, nằm cách trung
**Tổng Công ty Viễn thông Viettel** (**Viettel Telecom**) là công ty trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội được thành lập ngày 5 tháng 4 năm 2007. Năm 1995, đổi tên
**Phêrô Nguyễn Văn Khảm** (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1952) là một Giám mục Công giáo người Việt. Ông hiện đảm nhận vai trò Giám mục Chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, Chủ tịch
phải|nhỏ|Nguyễn Thông. **Nguyễn Thông** (1827–1884), tự **Hy Phần**, hiệu **Kỳ Xuyên**, biệt hiệu **Độn Am**; là quan nhà Nguyễn và là danh sĩ Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 19. Ngoài ra, ông chính
nhỏ| [[Biển Nhật Bản|Biển Nhật Bản (Biển Đông) nằm giữa Bắc Triều Tiên và Nhật Bản. ]] Mỗi năm, có hàng chục **chiếc thuyền vô chủ từ Bắc Triều Tiên** dạt vào bờ biển Nhật
Phó bảng **Cao Xuân Tiếu** (高春肖, 1865 - 1939), quê làng Thịnh Mỹ, tổng Cao Xá, huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An, làm quan nhà Nguyễn đến chức Thượng thư, Hiệp biện đại học sĩ
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn, phía nam giáp thủ đô Hà Nội, phía đông giáp tỉnh Bắc Giang và tỉnh
**Nguyễn Đức Cảnh** (2 tháng 2 năm 1908 – 31 tháng 7 năm 1932) là một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Ông là Bí thư đầu tiên của Thành ủy Hải Phòng và
**Phố Nguyễn Khuyến** (tên thời Pháp thuộc: **Route de Sinh Từ**) là một tuyến phố cổ thuộc phường Văn Miếu, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Theo Nguyễn Vinh Phúc và Trần
**Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện VTC** (tên giao dịch quốc tế là **VTC - Vietnam Multimedia Corporation**) hay còn có cách gọi khác là **Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện
**Võ Hoàng Bửu** (sinh 10 tháng 7 năm 1968) là một cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ bóng đá Cảng Sài Gòn và đội tuyển
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**Lăng Thoại Thánh** (瑞聖陵), còn gọi là **lăng Thụy Thánh**, nằm trên đồi thông cạnh chân dãy núi Thiên Thọ, trong quần thể lăng Gia Long (Định Môn, Hương Trà) là lăng mộ của Hiếu
**Nguyễn Hữu Thị Nga** (chữ Hán: 阮有氏娥; 29 tháng 10 năm 1881 – 19 tháng 12 năm 1945), phong hiệu **Nhất giai Huyền phi** (一階玄妃), là một cung phi của vua Thành Thái nhà Nguyễn
**_Ai là triệu phú_** là một chương trình trò chơi truyền hình do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất, dựa trên phiên bản gốc _Who Wants to Be a Millionaire?_ (tạm dịch tiếng Việt:
**Lăng Minh Mạng** (hay còn gọi là **Minh Mệnh**) có tên chữ là **Hiếu lăng** (孝陵), do hoàng đế Thiệu Trị thời nhà Nguyễn cho xây dựng, nằm trên núi Cẩm Kê, ấp An Bằng,
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Lăng Gia Long ** hay **Thiên Thọ Lăng** (天授陵), là lăng tẩm của hoàng đế Gia Long (1762–1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lăng Gia Long thực ra là một quần thể nhiều lăng
**Minh Mạng** hay **Minh Mệnh** (chữ Hán: 明命, 25 tháng 5 năm 1791 – 20 tháng 1 năm 1841) là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn trị vì từ năm 1820 đến khi
**Đế hệ thi** () là một bài thơ theo thể _ngũ ngôn tứ tuyệt_ do vua Minh Mạng định ra để đặt tên cho con cháu của mình. Ngoài ra, ông còn định luôn 10
**Châu Văn Tiếp** (; Mậu Ngọ, 1738 - Giáp Thìn, 1784), là danh tướng Việt Nam cuối thế kỷ 18 dưới thời Nguyễn Phúc Ánh, được người đời xưng tụng là một trong Tam hùng
**Nguyễn Sáng** (1 tháng 8 năm 1923 – 16 tháng 12 năm 1988) là một danh họa người Việt Nam. Ông là hoạ sĩ đầu tiên người thiết kế con tem bưu chính cách mạng
**Tòa nhà bưu điện chính ở Košice** (tiếng Slovakia: _Budova hlavnej pošty v Košiciach_), trước đây còn được gọi là **Văn phòng Bưu điện và Điện báo** hoặc **Tổng cục Bưu điện và Điện báo**,
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Lăng Cơ Thánh**, còn gọi là **lăng Sọ** là một lăng tẩm hoàng gia của nhà Nguyễn, là nơi chôn cất cha ruột của hoàng đế Gia Long. Lăng được xây dựng trên nền lăng
**Đào Trí Phú** (? - 1854?), trước có tên là **Đào Trí Kính**, là quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Khoảng năm 1854, ông bị xử "lăng trì" vì liên can đến việc
**Giang Tô** (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng của Giang Tô là "Tô" (苏, sū), tức chữ thứ hai trong tên tỉnh. Năm 2018,
Logo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ** Đường sắt Việt Nam** là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Biên Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Đồng Nai thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. ## Địa lý nhỏ|trái|Tượng Nguyễn Hữu Cảnh tại đền thờ ông ở [[Văn miếu Trấn Biên]]
**Thành Thái** (chữ Hán: 成泰 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Bửu Lân** (阮福寶嶙), là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
Tập san _Sử Địa_ số cuối cùng, 1975 **_Tập san Sử Địa_** là một tập san học thuật sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Thanh Hóa** là tỉnh ven biển cực bắc vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Thanh Hóa. Thanh Hóa là 1 trong những trung tâm của
**BBC** (viết tắt của **British Broadcasting Corporation**, tiếng Việt: Tập đoàn truyền thông Anh Quốc) là tập đoàn phát thanh và truyền hình quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. BBC
**Thiên Tân** (; ), giản xưng **Tân** (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất ở phía bắc của
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,