Vương Anh (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự Bang Kiệt, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên.
Thiếu thời
Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo, lại còn mãnh mẽ hơn người, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Anh được nối chức của cha, làm Cử Châu dực thiên hộ. Hai cha con đều giỏi dùng song đao, được người đời đặt hiệu là Đao vương.
Thành tựu
Năm Chí Nguyên thứ 29 (1292) thời Nguyên Thế Tổ, Giang Tây Hành Xu mật viện mệnh cho Anh soái quân đi Nam Hùng, đánh dẹp nghĩa quân Khâu Đại Lão. Hơn 600 nghĩa quân đột ngột kéo đến, Anh giao chiến với họ, giết cừ soái Lưu Bả Đông và hơn 90 người.
Năm Nguyên Trinh đầu tiên (1295) thời Nguyên Thành Tông, Anh theo Tả thừa Đổng Sĩ Tuyển dẹp nghĩa quân Đại Sơn của Lưu Quý, bắt được hắn. Năm thứ 2 (1296), Anh dẹp nghĩa quân 2 châu Vĩnh Tân, An Phúc, tàn dư đều yên.
Năm Duyên Hữu thứ 2 (1315) thời Nguyên Nhân Tông, Ninh Đô có kẻ nổi dậy, hành tỉnh mệnh cho Anh soái các vạn hộ đi dẹp. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, Anh trận nào cũng thắng, chém giết không đếm xuể, thây phơi đầy đồng, nước không chảy được. Hành tỉnh bình chương Lý Thế An sai Anh đi rước quân đội do Giang Chiết bình chương Trương Lư chỉ huy ở nội địa đất Mân, đến Mộc Ma Khanh thì bắt được thủ lĩnh nghĩa quân là Thái Ngũ Cửu. Anh lại đuổi theo nghĩa quân đến Thượng Hổ Chướng, gặp hơn 3000 nghĩa quân, đem giết sạch.
Năm Chí Trì đầu tiên (1321) thời Nguyên Anh Tông, nhờ đại thần tiến cử, Anh được thụ chức Trung vũ hiệu úy, Ích Đô Truy Lai vạn hộ phủ Phó thiên hộ.
Năm Thiên Lịch đầu tiên (1328) thời Nguyên Văn Tông, Anh được thụ chức Tuyên vũ tướng quân. Năm Chí Thuận thứ 2 (1331), hành tỉnh mệnh cho Anh chiêu dụ hơn 2000 nghĩa quân của bọn Trương Tư Tiến ở Quế Dương Châu. Anh đến nơi, tỏ rõ uy tín, bọn thủ lãnh nghĩa quân kéo nhau xin hàng.
Năm Nguyên Thống đầu tiên (1331) thời Nguyên Huệ Tông, Anh được thụ chức Hoài viễn đại tướng quân, Đồng tri hải Bắc Hải Nam đạo Tuyên úy sử tư sự.
Năm Chí Nguyên thứ 3 (1337), nghĩa quân ở Vạn An Quân của bọn Ngô Nhữ Kỳ nổi loạn, tập hợp 3000 người. Anh đến, nghĩa quân đều bị bắt. Chưa bao lâu, Lý Chí Phủ nổi dậy ở Chương Châu, Lưu Hổ Tử nổi dậy ở Triều Châu, triều đình giáng chiếu mệnh cho Giang Tây hành tỉnh hữu thừa Yến Thiếp Mộc Nhi đánh dẹp. Khi nghĩa quân mới nổi dậy, Anh đã trí sĩ, Bình chương chánh sự Bá Tát Lý nói với liêu tá rằng: "Đây dù là bọn trộm vặt, chẳng phải Đao vương thì không thể dẹp nổi. Người ấy tuy đã già, vẫn có thể lấy nghĩa mà khích." Họ bèn sai sứ đón mời, Anh đáp: "Nước nhà có việc, tôi dẫu già, sao có thể ngồi nhìn ru!" Anh cầm sóc lên ngựa, tinh thần hăng hái, vội lên đường. Đến khi dẹp xong nghĩa quân, công lao của Anh chiếm phần nhiều.
Cái chết
Tháng 3 ÂL năm Chí Chánh thứ 17 (1357) , Mao Quý chiếm Ích Đô; Anh bấy giờ được 96 tuổi, bèn nói với con trai Vương Hoằng rằng: "Ta đời đời nhận ơn nước, quan cao lộc hậu, đều từng được hưởng. Nay già rồi, không thể chiến đấu để báo thiên tử, còn chịu ăn thứ gạo khác họ để cầu sanh ru!" Anh đến nước gạo cũng không uống, vài ngày thì mất ở hang Cần Tuyền.
Sơn Đông tuyên úy sứ Phổ Nhan Bất Hoa cùng hiến tư xin triều đình ban tuất điển cho An, trong sớ có câu: "Không ăn gạo của giặc, chết đói ở Cần Tuyền, có phong phạm của (Bá) Di, (Thúc) Tề, là kẻ trong sạch trong đám bề tôi."
Dị sự
Mao Quý nghe tin, sai người đem quan tài và chăn áo đến để chôn cất; sắp liệm, nhấc thây không được, người ta đốt nhang khấn rằng: "Con ngài là Hoằng xin ngày về táng ở mộ phần tổ tiên." Khấn xong thì nhấc được thây, chẳng ai trông thấy không lấy làm kinh dị.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự **Bang Kiệt**, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên. ## Thiếu thời Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo,
**Đỗ Anh** (chữ Hán: 杜瑛, 1204 – 1273), tên tự là **Văn Ngọc**, hiệu Câu Sơn, người huyện Tín An, phủ Bá Châu , là ẩn sĩ, học giả cuối đời Kim, đầu đời Nguyên
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
phải|2 bộ Mãng Bào và mũ Kim Quan làm triều phục của công hầu thời Nguyễn, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội. Trong suốt hơn 140 năm tồn tại (1802-1945) với 13 đời
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
**Nhà nguyện Loretto** là một nhà nguyện Công giáo Rôma ở Santa Fe, New Mexico (Hoa Kỳ), hiện nay được sử dụng làm bảo tàng và nơi cử hành lễ cưới. Nhà nguyện này nổi
**Nguyễn Tạo** (; 1822 – 1892), nguyên danh **Nguyễn Công Tuyển** (), tự **Thăng Chi**, là quan viên nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Công Tuyển quê ở làng Hà
**Huỳnh Công Lý** hay **Hoàng Công Lý** (? - 1821) là võ quan cao cấp của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1819, ông được cử làm Phó tổng trấn Gia Định thành,
**Trương Huệ** (chữ Hán: 张惠, 1223 hoặc 1224 – 1285), tên tự là **Đình Kiệt**, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , là quan viên nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu
**Bùi Tuấn** (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Năm sinh và gia thế Theo gia phả họ Bùi ở làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên
**Tuy Lý Vương** (chữ Hán: 綏理王, 3 tháng 2 năm 1820 - 18 tháng 11 năm 1897), biểu tự **Khôn Chương** (坤章) và **Quý Trọng** (季仲), hiệu **Tĩnh Phố** (靜圃) và **Vỹ Dã** (葦野); là
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Gia Luật Lưu Ca** (chữ Hán: 耶律留哥, 1165 – 1220) hay **Lưu Cách** (琉格) , người dân tộc Khiết Đan, là thủ lĩnh nổi dậy phản kháng cuối đời Kim, nhà sáng lập nước Đông
**Vương Thông** (chữ Hán: 王通, 584 – 617), tên tự là **Trọng Yêm**, thụy hiệu **Văn Trung Tử**, ngoại hiệu **Vương Khổng Tử**, người ở trấn Thông Hóa huyện Long Môn quận Hà Đông, nho
**Phú Bình Quận vương Nguyễn Phúc Miên Áo** (富平郡王 阮福綿; 4 tháng 1 năm 1817 - 1 tháng 2 năm 1865), trước tên là **Nguyễn Phúc Miên An** (阮福綿安), là một hoàng tử của Hoàng
**Nguyễn Phúc Miên Lâm** (chữ Hán: 阮福綿㝝; 20 tháng 1 năm 1832 – 28 tháng 12 năm 1897), tước phong **Hoài Đức Quận vương** (懷德郡王), là một hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Nguyễn Phúc Bửu Tán** (chữ Hán: 阮福寶巑; 1882 – 8 tháng 5 năm 1941), thường được gọi là **Ông Hoàng Chín**, tước phong **Tuyên Hóa vương** (宣化王), là một hoàng tử con vua Dục Đức
**Đại lễ Kim Cương của Nữ vương Anh Elizabeth đệ nhị** (Elizabeth II) là một buổi lễ kỷ niệm đa quốc gia trong suốt năm 2012 để đánh dấu mốc 60 năm Nữ vương trị
**Nguyễn Phúc Hồng Phó** (chữ Hán: 阮福洪付; 20 tháng 4 năm 1833 – 8 tháng 5 năm 1890), tước phong **Thái Thạnh Quận vương** (泰盛郡王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Quân đội nhà Nguyễn** (chữ Hán: 軍次 / **Quân thứ**) là tên gọi các lực lượng vũ trang chính quy của triều Nguyễn từ thời điểm lập quốc cho đến đời vua Tự Đức. Sau
**Nguyễn Phúc Hồng Tố** (chữ Hán: 阮福洪傃; 25 tháng 10 năm 1834 – 18 tháng 9 năm 1922), tước phong **Hoằng Trị vương** (弘治王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Hữu Độ** (阮有度, 4/1833 – 18/12/1888) tự **Hi Bùi** (希裴), hiệu **Tông Khê** (宋溪), là một đại thần đời vua Đồng Khánh, từng giữ chức Kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Hà–Ninh. Ông là
**Nhà thờ Thánh George** tại Lâu đài Windsor ở Anh, là một nhà thờ được thiết kế theo phong cách Gothic thời Trung cổ. Nó là một nhà thờ thuộc thẩm quyền trực tiếp của
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
phải|nhỏ|Quốc kỳ Đế quốc Anh Một **lãnh thổ tự trị** () là bất kỳ quốc gia nào trong số nhiều quốc gia tự quản của Đế quốc Anh, trước đây được gọi chung là **Khối
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**George IV** hay **George Đệ Tứ** (tên tiếng Anh: George Augustus Frederick; 12 tháng 8 năm 1762 – 26 tháng 6 năm 1830) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ sau
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
thumb| 7 tiền Phi Long, tiền thưởng bằng bạc được đúc vào năm 1833, niên hiệu [[Minh Mạng thứ 14, mặt trước là hình rồng 5 móng lượn hình chữ S, với đường kính 41