✨Nguyên Huệ Tông

Nguyên Huệ Tông

Nguyên Huệ Tông (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu Ô Cáp Cát Đồ hãn (烏哈噶圖汗; ), là vị Hoàng đế thứ 11 và là cuối cùng của triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.

Là con trai trưởng của vua Nguyên Minh Tông, ông lên ngôi sau một loạt biến cố cung đình do cái chết đột ngột của em trai Nguyên Ninh Tông. Ông cũng là vị Hoàng đế người Mông Cổ cuối cùng cai trị Trung Quốc và đã tại vị 36 năm trên lãnh thổ Trung Hoa. Năm 1367, ông để mất đất Giang Nam về tay thủ lĩnh quân Khăn Đỏ Chu Nguyên Chương, chỉ còn cai trị Hoa Bắc. Một năm sau đó Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh rồi đưa quân đánh chiếm Đại Đô, buộc Nguyên Huệ Tông phải tháo chạy về Thượng Đô, kể từ đó ông chỉ còn là vua ở miền đất Mông Cổ. Nguyên Huệ Tông là một vị Phật tử thuần thành của đạo Phật giáo Tây Tạng.

Ông có miếu hiệu là Huệ Tông, nhưng sách sử Trung Quốc vẫn hay gọi ông là Nguyên Thuận Đế (元順帝), đôi khi còn là Chí Chính Đế (至正帝) hoặc Canh Thân Đế (庚申帝).

Trước khi lên ngôi

Sinh vào ngày 17 tháng 4 (âm lịch) năm Diên Hựu thứ 7 (1320) thời Nguyên Nhân Tông, Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ là con trai cả của Nguyên Minh Tông Hòa Thế Lạt. Ông chào đời lúc cha mình còn là một vị Thân vương đang trấn thủ ở Trung Á, nơi thuộc địa phận của hãn quốc Sát Hợp Đài. Mẹ của ông tên là Mại Lai Địch, là người thuộc bộ tộc Cát La Lộc.

Vào năm Thái Định thứ 5 (1328), sau khi Thái Định Đế qua đời, nội chiến trong hoàng gia bùng phát. Sau khi phe của chú ông là Đồ Thiếp Mộc Nhi thắng trận, ông theo cha mình rời hãn quốc Sát Hợp Đài để trở về Thượng Đô. Tại đây, cha của ông được Đồ Thiếp Mộc Nhi tôn làm Hoàng đế, tức vua Nguyên Minh Tông. Nhưng sau khi Minh Tông bị Đồ Thiếp Mộc Nhi ngầm cho thân tín của mình là Yên Thiếp Mộc Nhi sát hại, Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ bị phe phái đối lập đày đến đất Cao Ly rồi sau đó lại lưu đày ông đến đất Quảng Tây. Trong thời gian ông bị lưu đày, người mẹ kế của ông là Bát Bất Sa bị xử tử. Hoàng vị được Đồ Thiếp Mộc Nhi kế nhiệm vào năm sau (1329), tức vua Nguyên Văn Tông.

Dù phải rất gian khổ để có được đế vị, Văn Tông lại chỉ trị vì đến năm 1332 thì băng hà. Lúc lâm chung, do hối hận về hành động giết anh cướp ngôi trước đó, Văn Tông bày tỏ nguyện vọng nhường ngôi cho con của Minh Tông và đáng ra Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ sẽ được nối ngôi, nhưng sau đó thừa tướng Yên Thiếp Mộc Nhi lại lập em trai cùng cha khác mẹ của ông là Ý Lân Chất Ban lên kế vị, đó là vua Nguyên Ninh Tông. Nguyên nhân một phần vì Thỏa Hoan Thiếp Mộc Nhi đang ở xa kinh thành, nhưng thực tế là do Yên Thiếp Mộc Nhi biết ông đã lớn nên sẽ khó khống chế, lại đang nghi ngờ hắn đã giết cha mình nên sợ bị trả thù. Sự toan tính này của Yên Thiếp Mộc Nhi sớm đi vào ngõ cụt khi bản thân Ninh Tông sau đó cũng băng hà sớm khi mới ở ngôi được 43 ngày, lúc đó chỉ mới 6 tuổi.

Hoàng thái hậu Bốc Đáp Thất Lý lâm triều, Yên Thiếp Mộc Nhi có ý muốn tôn con trai Văn Tông là Yên Thiếp Cổ Tư làm hoàng đế. Thái hậu nói: "Thiên vị quan trọng biết mấy, con của ta còn nhỏ tuổi sao có thể đảm nhận. Thỏa Hoan Thiếp Mục Nhĩ ở Quảng Tây, năm nay đã 13 tuổi; lại là trưởng tử của Minh Tông, theo lễ có thể được lập".

Với Nhật Bản

Khi dân Cao Ly bắt được một chiếc tàu đánh cá Nhật Bản mà họ nghĩ là gián điệp, chính quyền Cao Ly đã gửi nó đến Huệ Tông. Ông sau đó đã chủ động trả tự do các ngư dân trên chiếc tàu đó trở về Nhật Bản. Đáp lại, Mạc phủ Ashikaga đã gửi một đoàn sứ giả do một nhà sư dẫn đầu sang Đại Đô để bày tỏ lòng biết ơn của mình.

Rút chạy về Bắc

Xung đột nội bộ

thumb|Tượng Nguyên Huệ Tông trong một [[khách sạn tại Ulaanbaatar, Mông Cổ.]] Càng về cuối những năm làm vua, Nguyên Huệ Tông dần mất hứng thú với chính trị và không còn can thiệp vào những cuộc đấu tranh chính trị nữa. Ông giao hết triều chính cho Thoát Thoát, còn bản thân thì rút về hậu cung ăn chơi hưởng lạc, tiêu xài vô độ, còn ban thưởng hậu hĩnh cho các quý tộc, khiến cho ngân khố nhà nước ngày càng cạn kiệt, thu không đủ chi. Con trai của ông là Ái Du Thức Lý Đạt Lạp (Ayu Sridara), người đã trở thành Thái tử năm 1353, đã cố gắng nắm bắt quyền lực và dẫn đến xung đột với các quần thần của cha, những người điều hành chính trị thay Huệ Tông. Trong thời gian này quyền lực ngày càng được thâu tóm bởi Kỳ hoàng hậu. Bà có một khu vực đặc biệt dành toàn bộ tiền thuế cho việc sử dụng cá nhân của riêng mình, và bà trở nên nổi tiếng với thói tham nhũng và chi tiêu xa hoa cho các cung điện và hàng xa xỉ, khiến bà trở thành một nhân vật đáng ghét. Bản thân ở Cao Ly, gia đình của Kỳ hậu, tất cả đều lấy được những vị trí có ảnh hưởng nhờ quyền lực của bà, đều bị oán ghét vì thói tham nhũng của họ. Một thượng thư đã lên tiếng chỉ trích sự chuyên quyền của Kỳ hậu, do đó hai bên xảy ra mâu thuẫn, thậm chí cả hai đã thuyết phục Ái Du Thức Lý Đạt Lạp trừ khử nhau. Huệ Tông không thể hòa giải tranh chấp, nhưng quyết định xử tử vị thượng thư đó. Năm 1365, sau khi Bá Nhan Hốt Đô qua đời, Huệ Tông cuối cùng đã phong tước cho Kỳ hậu lên thành Đệ Nhất hoàng hậu và thông báo rằng con trai họ sẽ là người đầu tiên trong dòng được kế vị.

Năm 1364, một tướng lĩnh ở Sơn Tây là Bột La Thiếp Mộc Nhi mượn danh nghĩa "thanh quân trắc" vào triều, chiếm đóng Đại Đô Khanbaliq và trục xuất Hoàng Thái tử khỏi cung điện mùa đông. Thái tử buộc phải chạy đến chỗ tướng Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi. Ông phái quân giúp Thái tử, nhưng không thành công. Sang năm 1365, Khoách Khuếch lại cất quân thảo phạt Bột La, Nguyên Huệ Tông lừa giết được Bột La. Khoách Khuếch phò tá Thái tử trở về, được phong Thái phó, Tả thừa tướng. Khoách Khuếch tuy công cao, nhưng chịu nhiều sự nghi kỵ trong triều. Ông sống nơi quân ngũ đã lâu, cũng không muốn ở lại, nên xin ra ngoài. Hai tháng sau, Khoách Khuếch dâng tấu xin triều đình cho đi bình định vùng Giang, Hoài. Huệ Tông cho phép, phong ông làm Hà Nam vương, tổng lĩnh binh mã cả nước, thay Hoàng thái tử xuất chinh, được đem theo một nửa số quan viên trong triều.

Không lâu sau, trong lúc bàn kế hoạch chinh phạt cuộc khởi nghĩa Khăn Đỏ ở Giang Nam, Khoách Khuếch có mâu thuẫn với bốn tướng quân ở Hoài Nam là Lý Tư Tề, Trương Tư Đạo, Khổng Hưng, Thoát Liệt Bá do bọn họ năm xưa cùng khởi binh với cha ông là Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, cậy mình ở vai cha chú nên không phục, còn công khai chống lại ông. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cũng dựa vào quyền tổng lĩnh binh mã cả nước của mình, lệnh cho em là Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi đưa quân đến Tế Nam đề phòng quân phiệt Chu Nguyên Chương ở phía nam, còn mình tự cầm quân đánh dẹp bọn Tư Tề. Đôi bên giằng co mấy năm vẫn không có kết quả. Huệ Tông yêu cầu đôi bên phải giảng hòa, Khoách Khuếch tuy đưa quân về phía đông, lại ngầm phái Mạch Cao xâm nhập Hà Trung, hòng lật đổ sào huyệt Phượng Tường của Tư Tề. Nhưng thủ hạ của Mạch Cao phần lớn là người cũ của Bột La, liền xúi Mạch Cao phản lại Khoách Khuếch, tập kích Vệ Huy, Chương Đức rồi vào triều đổ tội cho ông.

Trước đây khi chạy trốn Bột La để nương nhờ Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi, thái tử từng muốn bắt chước Đường Túc Tông ngày trước lên ngôi tại Linh Vũ, nhưng Khoách Khuếch phản đối hành động này. Từ đó, Thái tử ngậm hờn, mà vua Huệ Tông cũng nghi ngờ ông. Đến nay, triều thần lại đàn hặc ông có tội cứng đầu, Huệ Tông thì miễn chức thái phó, trung thư tả thừa tướng của Khoách Khuếch, lệnh cho ông quay về thực ấp Nhữ Nam, phân chia quân đội của ông cho các tướng; Thái tử thì tự nắm lấy binh quyền, ra mặt đề phòng Khoách Khuếch. Khoách Khuếch nhận chiếu, lui quân về Trạch Châu, bộ tướng Quan Bảo của ông cũng về với triều đình. Triều đình ban chiếu cho bọn Lý Tư Tề ra khỏi cửa quan, cùng Mạch Cao hợp công Khoách Khuếch, lại phái Quan Bảo đồn thú ở Thái Nguyên. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi căm giận, đưa quân chiếm Thái Nguyên, giết sạch quan lại mà triều đình cắt đặt. Huệ Tông bèn cắt hết quan tước của Khoách Khuếch, lệnh cho binh mã các nơi thảo phạt ông. Nội bộ triều Nguyên bấy giờ đã rối loạn trầm trọng, khiến nội lực ngày càng suy yếu, dẫn đến việc trở nên thất thế khi đương đầu với nghĩa quân của Chu Nguyên Chương sau này.

Mất kiểm soát Cao Ly

Bắt đầu từ triều vua Cao Ly Nguyên Tông (1260-1274) (Wŏnjong, 원종, 元宗), Cao Ly trở thành một thuộc quốc của nhà Nguyên. Quốc gia này phải thường xuyên triều cống cho triều đình Khanbaliq hàng năm, bao gồm cả việc cống nạp phụ nữ. Dưới triều Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, Cao Ly đã sai sứ cống nạp cho nhà Nguyên tổng cộng 36 lần. Nhà Cao Ly phải chịu sự khống chế của nhà Nguyên trong gần một thế kỷ, mãi đến khi Cao Ly Cung Mẫn Vương (Kongmin wang, 공민왕, 恭愍王) lên nắm quyền vào năm 1350, ông bắt đầu bài trừ những ảnh hưởng của nhà Nguyên.

Vào những năm Chí Chính, nhà Nguyên đã khủng hoảng suy yếu. Cung Mẫn Vương đã nhân cơ hội này để cải tổ lại triều đình và thanh trừ mọi ảnh hưởng của nhà Nguyên lên Cao Ly. Hành động đầu tiên ông là cho bãi chức tất cả những quần thần văn võ trong triều có tư tưởng thân Nguyên. Sau đó Cung Mẫn Vương đem quân đến các vùng lãnh thổ của Cao Ly ở phía Bắc, nơi mà quân Nguyên đã chiếm đóng và biến thành hai phủ của Đế quốc Nguyên: Song Thành (Ssangsŏng Ch'onggwanbu, 쌍성총관부, 雙城摠管府, Song Thành Tổng quản phủ) và Đông Ninh (Tongnyŏngbu, 동녕부, 東寧府, Đông Ninh phủ) - tương ứng với vị trí của hai tỉnh Bắc Hamgyong và Bắc Pyongan ngày nay. Quân Cao Ly nhanh chóng tái chiếm hai phủ này nhờ vào sự quy hàng của Lý Tử Xuân (Yi Cha-ch'un, 이자춘, 李子春) - một viên tiểu tướng người Cao Ly phục vụ trong hàng ngũ quân Nguyên tại Song Thành - và con trai ông ta Lý Thành Quế (Yi Sŏnggye, 이성계, 李成桂), qua đó giành lại được độc lập từ tay Đế quốc Mông Cổ sau hơn 100 năm lệ thuộc.

Khởi nghĩa loạn lạc

thumb|Các quân phiệt, lãnh chúa cát cứ trên lãnh thổ Trung Hoa cuối thời Nguyên ([[1363).]] thumb|Hsing-hua, năm [[1362, thời Nguyên. Rất nhiều phần của Phủ Điền bị kiểm soát bởi các quân phiệt người Hán.]] Từ cuối những năm 1340, người dân ở các vùng nông thôn bị thiên tai thường xuyên; hạn hán, lũ lụt và nạn đói liên tục xảy ra. Nước sông Hoàng Hà liên tục dâng cao, gây nạn ngập lụt và làm tê liệt đường thủy. Việc triều đình đưa ra những chính sách thiếu hiệu quả đã dẫn đến mất đi sự ủng hộ từ người dân. Những người buôn bán muối bất hợp pháp bị ảnh hưởng bởi sự độc quyền muối của triều đình đã cùng nhau nổi dậy vào năm 1348, gây ra nhiều cuộc nổi dậy trên khắp đất nước. Nổi bật nhất là cuộc nổi loạn của quân Khăn Đỏ (còn gọi là quân Hồng Cân), bùng nổ vào năm 1351 và trở thành một cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc.

Khởi nghĩa Khăn Đỏ do Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lãnh đạo nổ ra, số lượng nghĩa quân lên tới hàng vạn người. Khởi nghĩa còn chưa bắt đầu thì huyện lệnh phái binh đến tiễu, Sơn Đồng bị bắt giết. Lưu Phúc Thông huy động nghĩa quân liều chết phá vây, vào ngày 3 tháng 5 năm đó đánh chiếm Dĩnh châu, cuộc khởi nghĩa Khăn Đỏ từ đó chính thức bùng nổ. Lưu Phúc Thông đánh bại quan quân đến trấn áp, nhanh chóng chiếm cứ nhiều thành, trấn nay thuộc An Huy, Hà Nam. Tháng 2 năm 1355, Lưu Phúc Thông đón con trai Hàn Sơn Đồng là Hàn Lâm Nhi ở trại Giáp Hà, núi Nãng; tôn lên làm vua, đặt quốc hiệu là Đại Tống. Tháng 5 năm 1358, Lưu Phúc Thông hạ được Biện Lương, đưa Hàn Lâm Nhi về đây.

Nhân dịp Lưu Phúc Thông nổi dậy, nhiều thế lực khởi loạn khác như Lý Nhị ở Từ Châu, Phương Quốc Trân ở Thái Châu, Từ Thọ Huy ở Kỳ Châu, Quách Tử Hưng ở Hào Châu cũng nổi dậy hưởng ứng theo. Trương Sĩ Thành người đất Thái Châu cũng đứng lên khởi nghĩa, tự xưng là Thành Vương, đặt quốc hiệu là Đại Chu, sau đó chiếm lấy vùng Giang Nam rộng lớn. Ở đất Tứ Xuyên, Lũng Thục Vương là Minh Ngọc Trân li khai triều đình và tự xưng đế, lấy quốc hiệu là Đại Hạ, đóng đô tại Trùng Khánh. Minh Ngọc Trân nhiều lần giao chiến với lực lượng quân Nguyên ở Vân Nam nhưng không chiếm nổi Vân Nam.

Các tướng nhà Nguyên như Thoát Thoát, Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, Bột La Thiếp Mộc Nhi liên tục được triều đình phái đi đánh dẹp quân khởi nghĩa. Trong giai đoạn đầu, bọn họ tỏ ra thắng thế, đánh cho nghĩa quân Khăn Đỏ tan tác, liên tiếp được thăng chức. Tuy nhiên, Huệ Tông lại đem lòng nghi kị Thoát Thoát, do ông ta từng phản đối mình lập Ái Du Thức Lý Đạt Lạp làm Thái tử, điều này làm phật ý cả Thái tử và Kỳ hoàng hậu. Năm 1352, Thoát Thoát được Huệ Tông cử đi đánh dẹp quân Khăn Đỏ ở Từ Châu. Đánh thắng được quân khởi loạn, ông ta được triều đình phong lên tước Thái sư. Tuy nhiên, đến năm 1354, khi Thoát Thoát lại dẫn đầu một đội quân lớn để trấn áp lực lượng của Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu, Huệ Tông đã nghe theo lời gièm pha và cách chức Thoát Thoát vì tội tham nhũng, bất chấp ông ta sắp thắng trận. Thoát Thoát bị lưu đày đến Vân Nam và sang năm sau thì bị hạ độc mà chết. Điều này dẫn đến việc khôi phục quyền lực của Hoàng đế nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu nhanh chóng của chính quyền trung ương. Vì vậy, Huệ Tông không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào lực lượng của các lãnh chúa địa phương, để tiếp tục đánh dẹp cuộc khởi nghĩa.

Trước sự đàn áp của nhà Nguyên, cuộc khởi nghĩa Khăn Đỏ bị phân tán ra hai chiến trường phía Bắc và phía Nam sông Trường Giang. Trong đó, lực lượng phía Bắc chỉ trụ được đến năm 1363 thì bị triều đình trấn áp thành công. Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi trong chiến dịch dẹp loạn bất ngờ bị nghĩa quân lừa giết, con là Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi thay cha bình định được Sơn Đông năm 1362. Ngoài ra Trương Sĩ Thành ở Giang Nam cũng quyết định hàng Nguyên khi lãnh thổ của ông bị đối thủ Chu Nguyên Chương uy hiếp dữ dội. Được triều đình bảo vệ, Sĩ Thành đã trở thành một công cụ trấn áp khởi nghĩa nông dân của nhà Nguyên. Tháng 2 năm 1363, Trương Sĩ Thành tập kích An Phong để tiêu diệt Lưu Phúc Thông. Phúc Thông cầu cứu Chu Nguyên Chương, Nguyên Chương đích thân đem đại quân đi cứu, nhưng chưa đến thì thành đã vỡ, Lưu Phúc Thông được cho là đã tử trận. Đến lúc này, Sĩ Thành khống chế một khu vực rộng lớn ở Giang Nam, có mấy chục vạn binh mã. Đến tháng 9 cùng năm, sau nhiều lần thỉnh cầu nhà Nguyên phong vương đều bị cự tuyệt, Sĩ Thành cắt quan hệ với triều đình, tự lập làm Ngô vương.

Do cha mình Sát Hãn đã có hiềm khích từ trước với Bột La Thiếp Mộc Nhi, Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi sau khi bình định được nghĩa quân ở miền bắc lại bị cuốn vào cuộc xung đột quân sự với ông ta, mấy lần giao chiến ở khoảng giữa Thái Nguyên – Đại Đồng. Điều này khiến nhà Nguyên bỏ lỡ một cơ hội tốt để đàn áp dứt điểm lực lượng Khăn Đỏ, vì khi ấy các quân phiệt Giang Nam vẫn chưa đủ mạnh để đe dọa triều đình. thumb|right|Vị trí [[hồ Bà Dương, nơi diễn ra trận thủy chiến quyết định giữa hai quân phiệt người Hán Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng năm 1363.]] So với lực lượng phía Bắc, nghĩa quân phía Nam có lực lượng mạnh hơn bởi không phải chịu quá nhiều áp lực từ quân triều đình, thế lực của bọn địa chủ vũ trang cũng không thể vươn đến. Tuy nhiên, các thủ lĩnh trong nghĩa quân như Quách Tử Hưng và Từ Thọ Huy lại mâu thuẫn đánh giết lẫn nhau, dẫn đến một cuộc chiến tranh quân phiệt với quy mô lớn hơn. Năm 1355, Quách Tử Hưng mất, con rể là Chu Nguyên Chương thay Quách Tử Hưng nắm binh quyền, tiếp tục giao tranh với thủ lĩnh nghĩa quân đối địch là Từ Thọ Huy. Năm 1360, thủ hạ Trần Hữu Lượng làm phản giết Từ Thọ Huy rồi xưng đế, đặt quốc hiệu là Đại Hán. Sau nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa các quân phiệt, hai quân phiệt mạnh nhất là Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng cùng đối đầu với nhau để tranh giành quyền kiểm soát trên toàn bộ lãnh thổ của quân Hồng Cân cũ. Hai bên quyết chiến ở trận hồ Bà Dương năm 1363. Trận đánh kéo dài 3 ngày, kết thúc với việc hạm đội hơn trăm chiến thuyền của Trần Hữu Lượng bị đốt sạch, lực lượng 60 vạn quân của Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác, bản thân ông cũng bị trúng tên mà chết. Nhờ trận thắng quyết định trước Trần Hữu Lượng - đối thủ nguy hiểm nhất, thế lực của Chu Nguyên Chương ngày một lớn mạnh.

Tháng 10 năm 1367, Chu Nguyên Chương đánh bại nốt lực lượng còn lại ở Giang Nam là Trương Sĩ Thành. Chiến thắng này giúp chính quyền của ông giành quyền kiểm soát toàn bộ các vùng đất ở bờ bắc và nam sông Dương Tử, thanh thế rất mạnh. Việc này khiến các thủ lĩnh nghĩa quân nhỏ nhanh chóng theo hàng. Tháng 12 năm 1367, khúc ca khải hoàn nổ ra tại Tô Châu, Chu Nguyên Chương tuyên bố xưng đế sau khi bình định được Giang Nam. Ông ta được đông đảo người Hán hưởng ứng và ủng hộ hết mình, họ quyết tâm lật đổ triều đình ngoại tộc thối nát tại Trung Nguyên. Sự nghiệp vĩ đại của nhà Nguyên mà Hốt Tất Liệt xây dựng đang có nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn.

Rút chạy về Mông Cổ

thumb|Cặp bình David có niên đại vào năm Chí Chính thứ 11 ([[1351), được trưng bày ở Bảo tàng Anh.]] Năm 1368, Chu Nguyên Chương chính thức lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, đổi quốc hiệu là Đại Minh rồi sai tướng là Từ Đạt kéo 25 vạn quân Bắc tiến tấn công vào kinh đô nhà Nguyên.

Lúc này quân Minh đã hạ được Sơn Đông, thu lấy Đại Lương. Lương vương A Lỗ Ôn, cha của Sát Hãn, dâng Hà Nam đầu hàng. Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi thua chạy, còn các cánh quân khác đều tan rã, không ai chống cự. Quân Minh bức đến Đồng Quan, bọn Tư Tề hoảng sợ chạy về phía tây, còn bọn Mạch Cao, Quan Bảo bị Khoách Khuếch bắt giết vì trước đây làm phản mình. Nguyên Huệ Tông nghe tin, vội hạ chiếu quy tội cho Thái tử, bãi bỏ binh quyền của ông ta, khôi phục quan tước của Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi, lệnh cho ông này cùng bọn Tư Tề tập trung thảo phạt quân Minh.

Một tháng sau, quân Minh bức đến Đại Đô. Biết đại thế đã mất, Nguyên Huệ Tông và đám quần thần vội vã kéo gia quyến bỏ Đại Đô chạy lên phía bắc. Khoách Khuếch cứu viện không kịp, tháng 8 năm 1368, quân Minh chiếm được Đại Đô và thiêu rụi kinh thành. Nhưng lúc đó Nguyên Huệ Tông đã về được đến Mông Cổ và tạm đóng quân ở Thượng Đô (sử cũ gọi là nhà Bắc Nguyên). Chính quyền Đại Nguyên ở Trung Quốc tồn tại được 97 năm cuối cùng đã bị diệt vong kể từ đây.

Khoách Khuếch đánh bại được tướng nhà Minh là bọn Thang Hòa ở Hàn Điếm. Nguyên Huệ Tông ở Khai Bình thấy vậy lệnh cho ông thu phục Đại Đô. Khoách Khuếch từ phía bắc ra khỏi Nhạn Môn, muốn từ Bảo An đi qua Cư Dung quan mà tấn công Bắc Bình. Tướng nhà Minh là bọn Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân nhân đó tập kích Thái Nguyên buộc ông quay về cứu, không ngờ bộ tướng Khoát Tị Mã ngầm hàng Minh. Quân Minh cướp trại trong đêm, Khoách Khuếch hoảng hốt đưa 18 kỵ binh chạy về phía bắc. Sau khi quân Minh tiến vào Cư Dung quan, bọn Tư Tề kẻ đầu hàng người bỏ trốn, nhà Nguyên chỉ còn dựa vào Nạp Cát Xuất ở phía đông bắc và Khoách Khuếch ở phía tây bắc mà chống giữ.

Năm 1369, Từ Đạt lại mang quân Bắc tiến vào thảo nguyên Mông Cổ. Huệ Tông phải cầu viện đại tướng nước Cao Ly là Lý Thành Quế đem quân chặn bước tiến của Từ Đạt. Tuy nhiên, Lý Thành Quế do muốn quy thuận theo nhà Minh nên đã liên minh với quân của Từ Đạt. Thượng Đô cũng rơi vào sự chiếm đóng của Đại Minh, Huệ Tông phải chạy xa về phía bắc đến Ứng Xương, nằm ở Nội Mông Cổ ngày nay. Cứ thế đến sang năm sau (1370), Từ Đạt thừa cơ truy kích tiêu diệt các lực lượng cứu viện của Mông Cổ, đánh vào thủ đô Mông Cổ là Karakorum, bắt sống hàng ngàn quý tộc Mông Cổ. Quân của Từ Đạt đã tiến vào Transbaikalia (Ngoại Baikal) và thậm chí tiến xa hơn về phía bắc mà chưa có đội quân nào của Trung Quốc trước đó từng làm được.

Qua đời

Năm Hồng Vũ thứ 3 (1370), ngày 28 tháng 4 (tức 23 tháng 5 dương lịch), Nguyên Huệ Tông lâm bệnh rồi qua đời ở Ứng Xương, thọ 50 tuổi. Kế nhiệm ông là Hoàng thái tử Ái Du Thức Lý Đáp Lạp, sử gọi là Nguyên Chiêu Tông. Ông là vị Hoàng đế nhà Nguyên sống thọ nhất kể từ sau Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt.

Vào thời điểm ông qua đời, dù đã để mất lãnh thổ Trung Quốc đại lục nhưng Đế quốc Mông Cổ vẫn còn duy trì ảnh hưởng của nó, lãnh thổ cai trị kéo dài từ Biển Nhật Bản đến dãy núi Altay. Vẫn còn những thế lực ủng hộ nhà Nguyên là lực lượng chống nhà Minh tại Vân Nam và Quý Châu và mãi đến năm 1381 mới bị đánh dẹp. Mặc dù sự kiểm soát của triều đình đối với toàn lãnh thổ Trung Quốc vẫn chưa được ổn định, nhà Minh cho rằng nhà Nguyên đã mất thiên mệnh khi triều đại này bỏ kinh đô Khanbaliq, và cuối cùng bị lật đổ năm 1368. Nhà Minh không xem Huệ Tông sau năm 1368 và người kế nhiệm Nguyên Chiêu Tông như những Hoàng đế hợp pháp của Trung Hoa nữa.

Nhà Minh đã gán cho ông thụy hiệu là Thuận Đế (順帝), ngụ ý rằng ông đã đi theo thiên mệnh để nhượng quyền đế chế của mình cho nhà Minh. Nhưng triều đại Bắc Nguyên đã tôn ông theo miếu hiệu là Huệ Tông (惠宗).

Gia quyến

  • Thân phụ: Nguyên Minh Tông Hòa Thế Lạt. Tạp sử truyện ghi ông là con trai của Tống Đế Hiển, vị hoàng đế thứ 16 của nhà Tống.

  • Thân mẫu: Mại Lai Địch, Hãn Lộc Lỗ thị, người bộ tộc Cát La Lộc. Cha là Thiếp Mộc Điệt, dòng dõi A Nhi Tư Lan quận vương của Khách Lạt hãn quốc. Sau được truy phong Trinh Dụ Huy Thánh Hoàng hậu (貞裕徽聖皇后).

  • Kế mẫu: Bát Bất Sa, Nãi Mã Chân thị, Kế thất của Minh Tông. Bị Hoàng hậu của Văn Tông là Bốc Đáp Thất Lý lưu đày và xử tử.

  • Hậu phi:

    Phế Hoàng hậu Đáp Nạp Thất Lý, Khâm Sát thị, con gái Thái Bình vương Yên Thiếp Mộc Nhi. Được sách lập làm Trung cung vào năm 1333, bị phế và đuổi khỏi hoàng cung năm 1335 vì vụ việc anh cả Đường Kỳ Thế. Sau đó bị Thừa tướng Bá Nhan hạ độc, chết tại Khai Bình.

    Đại Hoàng hậu Bá Nhan Hốt Đô, Hoằng Cát Lạt thị, con gái Dục Đức vương Bột La Thiếp Mộc Nhi và là cháu của Bá Nhan. Sách lập làm Trung cung vào năm 1337, mất vào năm 1365, vị trí Trung cung do Hoàn Giả Hốt Đô kế thừa.

    Đại Hoàng hậu Hoàn Giả Hốt Đô, Túc Lương Hợp thị, nguyên họ Kỳ, người Cao Ly. Sách phong làm "Đệ nhị Hoàng hậu" vào năm 1340, Kế vị Trung cung sau khi Bá Nhan Hốt Đô qua đời. Năm 1368, theo Huệ Tông rời Đại Đô chạy lên Mạc Bắc, mất năm 1369.

    Tam Hoàng hậu Mộc Nạp Thất Lý, Hoằng Cát Lạt thị, sách phong làm "Tam Hoàng hậu" từ năm 1340, mất năm 1343 hoặc 1348.

    Thục phi Long Thụy Kiều

    Thục phi Trình Nhất Ninh

    Thục phi Qua Tiểu Nga

    Lệ tần Trương A Nguyên

    Lệ tần Chi Kỳ Thị

    Tài nhân Ngưng Hương Nhi

    Tài nhân Anh Anh

  • Hậu duệ:

    Nguyên Chiêu Tông Ái Du Thức Lý Đạt Lạp [爱猷识理达腊], mẹ là Kỳ Hoàng hậu. Năm 1353 được lập làm Hoàng thái tử.

    Bắc Nguyên Hậu chủ Thoát Cổ Tư Thiếp Mộc Nhi [脱古思帖木儿], mẹ không rõ. Do dùng niên hiệu Thiên Nguyên nên cũng được gọi là Nguyên Thiên Nguyên Đế.

    Chân Kim [真金], mẹ là Bá Nhan Hốt Đô Hoàng hậu, mất lúc 2 tuổi , bị nghi ngờ là do Kỳ Hoàng hậu đầu độc.

    Tuyết Sơn [雪山], mẹ là Bá Nhan Hốt Đô Hoàng hậu, Nguyên sử không ghi lại, chỉ thấy "Thang mộc tử" của Diệp Tử Kỳ nhà Minh. Năm 1364, Bột La Thiếp Mộc Nhi xuất binh tiến vào Đại Đô, định phế Hoàng Thái tử Ái Du Thức Lý Đạt Lạp, lập Tuyết Sơn làm Hoàng Thái tử. Năm 1365, Bột La Thiếp Mộc Nhi chết, Thái tử Ái Du Thức Lý Đạt Lạp sai Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi vào kinh, ép Tuyết Sơn về đất Bắc Hải Đô.

    Thất Ngốc Nhi Thái tử [失秃儿太子], mẹ không rõ, năm 1351 phụng mệnh đi Cao Ly , lấy nữ tử Cao Ly làm phi.

    Loan Loan Thái tử [峦峦太子], mẹ không rõ, năm 1353 phụng mệnh đi Cao Ly , lấy nữ tử Cao Ly làm phi.

Đánh giá

Tuy trong khoảng thời gian trị vì đầu, Huệ Tông có đưa ra các cải cách để trung hưng đất nước, nhưng càng về sau, ông lại càng xa xỉ, ăn chơi, bỏ bê việc nước, dẫn đến các mâu thuẫn xã hội có từ lâu ngày càng lớn, môt phần khiến nhà Nguyên sụp đổ. Sách Nguyên sử loại biên ghi rằng: Ông có tư chất thông minh, nhưng các quyết định của ông lại khá bừa bãi và thiếu chính xác, dẫn đến việc mất nước.

Di sản

Trong các biên niên Mông Cổ như Erdeni-yin tobchi có bao gồm một bài thơ tên là Lời ca oán của Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ thể hiện sự đau buồn của ông sau khi Đại Đô thất thủ.

Trong nghệ thuật và truyền thông

*Nhân vật Nguyên Huệ Tông được thể hiện qua diễn xuất của diễn viên Ji Chang-wook trong bộ phim truyền hình Hàn Quốc Empress Ki (2013)-MBC.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Đại học Nguyễn Huệ**(tiếng Anh: Nguyen Hue University - Second Army Academy) hay **Trường Sĩ quan Lục quân 2 **trực thuộc Bộ Quốc phòng là một trung tâm đào tạo sĩ quan chỉ huy lục
**Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông** (1304 - 1332), tên thật là **Borjigin Töbtemür** (tiếng Mông Cổ: Заяат хаан, Jayaγatu qaγan; chữ Hán:元文宗; phiên âm Hán Việt: **Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi**) là
**Nguyên Ninh Tông** (), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Ý Lân Chất Ban** (; ; tiếng Tây Tạng cổ: རིན་ཆེན་དཔལ་, _rin chen dpal_) (1326-1332), là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyên,
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Huệ Tông** (chữ Hán: 惠宗) là miếu hiệu của một số vua chúa trong lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. ## Việt Nam *Lý Huệ Tông ## Trung Quốc *Tây Lương Huệ
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
**Nguyên Vũ Tông** (元武宗, 1281 - 1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay **Khúc Luật Hãn** (, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
Từ năm 1960, Đường Nguyễn Huệ, Thành phố Hồ Chí Minh có chợ hoa xuân vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán, là nơi tập trung mua bán hoa tết cây cảnh. Nhà vườn tập kết
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Nguyễn Huệ** () là một trường trung học phổ thông công lập của thành phố Hà Nội, được được thành lập vào tháng 3 năm 1947. Đây là một
Từ năm 1960, Đường Nguyễn Huệ, Thành phố Hồ Chí Minh có chợ hoa xuân vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán, là nơi tập trung mua bán hoa tết cây cảnh. Nhà vườn tập kết
**Nguyễn Huệ Chi** sinh ngày 4 tháng 7 năm 1938, là một giáo sư người Việt Nam, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam cổ, trung và cận đại; nguyên Trưởng phòng Văn học Việt
Thiền sư **Lãn Ông Huệ Cần** (kr: **나옹혜근** **Naong Hyegeun**, zh: 懶翁慧勤; 1320–1376), Thiền sư Triều Tiên nổi tiếng, tông Lâm Tế. Sư được tôn kính là một trong tam đại hòa thượng tài đức
Với tên gọi thân quen từ người tiêu dùng như SIÊU THỊ ĐIỆN MÁY NGUYỄN HUỆ hay TÒA NHÀ NGUYỄN HUỆ. Giờ đây TRUNG TÂM MUA SẮM NGUYỄN HUỆ (TTMS) đã và đang trở thành
**Nguyên Huệ Vương hậu** (Hangul: 원혜태후, chữ Hán: 元惠太后; ? – 31 tháng 7 năm 1022) là Vương hậu thứ 4 của vua Cao Ly Hiển Tông. Bà là con gái thứ hai của Kim
**Cao Ly Huệ Tông** (Hangul: 고려 혜종, Hanja: 高麗 恵宗; 912 – 945), trị vì từ năm 943 – 945. Ông là vị quốc vương thứ hai của triều đại Cao Ly. Ông là người
**Nguyễn Huệ** là một xã thuộc tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. ## Địa lý Xã Nguyễn Huệ nằm ở phía đông huyện Hòa An, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Quảng Hòa
**Trường THPT Nguyễn Huệ, Ninh Bình** là một trường trung học phổ thông của Ninh Bình, thuộc hệ thống trường trung học của Việt Nam. Trường tọa lạc ở Tổ 9 phường Bắc Sơn -
**Trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ** là một trường trung học phổ thông công lập nằm ở phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai. Trường được thành lập vào năm 1957, phụ trách đào tạo
**Bắc Nguyên** (, tiếng Mông Cổ: , _Umardu Yuwan Ulus_) là vương triều do Bột Nhi Chỉ Cân của người Mông Cổ cai trị vùng Đại Mông Cổ. Nhà Bắc Nguyên khởi đầu bằng việc
**Vương Anh** (chữ Hán: 王英, 1262 – 1357), tự **Bang Kiệt**, xước hiệu Đao vương, người Ích Đô , tướng lãnh nhà Nguyên. ## Thiếu thời Anh tính cứng rắn, quả cảm, có tiết tháo,
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Lịch sử hành chính Huế** (tên đến hết năm 2024 là tỉnh Thừa Thiên Huế) được xem bắt đầu vào năm 1945 với cuộc cải cách hành chính của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Hữu Chỉnh** (, 1741 - 15 tháng 1 năm 1788), biệt hiệu **Quận Bằng** (鵬郡), là nhà quân sự, chính trị có ảnh hưởng lớn của Đại Việt thời Lê trung hưng và Tây
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Cố đô Huế**, còn gọi là **Phú Xuân**, là thủ phủ Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn từ năm 1687 đến 1774, sau đó là thủ đô của triều đại Tây Sơn từ năm
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Kinh thành Huế**, **cố cung Huế** hay **Thuận Hóa kinh thành** (chữ Hán: 順化京城) là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Cao Ly Trung Huệ Vương** (Hangul: 고려 충혜왕; chữ Hán: 高麗 忠惠王; 22 tháng 2 năm 1315 – 30 tháng 1 năm 1344, trị vì 2 lần: 1330 – 1332 và 1340 – 1343) là
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch