✨Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là Trần Khâm (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng rồi đi tu sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm cho đến khi qua đời. Ông được các sử gia Việt đánh giá là một vị hoàng đế anh minh, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ 13, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng lãnh thổ đất nước. Ngoài ra, Trần Nhân Tông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Năm 2013, ông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam.
Là đích trưởng tử của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (Hoàng đế thứ hai triều Trần) và là đích trưởng tôn của Trần Thái Tông Trần Cảnh (Hoàng đế đầu tiên triều Trần), Trần Nhân Tông đã được truyền ngôi vào tháng 11 năm 1278 – lúc ông chưa đầy 20 tuổi. Do nguy cơ trước sự lăm le của Nguyên Mông, sau khi lên ngôi Trần Nhân Tông đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao sức mạnh kinh tế và ổn định chính trị – xã hội của Đại Việt, đồng thời xây dựng quan hệ tích cực với nước láng giềng phía nam là Chiêm Thành. Năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt đã huy động một lực lượng lớn tấn công Đại Việt. Quân dân Đại Việt ban đầu gặp nhiều tổn thất; nhưng dưới sự chỉ huy của vua Nhân Tông, thượng hoàng Trần Thánh Tông và Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn, người Việt đã dần dần xoay chuyển tình thế và đánh bật quân Nguyên ra khỏi đất nước. Sau đó, 2 vua Trần và Quốc công Quốc Tuấn tiếp tục lãnh đạo dân Việt đánh bại một cuộc xâm lược khác của Mông – Nguyên vào năm 1287.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông chăm lo nội trị, khôi phục sự hưng thịnh của Đại Việt, đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.
Thân thế
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm (陳昑), Trần Nhật Tuấn/Trần Nhật Tôn (陳日燇), sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (tức ngày 7 tháng 12 năm 1258). Ông là đích trưởng tử của Trần Thánh Tông Trần Hoảng (vua thứ 2 triều Trần) và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần Thị Thiều, cũng là đích trưởng tôn của Trần Thái Tông Trần Cảnh (vua đầu tiên triều Trần). Theo Đại Việt sử ký toàn thư (bộ quốc sử Đại Việt biên soạn năm 1479 thời Lê Thánh Tông), Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子). Các sách Tam Tổ thực lục và Thánh đăng ngữ lục (đều ra đời vào khoảng thế kỷ XIV) chép biệt hiệu này là Kim Phật (金佛).
Trong thời kỳ làm vua, Trần Nhân Tông vẫn sống thanh tịnh trên tinh thần Phật giáo. Khi rảnh việc nước, ông thường mời các thiền giả đến hỏi về yếu chỉ Thiền tông. Đặc biệt, theo Thánh đăng ngữ lục, ông học đạo với Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (tức Hưng Ninh vương Trần Quốc Tung, anh của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu), "đạt sâu tới chỗ thiền tủy và thờ Thượng Sĩ làm thầy". Ngoài ra, ông từng ăn chay khổ hạnh đến mức thân hình gầy guộc, khiến Thượng hoàng phải ngăn lại. Sách Thánh đăng ngữ lục kể: "Thánh Tông khóc, bảo: Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế thì sự nghiệp của Tổ tông sẽ ra sao? Ngài [Nhân Tông] nghe vua cha nói vậy cũng rơi nước mắt".
Buổi đầu trị quốc
Trần Nhân Tông lên ngôi trong lúc nền độc lập Đại Việt bị đe dọa trầm trọng. Ở phương Bắc, Nguyên–Mông đã chinh phục hầu hết Nam Tống và bắt đầu dòm ngó Đại Việt. Ngay sau khi ông đăng quang, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt cử Lễ bộ Thượng thư Sài Thung sang Đại Việt, lấy cớ Nhân Tông "không xin mệnh mà tự lập" (nghĩa là tự xưng làm vua mà không chịu xin phép "thiên triều" Nguyên) để ép vua Trần sang triều kiến.
Trên phương diện chính trị – xã hội, tháng 2 âm lịch năm 1280, Trần Nhân Tông cho điều tra và cập nhật dân số, đồng thời giải quyết nhanh các khiếu nại oan sai của người dân. Đại Việt sử ký toàn thư thuật lại, Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung có người em tên Đỗ Thiên Hư từng kiện cáo một người; dù Thiên Hư trái về cả tình lẫn lý nhưng viên quan xử án tỏ ra bênh vực. Người bị kiện thấy vua Trần Nhân Tông đang đi ngoài thành, bèn đón và kêu oan. Nhà vua phán: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy", rồi cử ngay Chánh chưởng Nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức Kiểm pháp quan để điều tra lại, cuối cùng Thiên Hư phải nhận sai. Sử quan nhà Hậu Lê Ngô Sĩ Liên có nhận định về việc làm của vua Trần Nhân Tông:
Kháng chiến chống Nguyên (1285)
Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan đưa quân đến sát ải Nam Quan và viết thư đòi "mượn đường" tấn công Chiêm Thành. Nhân Tông sai sứ thuyết phục Thoát Hoan rằng: "Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy, đường bộ đều không tiện cả"; và đồng thời, nhà vua ra lệnh cho Hưng Đạo vương thành lập tuyến phòng thủ trên biên giới. Ngày 27 tháng 1, quân Nguyên vượt biên giới, đánh bại quân Đại Việt tại các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược và Chi Lăng. Hưng Đạo vương phải rút quân chạy về bến Vạn Kiếp (nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Sau khi nhận tin này, Nhân Tông bỏ cả bữa ăn sáng để đi thuyền nhẹ xuống Hải Đông và hội kiến với Quốc Tuấn. Trên đường đi, có người lính tên Trần Lai dâng cơm, dù gạo xấu nhưng hoàng đế ghi nhận lòng trung thành của Lai, cho Lai chức Thượng phẩm kiêm Tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng. Tại Hải Đông, ông truyền cho Trần Quốc Tuấn gọi quân từ các lộ phía đông bắc như Vân Trà, Ba Điểm về tập kết tại Vạn Kiếp. Các vương hầu như Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiện, Hưng Trí vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng cũng mang 20 vạn quân đến giữ nơi này. Để động viên tinh thần tướng sĩ, Nhân Tông đã đề ở cuối thuyền 2 câu thơ rằng:
Tại Thanh Hóa, vua Trần đã chỉnh đốn, tổ chức lại lực lượng. Khoảng tháng 3 – 4 âm lịch, Nhân Tông đã nhận định trong một cuộc họp với các quan: Cuối tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan quyết định lui quân khỏi Đại Việt; Ô Mã Nhi được lệnh dẫn một cánh quân thủy rút về trước. Ngày 9 tháng 4, cánh quân này tiến đến sông Bạch Đằng và lọt vào trận địa mai phục của đại quân Việt. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của hai vua và Trần Quốc Tuấn, quân Đại Việt đã tiêu diệt toàn bộ cánh thủy quân Nguyên, bắt sống nhiều tướng lĩnh (trong đó có Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ) và tịch thu 400 thuyền chiến.
Ngày 18 tháng 4, hai vua Trần về phủ Long Hưng (Thái Bình) và đưa các bại tướng của trận Bạch Đằng bị bắt đến trình diện trước lăng Trần Thái Tông. Tương truyền khi đó chân của các tượng ngựa đá trong lăng đều lấm bùn, như thể những vật này cũng vừa mới tham gia chiến đấu. Nhân Tông tức cảnh ngâm hai câu thơ rằng: :Xã tắc hai phen bon ngựa đá, :Non sông ngàn thuở vững âu vàng.
Một ngày trước trận Bạch Đằng, đại quân Nguyên bắt đầu rút từ Vạn Kiếp lên biên giới. Hữu thừa Nguyên là Trình Bằng Phi chọn những binh sĩ thiện chiến yểm hộ cho Thoát Hoan chạy về nước. Quân Nguyên về tới ải Nội Bàng (thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) thì bị quân Đại Việt phục kích dữ dội, Vạn hộ Nguyên là Trương Quân phải đem 3000 quân liều chết chiến đấu mới thoát khỏi cửa ải. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan lại nhận tin trinh sát rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng đi qua Đơn Kỷ (khoảng huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn ngày nay) về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Quân Đại Việt từ trên cao bắn tên độc, giết các tướng Trương Ngọc và Abaci. Theo Nguyên sử, quân Nguyên lúc đó đã "thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc" nhưng vẫn phải "cố xông vào mà đánh" và "buộc vết thương lại mà đánh". Đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên đã bị quét sạch hoàn toàn khỏi Đại Việt.
Sơ tổ Trúc Lâm
Hình ảnh đại sĩ Trần Nhân Tông xuất du trong tác phẩm [[Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ]] Tháp Huệ Quang, nơi chứa một phần xá lợi của Trần Nhân Tông.
Tháng 10 (âm lịch) năm 1299, Nhân Tông rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), lấy pháp danh Hương Vân Đại Đầu đà (香雲大頭陀) và tu hành theo thập nhị đầu đà (mười hai điều khổ hạnh). Vào thế kỷ XI – XIII, Phật giáo Đại Việt tồn tại chủ yếu dựa trên 3 dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi, Thảo Đường và Vô Ngôn Thông. Điều ngự đã hợp nhất các tông phái này vào dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, còn gọi là Thiền phái Trúc Lâm. Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp.
Tháng 3 âm lịch năm 1301, Giác hoàng Điều ngự du hóa đến châu Bố Chính – một vùng đất địa đầu phía nam của Đại Việt – và dựng lên am Trì Kiến
Sau cuộc vân du ở Chiêm Thành, Điều ngự về phủ Thiên Trường vào tháng 1 âm lịch năm 1303 để "mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí" (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư). Năm 1304, Điều ngự đến kinh đô Thăng Long trong sự đón tiếp long trọng của Anh Tông cùng vương hầu, quan lại. Tất cả họ đều được trao tâm giới Bồ-tát tại gia. Theo đánh giá trong sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng) do Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu biên soạn, thơ Trần Nhân Tông mang tính chất "kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ".
Một số bài thơ
::Xuân Đình |
---|
:Thụy khởi khải song phi |
:Bất tri xuân dĩ quy |
:Nhất song bạch hồ điệp |
:Phách phách sấn hoa phi |
::Buổi sớm mùa xuân |
:Ngủ dậy ngỏ song mây, |
:Xuân về vẫn chửa hay, |
:Song song đôi bướm trắng, |
:Phất phới sấn hoa bay. |
::(Bản dịch của Ngô Tất Tố) |
::Thiên Trường vãn vọng :Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên :Bán vô bán hữu tịch dương biên :Mục đồng địch lí ngưu quy tận :Bạch lộ song song phi hạ điền
::Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra :Trước xóm sau thôn tựa khói hồng :Bóng chiều man mác có dường không :Mục đồng sáo vẳng trâu về hết :Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng ::(Ngô Tất Tố dịch)
::Thiên Trường Phủ :Lục ám hồng hi bội tịch liêu, :Tễ vân thôn vũ thổ hoa tiêu. :Trai đường giảng hậu tăng quy viện, :Giang quán canh sơ nguyệt thượng kiều. :Tam thập tiên cung hoành dạ tháp, :Bát thiên hương sát động xuân triều. :Phổ Minh phong cảnh hồn như tạc, :Phảng phất canh tường nhập mộng nghiêu. ::Phủ Thiên Trường :Lục rậm, hồng thưa cảnh quạnh hiu, :Mây quang, mưa tạnh đất tan rêu. :Phòng trai giản đoạn, sư về viện, :Cầu bến canh đầu, bóng nguyệt treo. :Ba chục cung tiên, giường ngủ đặt, :Tám nghìn bóng tháp, nước triều reo. :Phổ Minh phong cảnh, chùa như cũ, :Trong giấc mơ màng Thuấn thấy Nghiêu. ::(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
::Cư trần lạc đạo phú :Cư trần lạc đạo thả tùy duyên :Cơ tắc xan hề khốn tắc miên :Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch :Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. ::Bản dịch: :Ở đời vui đạo hãy tùy duyên, :Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền. :Có báu trong nhà thôi tìm kiếm, :Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền. ::(người dịch: Lê Mạnh Thát)
Gia đình
Lăng vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm) (1258 - 1308) ở Long Hưng, Thái Bình
- Cha: Trần Thánh Tông (Trần Hoảng).
- Mẹ: Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng hậu Trần thị (元聖天感皇后陳氏 ? – 1287), húy là Thiều (韶), con gái của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu.
- Hậu phi:
Khâm Từ Hoàng hậu Trần Thị Trinh (欽慈皇后; ? – 1293), con gái trưởng của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Từ Quốc mẫu.
Tuyên Từ Hoàng hậu Trần Thị Tĩnh (宣慈皇后; ? – 1318), em gái của Khâm Từ Hoàng hậu, con gái thứ của Hưng Đạo Đại vương.
Đức phi Đặng Thị Loan, người con gái thôn quê vùng Kinh Bắc.
- Con:
Trần Thuyên (陳烇), sau trở thành Trần Anh Tông (陳英宗), con của Khâm Từ Hoàng hậu.
Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn (惠武大王陳國瑱), không rõ mẹ, có thể là Tuyên Từ Hoàng hậu.
Thượng Trân Công chúa (上珍公主), lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, cháu nội Trần Hưng Đạo.
Thiên Trân Công chúa (天珍公主; ? – 1309), lấy Uy Túc công Trần Văn Bích, con Văn Túc vương Trần Đạo Tái, cháu nội Trần Quang Khải.
Huyền Trân Công chúa (玄珍公主), lấy Chế Mân, Quốc vương Chiêm Thành.
Hình ảnh công cộng
Tên của ông được đặt cho nhiều trường học ở Việt Nam, một số con đường của các thành phố, tỉnh. Trong khi đó, ở các tỉnh miền Trung và miền Nam lại viết là Trần Nhân Tôn.