✨Trần Duệ Tông

Trần Duệ Tông

Trần Duệ Tông (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là Trần Kính là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1372 đến khi tử trận vào năm 1377. Trần Duệ Tông là vị hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam bị tử trận khi đương quyền. Xét trong 7 thế kỷ Chiến tranh Việt-Chiêm, ông cũng là vị Hoàng đế duy nhất bị tử trận khi đánh nhau với quân Chiêm Thành.

Trần Duệ Tông Hoàng đế có lòng dũng cảm, mong muốn chấn hưng Đại Việt đã bị tàn phá và suy yếu dưới thời Trần Dụ Tông, Dương Nhật Lễ, muốn trấn áp kẻ thù từ thời khai quốc của Đại Việt là Chiêm Thành. Nhưng vì ông quá nóng vội đánh bại kẻ địch mà ông xem là yếu ớt, nhược tiểu nên bị bại trận. Do ông là tấm bình phong lớn nhất cho dòng tộc nhà Trần khi đó, việc ông bị tử trận khiến Thượng hoàng Trần Nghệ Tông khiếp đảm, sau này hễ Chế Bồng Nga bắc tiến là cùng Hồ Quý Ly bỏ kinh thành chạy dài. Trận thua lớn ở Đồ Bàn khiến thế nước Đại Việt suy kém, những người kế vị đều vô tài, nhà Trần ngày càng suy. hoặc Trần Nhật Đoan (陳日煓).

Khôi phục nhà Trần

Vào năm 1369, vua Trần Dụ Tông (con thứ 10 của vua Trần Minh Tông) chết, không có con nối. Hiến Từ Thái hậu đứng ra lựa chọn người kế vị, và bà chọn cháu trai của mình, con trai của người con lớn của bà là Cung Túc vương Trần Nguyên Dục, tên là Trần Nhật Lễ. Theo sử sách, Nhật Lễ vốn không phải là tông thất nhà Trần mà mẹ Lễ là đào hát, vợ của kép hát Dương Khương. Bà đã mang thai Lễ trước khi làm vợ Cung Túc vương Trần Nguyên Dục, anh ruột cùng mẹ của Dụ Tông, mất năm 1363.

Nhật Lễ đăng ngôi, phong các chú, bác là Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác làm Thái tể, Cung Định Đại vương Trần Phủ làm Thái sư, Cung Tuyên vương Trần Kính làm Hữu Tướng quốc. Nhà vua về sau bỏ bê công việc, ham chơi, rượu chè, lại giết Hiến Từ Thái hậu vì bà hối hận việc lập Nhật Lễ. Dương Nhật Lễ cho đón Dương Khương, cha đẻ của Nhật Lễ, vào triều, song Nhật Lễ còn định đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình.

Đêm ngày 20 tháng 9 năm 1370, các tông thất là: cha con Thái tể Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh Công chúa đem người tôn thất vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và tất cả đều bị hại.

Vào mùa đông, tháng 10 năm 1370, Cung Định vương vì có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp ông đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.

Vào tháng 11 năm 1370, tất cả anh em Trần Phủ, Trần Kính cùng với Thiên Ninh Công chúa dẫn quân về Kinh thành. Dương Nhật Lễ bị phế bỏ, giáng xuống làm Hôn Đức Công (昏德公).

Noi gương đời trước của nhà Trần thường giữ chế độ Hoàng đế và Thái thượng hoàng cùng trị nước, tháng 11 năm 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho Trần Kính và lên làm Thái thượng hoàng. Trần Kính lên ngôi, tức là Trần Duệ Tông. Trần Nghệ Tông tại vị với tôn hiệu Quang Hóa Anh Triết Thái thượng Hoàng đế (光華英哲太上皇帝), Duệ Tông xưng làm Khâm Hoàng (欽皇).

Trần Duệ Tông tiếp tục đường lối của cha ông, liên tục tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Sử cũ chép: "Ất Mão (năm 1375),... xuống chiếu chọn các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là tôn thất đều làm tướng coi quân, đồng thời cho ra khỏi quân ngũ những người lính già cả, ốm yếu, bệnh tật..."

Ông đã tổ chức thi Đình năm 1374 tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Những nho sĩ thời đó như Đào Sư Tích (Trạng nguyên), Lê Hiến Phủ (Bảng nhãn), Trần Đình Thám (Thám hoa)... đều xuất thân từ bình dân, không trong hàng ngũ hoàng tộc. Ông rất coi trọng nho sỹ, coi đó là đại diện văn hiến nước nhà, nên cho ăn yến, áo xấp, tước phẩm...

Trần Duệ Tông còn rất chú trọng đề cao quy định riêng của triều đại. Ông hạ lệnh cho quân dân không được mặc áo kiểu người phương Bắc và không được bắt chước tiếng nói của các nước Chiêm – Lào. Ông còn quy định về mẫu mã các loại thuyền, xe ngựa, kiệu, tán, nghi, trượng và y phục

Lâm nạn ở đất Chiêm

Do Đại Việt thường bị Chiêm Thành xâm lấn, Duệ Tông ra sức xây dựng quân đội hòng muốn dùng binh lực áp chế Chiêm Thành mãi mãi, nhưng không ngờ đó lại là mầm họa không chỉ với bản thân ông, mà còn khiến triều đại nhà Trần tiến gần đến bờ diệt vong.

Tháng 8 năm 1374, Duệ Tông cho dân đinh xung vào quân ngũ: hạng nhất xung vào Lan Đô, rồi đến hạng nhì, hạng ba. Người thấp bé nhưng mạnh khỏe cũng được xung lên hạng trên. Trước đây, quân Túc vệ có quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần, sau đặt thêm các quân Uy Tiệp, Bảo Tiệp, Long Dực, Thần Dực, Ý Yên, Thiên Trường, Bắc Giang, Điện Hậu, Long Tiệp, thích 3 chữ đen vào trán. Các quân Thị vệ, Tạc Ngạch, Hoa Ngạch, Tả Ban, Hữu Ban, Thanh Hóa, Nghệ An, Hóa Châu, Thuận Châu, Lâm Bình đều đặt quân hiệu. Có đại đội trưởng, đại đội phó làm tướng hiệu.

Năm 1376, chúa Chiêm là Chế Bồng Nga lại mang quân xâm lấn. Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng chúa Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Duệ Tông càng quyết định thân chinh đi đánh, mặc cho mọi lời khuyên ngăn của các đại thần Duệ Tông bị hãm trong trận, cùng các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. đầu năm 1378, em trai Trần Đoan là Trần Vĩ (tức Phế Đế) sai sứ là Trần Kiến Sâm (陳建琛) và Nguyễn Sĩ Ngạc (阮士諤) sang báo tang anh trai và cầu phong. Nhà Minh sai quan Trần Năng (陳能) mang lễ vật sang chia buồn.

Giai thoại về Chế Thắng Phu nhân

Tương truyền theo truyện dân gian, khi Trần Duệ Tông mang quân tới cửa biển Quảng Bình, gió thổi ngược khiến thuyền quân Trần không tiến được. Ông làm lễ cầu thần biển. Đêm đó thần biển báo mộng cho ông, đòi phải nộp 1 mỹ nhân mới cho thuận gió để quân đi qua.

Hôm sau, Duệ Tông thuật lại chuyện cho mọi người nghe. Mọi người sợ hãi, chỉ có bà Cung phi Nguyễn Thị Bích Châu tình nguyện hiến thân cho thần biển. Bà lao mình xuống biển chết và quân Trần đi qua được.

Sau này đến thời Lê Thánh Tông, năm 1471, cũng đi đánh Chiêm Thành, qua chỗ bà Bích Châu đã trầm mình. Bà hiện lên báo mộng cho vua Lê và xin làm lễ giải thoát. Vua Lê làm lễ cầu giải thoát cho bà và lập đền thờ ở cửa biển, phong làm Chế Thắng Phu nhân.

Báo mộng vua anh về sự diệt vong của nhà Trần

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 3 năm 1394, Trần Nghệ Tông (anh Duệ Tông) lúc đó đang là Thượng hoàng, chiêm bao thấy ông đem quân đến và đọc bài thơ như sau: :Trung gian duy hữu xích chủy hầu, :Ân cần tiếm thượng bạch kê lâu. :Khẩu vương dĩ định hưng vong sự, :Bất tại tiền đầu tại hậu đầu. Dịch là: :Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ, :Lăm le lấn lên lầu gà trắng. :Khẩu vương đã định việc hưng vong, :Không ở trước mà ở về sau. Thượng hoàng tự mình chiết tự đoán là: "xích chủy" (miệng đỏ) ám chỉ Quý Ly, "bạch kê" (gà trắng) là Nghệ Tông vì ông tuổi Tân Dậu (1321), "khẩu vương" thì chữ khẩu (口) và chữ vương (王) ghép lại là chữ "quốc" (囯), việc nước còn hay mất sau sẽ thấy. Nghệ Tông tự đoán biết ngày sau mình qua đời nhà Trần sẽ mất nước. Mà đúng là như vậy, sau khi Nghệ Tông qua đời 6 năm, nhà Trần diệt vong.

Bình luận

Đại Việt sử ký toàn thư nhận định về Trần Duệ Tông như sau: :Vua ương gàn cố chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc, nên mang họa vào thân chứ không phải là do bất hạnh.

Sử thần Lê Tung thời Lê Tương Dực đã nhận xét Trần Duệ Tông trong bài Đại Việt Thông giám Tổng luận: :"Duệ Tông mới được nhường ngôi, lưu tâm lo trị, chọn tướng rèn quân, mở khoa thủ sĩ, soạn bài để trâm, làm sách hoàng huấn, dường như cũng khá chịu làm. Song tin dùng ngoại thích, khởi mối cho gian thần tiếm ngôi, gạt lời sớ nói thẳng của Lê Tích, nghe lời tâu gian trá của Tử Bình, thân đi đánh Chiêm Thành, khinh suất vào động Ỷ Mang, liều quân chuốc vạ, đến nỗi bỏ mình."

Trong sách Thuyết Trần, Trần Xuân Sinh tổng kết một số ý kiến khác nhau về Duệ Tông. Có ý kiến cho Duệ Tông kiêu hãnh tự hại mình và hại các tướng sĩ; nhưng cũng có ý kiến ngược lại coi ông là người có khí phách và chết ở chiến trường không kết tội.

Sau khi Trần Minh Tông qua đời (1357), trong các hoàng đế nhà Trần thời hậu kỳ, ông là vị hoàng đế duy nhất có cá tính mạnh mẽ, mang hoài bão chấn hưng quốc gia

Gia quyến

  • Thân phụ: Hoàng đế Trần Minh Tông.

  • Thân mẫu: Đôn Từ Hoàng thái phi Lê thị (? - 1347). Khi còn là phi tần của Minh Tông được giữ hàng Sung viên (充媛). Nghệ Hoàng sau khi lên ngôi truy phong làm Quang Hiến Thần phi (光憲宸妃), sau Duệ Tông truy phong thành Đôn Từ Hoàng thái phi (敦慈皇太妃).

  • Hậu cung:

    Gia Từ Hoàng hậu Lê thị, em gái họ hàng của Hồ Quý Ly.

    Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, mẫn tiệp thông tuệ, tuyệt sắc giai nhân.

    Cung phi Trần Thị Ngọc Hòa, được biết tới trong dân gian là Hoàng hậu Bạch Ngọc, con gái ông Trần Công Thiệu, quê làng Tri Bản, xã Thổ Hoàng, phủ Đức Quang, lộ Nghệ An (nay thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Từ khi được tuyển vào cung, bà sinh được Huy Chân Công chúa.

  • Hậu duệ:

    Trần Vĩ (陳煒 1359-1373), truy phong Chương Vũ Đại vương (彰武大王).

    Trần Hiện (陳晛), tức Xương Phù Đế (昌符帝) hoặc Giản Hoàng (簡皇), sau bị Nghệ Hoàng giáng làm Linh Đức vương rồi bắt thắt cổ chết.

    Trần Nguyên Diệu (陳元曜 ? - 23/1/1390), hàng Chiêm Thành, sau khi Chúa Chiêm Chế Bồng Nga chết lại chạy về Đại Việt nhưng bị giết.

    Chương Tĩnh vương Trần Nguyên Hy (陳元翬).

    Huy Chân Công chúa Trần Thị Ngọc Hiền (輝真公主 陳氏玉賢 ),mẹ là Trần Cung phi. Sau trở thành vợ của Lê Lợi,có một con gái là Trang Từ Công chúa Lê Thị Ngọc Châu.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Thuận Tông** (chữ Hán: 陳順宗 1377 – 30 tháng 4 năm 1400) là vị hoàng đế thứ 12 và cũng là hoàng đế áp chót của triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì
**Trần Dụ Tông** (chữ Hán: 陳裕宗) 22 tháng 11 năm 1336 – 25 tháng 5 năm 1369) là vị hoàng đế thứ 7 của triều đại nhà Trần nước Đại Việt, ở ngôi 28 năm
**Duệ Tông** (chữ Hán: 睿宗) là miếu hiệu của một số vị vua ở Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. ## Việt Nam *Trần Duệ Tông Trần Kính: 1337 - 1377 thọ 41 tuổi,
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Trận thành Đồ Bàn** diễn ra ngày 24 tháng Giêng ÂL năm Đinh Tỵ (1377) tại thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Quy
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Trần Phế Đế** (chữ Hán: 陳廢帝; 6 tháng 3 năm 1361 – 6 tháng 12 năm 1388), hiệu **Giản Hoàng** (簡皇), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Trần Ngạc** (陳𩖃; 1357 - 1391) là một hoàng tử của triều đại nhà Trần tại Việt Nam, con trai của Trần Nghệ Tông, cha của Trùng Quang Đế. ## Cuộc đời Long Khánh nguyên
**Huy Chân Công chúa** (輝真公主) hay **Trinh Thục phi** (貞淑妃) Trần Thị Ngọc Hiền (còn có tên khác là Ngọc Dung, Ngọc Huyên) (1377 - ?) là một vị Công chúa nhà Trần và là
**Trần Đình Thâm** (chữ Hán: 陳廷深, ? - ?), còn được gọi là **Trần Đình Thám**, hay **Trần Đình Tham** , hiệu: **Hủ Phố**, là nhà thơ và là quan nhà Trần trong lịch sử
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
**Kinh tế Đại Việt thời Trần** phản ánh những vấn đề liên quan tới chính sách và hoạt động kinh tế vào thời nhà Trần (1225-1400) trong lịch sử Việt Nam. ## Nông nghiệp ###
**Nông nghiệp Đại Việt thời Trần** phản ánh chế độ ruộng đất và việc làm thủy nông thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Chế độ ruộng đất ### Ruộng công Có hai
**Trần Nguyên Đán** (chữ Hán: 陳元旦, 1325 hay 1326? - 1390) hiệu Băng Hồ, là tôn thất nhà Trần, dòng dõi Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Làm quan tới Tư đồ dưới thời các
**Trần Chu Phổ** (chữ Hán: 陳周普; ?-?) là một sử gia Việt Nam sống vào thời nhà Trần. ## Sự nghiệp Trần Chu Phổ là người xã Đan Nhiệm, huyện Tế Giang (nay thuộc huyện
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
phải|nhỏ|[[Đền An Sinh ]] **Khu di tích nhà Trần** tại Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Văn học đời Trần** là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225-1400). ## Tổng quan văn học thời Trần Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng** (chữ Hán: 興讓王陳國顙, 1252 - 1313) một tông thất hoàng gia, tướng lĩnh quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ ba của Hưng Đạo đại
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Lê Phụ Trần** (chữ Hán: 黎輔陳, ? -?), tức **Lê Tần** (黎秦), người Ái Châu, là một danh tướng của triều đại nhà Trần, phục vụ trải các triều Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông
**Trần Bình Trọng** (chữ Hán: 陳平仲, 1259 - 26 tháng 2, 1285) là một danh tướng nhà Trần, có công lớn hộ giá bảo vệ cho Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trong cuộc
**Trần Quang Triều** (chữ Hán: 陳光朝, 1287 -1325) còn có tên là **Nguyên Đào**, biệt hiệu là **Cúc Đường chủ nhân** (菊塘主人) và **Vô Sơn Ông** (无山翁), là một nhà chính trị, tôn thất hoàng
**Trần Nhật Hiệu** (chữ Hán: 陳日皎, 1225 - 1268), tước vị **Khâm Thiên Đại vương** (欽天大王), là con trai thứ ba của Trần Thái Tổ Trần Thừa và là em trai cùng mẹ với Trần
**Hành chính Việt Nam thời Trần** hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như
**Nhà Trần** () (557-589), đôi khi gọi là **Nam triều Trần** (南朝陳), là triều đại thứ tư và cuối cùng trong số các triều đại thuộc Nam triều thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc,
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Chế Thắng phu nhân** (chữ Hán: 制胜夫人), còn gọi **Bà Bích Châu** (婆碧珠) hay **Cung phi Bích Châu** (宮妃碧珠), là một nhân vật truyền thuyết Việt Nam, tương truyền là một phi tần rất được
Theo Đặng tộc đại tông phả do Thái bảo Yên quận công Đặng Đinh Thự (1631 – 1698) biên soạn năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683), Đại tư mã Ứng quận
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Sử Hy Nhan** (chữ Hán: 史希顏; ? - 1421) vốn tên là Trần Hy Nhan, nhưng rất giỏi Sử nên được vua Trần ban cho họ Sử. Ông là nhà văn, nhà sử học nổi
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử