✨Lâm Tế tông
Lâm Tế tông (zh. línjì-zōng/lin-chi tsung 臨濟宗, ja. rinzai-shū) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông Thiền phát triển và hưng thịnh nhất trong Thiền tông. Cùng với tông Tào Động, tông Lâm Tế là một trong hai phái Thiền còn được truyền thừa liên tục cho đến ngày nay ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Khoảng vài mươi năm đến bây giờ, tông Lâm Tế được truyền bá rộng rãi đến phương Tây thông qua các Thiền sư Nhật Bản.
Lịch sử
Sơ khai
Đời Đường, Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền tham học với Thiền sư Hoàng Bá Hi Vận rồi ngộ đạo và được ấn chứng. Vào năm Đại trung thứ 8 (854) đời vua Tuyên Tông, sư đến trụ trì ở Viện Lâm Tế tại Trấn châu, Hà Bắc và đặt ra các cơ phong, Thiền lý như Tam huyền tam yếu, Tứ liệu giản,... để tiếp dẫn đồ chúng, tông phong hưng thịnh và từ thời Trung Đường về sau đã phát triển thành 1 tông phái lớn, gọi là tông Lâm Tế.
Thời kỳ nhà Tống
Tông Lâm Tế truyền đến đời thứ 8 phân làm hai nhánh: Dương Kỳ phái do Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội sáng lập và Hoàng Long Phái do Thiền sư Hoàng Long Huệ Nam làm khai tổ. Lúc đầu cả hai nhánh này đều phát triển ngang bằng nhau, nhưng đến cuối đời Tống thì phái Hoàng Long thất truyền tại Trung Quốc và chỉ còn tồn tại ở Kiến Nhân tự và Thọ Phúc tự do Minh Am Vinh Tây sáng lập bên Nhật Bản. Từ đó, phái Dương Kỳ là chủ lưu của truyền thừa tông Lâm Tế ở Trung Quốc.
Nếu như Thiền Lâm Tế từ đời Nam Tống trở về trước chủ trương "Thiền duy nhất" thì đến thời kỳ này bắt đầu có sự pha trộn với tư tưởng của Tịnh Độ tông, ví dụ điển hình là chủ trương Thiền-Tịnh song tu của Thiền sư Trung Phong Minh Bản.
Thời kỳ cận - hiện đại
Cận đại, tông Lâm Tế được tiếp tục duy trì thông qua hoạt động của hai vị Thiền sư là Hư Vân và Lai Quả. Về Thiền sư Hư Vân, ông là người có công lao khôi phục lại hàng chục ngôi Thiền viện của Thiền tông Trung Quốc cũng như đào tạo ra thế hệ tăng tài tiếp nối mạng mạch của Ngũ Gia, trong đó có tông Lâm Tế. Pháp môn chính mà Thiền sư Hư Vân truyền bá là Thiền Khán Thoại xuất phát từ tông Lâm Tế. nhỏ|280x280px|Ảnh chụp Thiền sư [[Hư Vân (Thiền sư)|Hư Vân và Lai Quả (người để tóc dài) vào năm 1952.]] Thiền sư Lai Quả (zh. Laiguo, 1881-1953) là vị Thiền sư Lâm Tế nổi danh thứ hai xếp sau Tổ Hư Vân trong thời cận đại của Trung Quốc. Ông trước tu niệm Phật, sau chuyển sang tham thiền và ngộ đạo khi tham cứu câu thoại "Niệm Phật là ai?". Sau khi trở thành trụ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu, Giang Tô, ông đã thực hiện đường lối Thiền rất quy củ và nghiêm ngặt. Ông từ chối thực hiện bất cứ hoạt động nào trong chùa mà không liên quan đến tham thiền, kể cả tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Vì điều kiện chùa rất thiếu thốn, các vị sư thường chỉ ăn cám gạo. Một lần, vào ngày Phật Đản, vì không có đồ cúng dâng lên Phật, các vị sư chùa Cao Mân đã nấu nước sôi bưng lên cúng dường Phật rồi sau đó uống để qua cơn đói và tiếp tục tham thiền. Thiền sư Lai Quả cũng thường dùng Thiền bản để đánh cảnh sách đệ tử khi họ không tập trung hay lơ đãng. Có một bà thí chủ dâng cúng 7 thỏi vàng với yêu cầu là ông phải dùng Thiền bản đánh bà để giúp bà tiêu trừ nghiệp chướng nhưng Thiền sư Lai Quả từ chối nói: "Hương bản này chỉ dùng để đánh những người có khả năng thành tổ sư!" Thiền sư Lai Quả đã để lại rất nhiều hướng dẫn về phương pháp Khán thoại đầu và được lưu lại trong Ngữ Lục. Pháp ngữ của ông đã được Hòa thượng Thích Duy Lực dịch sang tiếng Việt với các bộ là Tham Thiền Phổ Thuyết, Thiền Thất Khai Thị Lục (Quyển Thượng& Quyển Hạ).
Ảnh hưởng
Nhật Bản
Cuối thời kỳ Nam Tống, Thiền Lâm Tế được truyền bá ồ ạt từ Trung Quốc sang Nhật Bản thông qua các vị du tăng người gốc Nhật như Duệ Sơn Giác A (zh. 叡山覺阿), Minh Am Vinh Tây, Viên Nhĩ Biện Viên, Tâm Địa Giác Tâm, Nam Phổ Thiệu Minh... hay các Thiền sư Lâm Tế Trung Quốc được giới cầm quyền Nhật Bản thỉnh sang Nhật hoằng pháp như Lan Khuê Đạo Long, Vô Học Tổ Nguyên, Ngột Am Phổ Ninh, Nhất Sơn Nhất Ninh... Vì lý do đó, tông Lâm Tế Nhật Bản chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Thiền đời Tống (Thiền đốn ngộ, Thiền công án) và khuynh hướng văn học Thiền (thư pháp, thi kệ) cũng như nghệ thuật Thiền (vẽ tranh, vườn Thiền, kiến trúc). Nhiều người thường nhầm lẫn Minh Am Vinh Tây là người Nhật Bản đầu tiên truyền Thiền Lâm Tế vào Nhật Bản, nhưng thực chất phải là Duệ Sơn Giác A, môn đệ nối pháp của Thiền sư Hạt Đường Huệ Viễn. Ông đến Trung Quốc cầu đạo và đắc pháp sớm hơn Vinh Tây. Tuy nhiên sau khi về nước, ông chủ yếu tu ẩn dật chứ không truyền đạo rộng rãi như Minh Am nên ít người biết đến ông.
Tới thế kỷ 17, tông Lâm Tế theo khuynh hướng Thiền nhà Minh (Thiền-Tịnh song tu kết hợp tụng kinh, trì chú) được truyền vào Nhật Bản bởi Thiền sư Ẩn Nguyên Long Kì. Phái của Ẩn Nguyên Long Kỳ (phái Hoàng Bá) ban đầu cũng được xếp vào trong hệ thống tông Lâm Tế Nhật Bản nhưng vì sự đối lập giữa hai bên về tư tưởng, đường lối, pháp tu khó có thể điều hoà được nên sau đó phái Hoàng Bá đã tách ra và thành một tông riêng gọi là tông Hoàng Bá, hoạt động độc lập với tông Lâm Tế Nhật Bản. Ngoài ra giai đoạn này cũng có một Thiền sư Lâm Tế tông khác là Đạo Khả Siêu Nguyên (zh. 道者超元, 1602-1662), là đồng môn với Ẩn Nguyên Long Kì (cách Ẩn Nguyên một đời) sang Nhật truyền đạo, vị tăng Bàn Khuê Vĩnh Trác - người về sau trở thành một Thiền sư nổi danh với chủ trương "Thiền bất sinh" từng có đến tham học với ông và được ông ấn khả. Tuy nhiên, do sự chèn ép và bành trướng của phái Hoàng Bá, Siêu Nguyên và các môn đệ buộc phải quay lại Trung Quốc sau vài năm hoằng pháp ở Nhật.
Hiện nay, mặc dù tông Lâm Tế Nhật Bản vẫn đang trên đà phát triển và được truyền bá rộng rãi sang phương Tây, cũng tồn tại một số tệ đoan như việc giải đáp công án trong một số Thiền viện. Theo đó, khi một người Thiền sinh đến tham học với một vị Thiền sư, vị Thiền sư sẽ giao một công án Thiền cho người Thiền sinh đó suy nghĩ, tìm hiểu. Trong buổi tham vấn tiếp theo, nếu người Thiền sinh đưa ra được câu trả lời thông minh, phù hợp với suy nghĩ của người thầy thì công án đó sẽ được thông qua. Người thầy sẽ tiếp tục giao các công án khác cho Thiền sinh suy nghĩ, giải đáp, theo mức độ từ khó đến dễ. Sau khi đã giải hết số công án mà người thầy giao (ví dụ như 100, 200 công án), vị Thiền sinh được công nhận là đã đạt được triệt ngộ và được vị thầy ấn khả, truyền pháp, trở thành một vị Thiền sư. Kiểu tu hành này bị nhiều vị Thiền sư, điển hình như Thiền sư Tính Triệt (ko. 성철 Seongcheo, 1912-1993, Tào Khê tông Hàn Quốc) chỉ trích, vì mục đích chính của việc tham công án là để cắt đứt hoàn toàn tâm ý thức phân biệt chấp trước vốn là nguồn gốc của đau khổ, vô minh, sinh tử luân hồi. Việc giải đáp công án không chỉ ngăn cản sự giác ngộ của thiền sinh mà còn làm tăng thêm tri giải, kiến chấp. Điều này còn tạo thêm sự ngụy biện, giả dối vì sự giác ngộ, trình độ (Thiền sư) được đánh giá dựa trên số công án, câu hỏi khó mà một người trả lời được chứ không phải là trải nghiệm khai ngộ xảy ra trong tâm người đó.
Triều Tiên
Tông Lâm Tế được truyền sang Triều Tiên vào giữa thế kỷ 14 này thông qua các vị tăng người Triều Tiên sang Trung Quốc tham học là Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu và Bạch Vân Cảnh Nhàn (đồng nối pháp Thiền sư Thạch Ốc Thanh Củng), và Thiền sư Lãn Ông Huệ Cần (nối pháp Thiền sư Bình Sơn Sử Lâm, huynh đệ đồng môn của Thiền sư Thạch Ốc Thanh Củng). Dòng truyền thừa của Thiền sư Lãn Ông Huệ Cần và Bạch Vân Cảnh Nhàn tồn tại ở Triều Tiên một thời gian và sau đó thất truyền. Phía Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu, ông là người đồng sáng lập Tào Khê tông - một Thiền phái bản địa của người Triều Tiên và tồn tại cho đến ngày nay. Những vị Thiền sư thuộc Tào Khê tông hiện nay đều mang pháp hệ truyền thừa từ dòng Lâm Tế của ông.
Việt Nam
Tư tưởng của Tông Lâm tế đầu tiên được truyền đến Việt Nam vào thời nhà Trần, một số bộ ngữ lục quan trọng của tông Lâm Tế như Lâm Tế Lục, Đại Huệ Ngữ Lục đã được đem sang Việt Nam thông qua một số vị Thiền sư Trung Quốc như Cư sĩ Thiên Phong. Một số vị vương tôn, tăng sĩ triều Trần đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng tư tưởng của Tông Lâm Tế như Vua Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Quốc sư Đại Đăng, Trần Nhân Tông. Ví dụ Vua Trần Thái Tông từng tham công án và sử dụng các giáo lý của tông Lâm Tế như "Tam huyền, Tam yếu", "Vô vị chân nhân"... vào việc giảng dạy Thiền cho tăng sĩ. Vua cũng có bình giảng, làm kệ tụng về 43 công án Thiền. Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng ảnh hưởng nhiều từ bộ Đại Huệ Ngữ lục và từng nhiều lần giảng bộ ngữ lục này cho tăng chúng.
Đến thế kỷ 17, tông Lâm Tế được truyền vào miền bắc bởi các vị tăng người Trung Quốc là Viên Văn Chuyết Chuyết (1590 - 1644) và môn đệ là Minh Hành Tại Tại (1596-1659). Dòng phái này có Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng là người có công khôi phục lại các tác phẩm Thiền và các di tích, tự viện của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Ở miền trung, tông Lâm Tế được truyền vào Việt Nam thông qua các vị tăng gốc Trung Quốc được chúa Nguyễn thỉnh sang Việt Nam truyền giới luật, tổ chức giới đàn. Đó là các vị Hòa thượng như Nguyên Thiều Siêu Bạch, Minh Hoằng Tử Dung, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Lượng Thành Đẳng (1626-1709). Tuy nhiên, những tư tưởng mà các vị như Viên Văn Chuyết Chuyết, Nguyên Thiều Siêu Bạch, Minh Hải Pháp Bảo, Minh Lượng Thành Đẳng, Minh Hành Tại Tại truyền dạy cho các đệ tử chỉ mang tính chất của Phật giáo căn bản mà đều có ở các tông phái Bắc tông khác như: trì giới, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, ngồi thiền. Tuyệt nhiên, pháp tham công án, thoại đầu là phương pháp tu hành để cầu khai ngộ vốn rất được chú trọng trong tông Lâm Tế không hề được các vị này nhắc đến hay truyền dạy cho đệ tử.
Duy có một trường hợp ngoại lệ là Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung, ông là vị Thiền sư người Trung Quốc ngộ đạo và đã chỉ dạy lại phương pháp tham thoại đầu cho đệ tử người Việt là sư Liễu Quán Thiệt Diệu. Vị sư này sau đó khai ngộ và được ông công nhận và ấn chứng. Sau Thiền sư Liễu Quán thì cũng không thấy trong lịch sử tông Lâm Tế Việt Nam ghi chép lại về một vị sư nào ngộ Thiền.
Đa số ở các môn phái Lâm Tế Việt Nam từ Bắc tới Nam chỉ mang tính chất truyền thừa dựa trên việc đặt pháp danh theo bài kệ truyền pháp của vị tổ sư phái và nối tiếp truyền thừa đời thứ giữa thầy trò với nhau mà được ghi lại trong phổ hệ hay pháp quyển truyền thừa. Chứ không có kinh nghiệm giác ngộ cá nhân (kiến tính, đại ngộ, triệt ngộ) của người đệ tử hay ấn chứng kinh nghiệm giác ngộ (dĩ tâm truyền tâm) từ vị thầy cho người đệ tử. Hình thức truyền thừa (truyền pháp) như vậy chỉ mang tính chất giống như sự tiếp nối của thế hệ gia đình thế tục, cha truyền con nối, tình cảm cá nhân chứ không mang bất kỳ ý nghĩa thể hiện nào về mặt kinh nghiệm giác ngộ trong Thiền tông. Điều này là thiếu sót, sai lệch vì thông thường các vị Tổ sư Thiền (đã kiến tính) chỉ ấn khả và truyền pháp cho những đệ tử xuất gia đã khai ngộ (kiến tính), còn những người đệ tử tuy xuất gia hay theo học với vị tổ sư đó nhưng nếu chưa khai ngộ thì không được ấn khả hay nối pháp vị Tổ sư. Bởi vì mục đích của việc truyền thừa này là để xác nhận vị đệ tử đó đã đạt được kiến tính và đủ khả năng tiếp nối, hoằng dương Thiền tông. Những người nếu như chưa ngộ hoặc không biết gì về yếu chỉ, phương pháp của Thiền tông thì sẽ không có đủ năng lực để kế thừa chư tổ, và như vậy việc họ nối pháp là không xứng đáng. Những người như vậy nếu có tuyên xưng mình là Thiền sư thì cũng chỉ là người giả mạo, bắt chước, chứ không phải là Thiền sư thứ thiệt. Ví dụ, Thiền sư Mật Vân Viên Ngộ (tông Lâm Tế) đã bị Thiền sư Giác Lãng Đạo Thịnh (tông Tào Động) chỉ trích vì truyền pháp một cách hào phóng, vô tội vạ cho những người không đủ phẩm chất. Trong khi 12 người nối pháp Thiền sư Mật Vân ít nhất đều là người tu Thiền và đã đạt được khai ngộ mà còn bị Thiền sư Giác Lãng quở trách là không đủ phẩm chất để nối pháp, những người chưa kiến tính, không biết gì về yếu chỉ Thiền tông thì lấy tư cách gì để nối pháp hay truyền pháp cho người khác? Hiện nay có nhiều chùa ở Việt nam tự xưng là thuộc Lâm Tế Chính Tông và mỗi khi có một vị sư nào nó đó viên tịch thì trong hành trạng, tiểu sử, trên bia tháp đều ghi là nối dòng Lâm Tế đời thứ mấy, nhưng thực chất đa số họ chỉ là người tu theo Tịnh độ tông, Mật tông hoặc giáo lý căn bản... chứ không tu Thiền tông hay hiểu gì về yếu chỉ cốt tủy của Thiền tông cả.
Vào cuối thế kỷ 20, có vị Thiền sư nổi danh là Hòa thượng Thích Duy Lực (thuộc tông Tào Động, người Hoa) đã thuyết giảng và hướng dẫn tăng ni, phật tử tu tập theo đúng phương pháp Thiền khán thoại của tông Lâm Tế và thu hút được hàng nghìn người đến tu tập với các Thiền đường, tự viện khắp vùng Đông Nam Bộ và cả ở California, Mỹ. Những tác phẩm ngữ lục do ông dịch và các bài giảng về tham thiền là nguồn tư liệu đáng tin cậy cho những ai có ý định tìm hiểu hay thực hành tham thiền.
Phương Tây
Tông Lâm Tế được giới thiệu sang Mỹ đầu tiên vào năm 1905 bởi Thiền sư Hồng Nhạc Tông Diễn (ja. Shaku Soyen, 1860-1919) cùng với đệ tử là học giả Suzuki Daisetsu Teitarō. Bộ Thiền Luận gồm 3 tập của Suzuki đã cung cấp cho người phương Tây rất nhiều tri kiến về Thiền tông, thông qua đó đã tạo động lực cho nhiều người phương Tây tìm hiểu, tu tập Thiền tông hoặc đến Nhật Bản để tầm sư học đạo cũng như mở đầu cho sự truyền bá của Thiền tông ra khắp thế giới...