✨Đại Huệ Tông Cảo

Đại Huệ Tông Cảo

Đại Huệ Tông Cảo (zh: 大慧宗杲 Ta-hui Tsung-kao, ja: Daie Sōkō, 1088–1163) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Dương Kì, tông Lâm Tế. Sư là pháp tử nổi danh nhất của Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần. Sư nổi tiếng với việc đốt tập công án Bích nham lục. Sư là Tổ sáng lập Đại Huệ phái - một trong hai chi nhánh chính của phái Dương Kì bên cạnh Hổ Khâu phái của Thiền Sư Hổ Khâu Thiệu Long. Dưới Sư đào tạo được 94 đệ tử đạt Kiến tính, kỷ lục này đã gây chấn động Thiền tông đương thời.

Sư rất đề cao việc sử dụng công án làm phương tiện giác ngộ, từ đây đây công án trở thành một thành phần quan trọng trong việc tu tập của dòng Lâm Tế và gây ảnh hưởng rất nhiều đến truyền thống Thiền tông Trung Quốc đời sau. Tư tưởng của Đại Huệ cũng được du nhập sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và rất có ảnh hưởng đến Tông Lâm Tế ở Nhật Bản, Tào Khê Tông ở Triều Tiên và Thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam.

Những cuộc tranh luận của Sư với Thiền Sư Hoằng Trí Chính Giác về Khán thoại thiền (Tông Lâm Tế) và Mặc chiếu thiền (Tông Tào Động) đã nêu rõ lập trường tư tưởng của hai tông này.

Cơ duyên ngộ đạo

Sư họ Hề, quê ở Ninh Quốc, Tuyên Châu. Sư xuất gia năm mười ba tuổi, thụ giới cụ túc năm 17 tuổi. Mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng Sư đã nghiên cứu xem rất nhiều Ngữ lục và rất thích những lời dạy của các vị tôn túc như Vân Môn, Mục Châu. Nhân lúc đọc các thiền ngữ này Sư nảy sinh lòng thắc mắc vì sao ban đầu chỉ có một vị Tổ Bồ-đề Đạt-ma mà sau lại phát sinh ra nhiều tông phái khác nhau. Nghe lời cha mẹ khuyên, Sư cất bước du phương.

Sư tham vấn rất nhiều vị Thiền Sư danh tiếng đương thời như Minh Giáo Thiện Trình, Động Sơn Đạo Vi, Hối Đường Tổ Tâm... nhưng đều không được cơ duyên khế hợp. Nhân dịp đến Thiền Sư Lặc Đàm Văn Chuẩn, Sư trổ tài hùng biện, Thiền Sư Văn Chuẩn rất phục nhưng lại bảo rằng: "Ông chỉ thiếu một tiếng Ồ. Nếu chẳng được tiếng Ồ này thì khi nói chuyện trong phòng ta thì có Thiền, khi ra khỏi thì hết, khi thức tỉnh thì có thiền, vừa nằm ngủ liền hết. Nếu như thế thì làm sao đối địch được sinh tử?". Trước khi thị tịch, Thiền Sư Văn Chuẩn khuyên Sư đến tham học với Thiền Sư Viên Ngộ Khắc Cần mới có thể liễu ngộ sinh tử đại sự và bảo Sư nghiên cứu kĩ Đại tạng kinh.

Sau khi Thiền Sư Văn Chuẩn thị tịch, Sư đến nhờ thừa tướng Trương Thiên Giác (đồng thời cũng là cư sĩ Thiền Tông ngộ đạo) đến làm bài minh trên tháp của Thiền Sư Văn Chuẩn và cùng Sư đến yết kiến Viên Ngộ.

Niên hiệu Tuyên Hòa (1100-1126), Sư đến Viên Ngộ nhập viện. Sư sớm chiều thưa thỉnh nhưng sau một năm mà vẫn chưa sáng tỏ được đại sự. Một hôm, nhân lúc thăng tòa thuyết pháp, Viên Ngộ nhắc lại công án của Vân Môn (Tăng hỏi Vân Môn: "Thế nào là chỗ chư Phật xuất thân?", Vân Môn đáp: "Ngọn Đông sơn đi trên nước"). Rồi khai thị trước chúng: " Nếu là Thiên Ninh thì không như thế. Nếu có người hỏi thế nào là chỗ chư Phật xuất thân chỉ nói với y rằng gió nhẹ từ phương Nam đến thì điện các sinh mát mẻ". Sư nghe câu này hoát nhiên tỉnh ngộ, trình bày sở đắc nhưng Viên Ngộ chưa hoàn toàn công nhận. Sư tự than là đạo lí của Viên Ngộ giống như con chó nhìn chảo mỡ nóng, liếm cũng không được mà bỏ thì không đành. Viên Ngộ nhắc lại giai thoại tham vấn của mình nơi Ngũ Tổ Pháp Diễn: "Ta hỏi: "Câu có câu không như bìm nương cây, là thế nào?" Ngũ Tổ bảo: "Tả cũng tả chẳng thành, vẽ cũng vẽ chẳng được". Ta lại hỏi: "Chợt gặp cây ngã bìm khô thì thế nào?", Ngũ Tổ bảo: "Theo nhau lại vậy"". Sư nhân nghe đây triệt ngộ , Viên Ngộ bèn đem các công án nan giải trong Thiền Tông ra trắc nghiệm Sư đều đối đáp thông suốt không chút ngăn ngại. Viên Ngộ khen: "Cảo chẳng phải một đời hai đời làm Thiện tri thức lại (ý nói Sư nhiều đời tu hành, tham học nên vừa sinh ra đã là bậc thượng căn pháp khí, sớm được liễu ngộ) và ấn khả cho Sư. Đồng thời Viên Ngộ cũng trao cho Sư bộ Lâm Tế Chính Tông ký do ngài soạn để minh chứng cho sự truyền pháp.

Không lâu sau, Thiền Sư Viên Ngộ chia pháp tòa cho Sư cùng thuyết pháp, tiếp dẫn đồ chúng đến tham học. Từ đó tùng lâm mỗi ngày càng hưng thịnh, danh tiếng của Sư vang rộng khắp nơi, tới tận kinh đô. Trong số những người đến tham học, hỏi đạo với Sư có cả hàng quan lại triều đình, học sĩ Nho Giáo đương thời.

Hoằng pháp

nhỏ|Lá thư của Thiền Sư Đại Huệ Năm 1126, đầu niên hiệu Tĩnh Khang, Thừa tướng Lữ Thuấn Đồ tâu vua về công hạnh của Sư và vua ban cho Sư cà sa tử y và sắc phong hiệu là Phật Nhật Thiền Sư.

Năm 1137, niên hiệu Thiện Hưng thứ 7, có quan thị lang là Trương Cửu Thành thỉnh Sư đến trụ trì ở Năng Nhân Thiền Tự, Kính Sơn, phủ Lâm An, môn đệ khắp bốn phương tấp nập đến tham vấn rất đông, đồ chúng trụ tại chùa thường có đến cả ngàn người. Cách giáo hoá của Sư như vũ bão, thiền phong đánh, hét mạnh mẽ, tông phong đại thịnh, có thể gọi là cơ phong giáo hóa, tiếp dẫn người học tiêu biểu cho tông Lâm Tế hệ phái Dương Kì sau này:

Một vị tăng vừa vào cửa, Sư bảo: "Chẳng phải, đi ra!". Vị tăng liền ra, Sư bảo:" Không lường đại nhân, bị trong ngữ mạch chuyển". Kế một vị tăng vào, Sư bảo: "Chẳng phải, đi ra! Vị tăng đến gần", Sư bảo: "Đã nói với ông chẳng phải, lại đến gần tìm cái gì!" và đánh đuổi ra. Lại một vị tăng vào nói: "Hai vị tăng vừa rồi không hiểu ý Hòa thượng. Sư liền cúi đầu: "Hư!" một tiếng. Vị tăng này mù mịt không biết thế nào, Sư liền đánh đuổi ra và nói: "Lại là ông hiểu ý Lão tăng!". Lại một vị tăng vào. Sư hỏi: "Vừa rồi có hai vị Thượng toạ một người biết nắm chẳng biết buông, một người biết buông mà chẳng biết nắm, ông lại biện được chăng?". Tăng thưa: "Tất cả lĩnh thụ rồi". Sư bảo: "Sau khi lĩnh thụ rồi có tin tức tốt nào khác chăng?". Vị tăng vỗ tay một cái liền ra. Sư bảo: "Sau ba mươi năm ngộ đi vậy".

Năm 1141, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 11, quan thị lang Trương Cửu Thành đến Kính Sơn theo Sư học Thiền, tình cờ bàn luận với Sư về tình hình triều chính đương thời. Bấy giờ Tần Cối thao túng quyền lực trong triều đình, âm mưu nghị hòa với người Kim, còn Trương Cửu Thành thuộc phe chủ chiến trong triều đình. Tần Cối dùng quyền lực uy hiếp, tiêu diệt bất cứ những ai không cùng ý kiến với mình. Tần Cối bèn bắt giam, xử tội Trương Cửu Thành, còn Sư vì giáo hóa Trương Cửu Thành nên bị Tần Cối gán tội bè đảng và bị tước pháp phục cà sa, chứng điệp và bị đày đến Hành Châu (Hành Dương, Hồ Nam). Tại đây, Sư tiếp tục giáo hóa, phát triển tông môn, người học vẫn quy tụ về đây theo Sư tham học. Trong thời gian này, Sư thu nhặt cơ duyên ngộ đạo, pháp ngữ của các bậc thiền Sư, cổ đức, các công án ở trong các quyển Ngữ Lục, rồi cùng thảo luận với các đệ tử và soạn ra bộ Chính Pháp Nhãn Tạng gồm 6 quyển.

Năm 1150, Sư lại bị đày đến vùng Mai Châu, Quảng Đông. Nơi đây là vùng chướng khí không thích hợp cho người ở, dễ bị mắc các bệnh dịch. Vì thế đồ chúng tham học ở đây với Sư khoảng 100 người thì mắc bệnh dịch chết hơn một nửa, thiền khách khắp nơi vẫn đến đây tham học, dù chết cũng không hối hận. Sư vẫn an nhiên tự tại, giữ tâm bình thường, và giáo hóa người dân ở vùng này. Đến năm 1155, Sư được vua Tống Cao Tông ân xá, năm sau mặc lại tăng phục, cà sa. Vua ra chiếu chỉ thỉnh Sư đến trụ trì ở chùa Dục Vương.

Hai năm sau, vua lại ra chiếu thỉnh Sư trở lại trụ trì giáo hóa ở núi Kính Sơn, tăng tục bèn trở lại tham học như cũ. Bấy giờ Sư được người đời kính trọng, tôn xưng gọi là Kính Sơn Đại Huệ Thiền Sư, Kính Sơn Lão Nhân. Tống Hiếu Tông khi còn làm Phổ An Quận Vương nghe danh tiếng của Sư bèn sai người đến yết kiến Sư. Thời gian sau, vua và các quần thần cùng vào trong Kính Sơn nghe Sư thuyết pháp và rất ngưỡng mộ, quy y với Sư. Vua có đề hai chữ Diệu Hỷ ở trước am của Sư để tỏ lòng thành kính và làm thơ tán thán đạo hạnh của Sư. Sau khi lên ngôi, Tống Hiếu Tông bèn ban cho Sư hiệu là Đại Huệ Thiền Sư.

Trong cuộc đời hoằng pháp của mình, Sư có tài biện luận ích người sánh kịp, người tham vấn mỗi khi nghe Sư giáo hóa liền khai ngộ, thông suốt chân tâm. Sư chủ trương đề xướng Thiền công án, thoại đầu; người học dựa vào đó để tham cứu, khởi nghi tình và cuối cùng đạt đến giác ngộ, kiến tánh. Đương thời pháp thiền công án của Sư cùng với thiền mặc chiếu của Thiền Sư Hoằng Trí Chính Giác tông Tào Động phát triển rực rỡ song song với nhau.

Dù phản đối Thiền Mặc Chiếu nhưng ngữ lục vẫn ghi lại về việc thi thoảng Sư vẫn toạ Thiền. Đó là những lúc Sư bị mất ngủ vào giữa đêm và thức giấc. Sư bèn toạ Thiền một vài thời và cảm thấy sảng khoái. Đối với Đại Huệ, toạ Thiền là thuốc trị bệnh dành cho những người bị thân bệnh. Còn muốn đạt được kiến tính thì phải tham cứu thoại đầu.

Ngày 10 tháng 8 (1163), niên hiệu Long Hưng năm đầu, Sư gọi đồ chúng đến căn dặn rồi thị tịch, thị giả xin Sư viết kệ. Sư bảo: "Không có kệ thì không chết được sao?" rồi cầm bút viết:

Sinh cũng chỉ thế ấy

Tử cũng chỉ thế ấy

Viết kệ cùng không kệ

Có gì là quan trọng?

Viết xong, Sư ném bút thị tịch, thọ 75 tuổi, 58 tuổi hạ, vua sắc phong thụy hiệu là Phổ Giác Thiền Sư. Tháp mộ của Sư nay còn tại Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự, Ninh Ba, Triết Giang.

Tác phẩm

Các phẩm của Sư để lại gồm có:

  • Chính Pháp Nhãn Tạng (zh: 正法眼藏, 6 quyển).
  • Đại Huệ Thiền Sư Ngữ Lục (zh: 大慧普覺禪師語錄, 30 quyển): Sách này được một vị Sư người Anh dịch ra tiếng Anh và phổ biến ở phương Tây với tên gọi: Swampland Flowers: Letters and Lectures of Zen Master Ta Hui.
  • Đại Huệ Tông Môn Vũ Khố (zh: 宗門武庫, 1 quyển).

    Nguồn tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Dumoulin, Heinrich: : Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985. : Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.

Thể loại:Thiền sư Trung Quốc Thể loại:Người An Huy Thể loại:Lâm Tế tông

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đại Huệ Tông Cảo** (zh: 大慧宗杲 _Ta-hui Tsung-kao,_ ja: _Daie Sōkō_, 1088–1163) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Dương Kì, tông Lâm Tế. Sư là pháp tử nổi danh nhất của Thiền
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Cao Ly Huệ Tông** (Hangul: 고려 혜종, Hanja: 高麗 恵宗; 912 – 945), trị vì từ năm 943 – 945. Ông là vị quốc vương thứ hai của triều đại Cao Ly. Ông là người
**Diệu Tổng Vô Trước** (chữ Hán: 妙總 無著, _Miàozǒng wúzhuó_; ?-1163) là một nữ Thiền sư Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Tống. Sư là môn đệ ngộ đạo của Thiền sư Đại Huệ Tông
**Hạt Đường Huệ Viễn** (1103-1176, zh: 瞎堂慧遠), còn được gọi là **Phật Hải Huệ Viễn** (zh: 佛海慧遠), là Thiền sư Trung Hoa đời Tống. Sư thuộc Dương Kì phái - Lâm Tế tông, là đệ
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Hanoi_Temple_of_Literature.jpg|nhỏ|Quần thể di tích [[Văn Miếu – Quốc Tử Giám tại Hà Nội, bao gồm cả Quốc Tử Giám (國子監), trường đại học đầu tiên của Việt Nam]] Bài viết liệt kê danh sách các
Trường Đại học Khoa học Huế nhìn từ đường [[Nguyễn Huệ|liên_kết=Special:FilePath/Đại_học_Khoa_học.jpg]] Trường Đại học Khoa học Huế nhìn từ đường [[Đống Đa]] **Trường Đại học Khoa học** là một trường đại học thuộc hệ thống
**Bộ Quốc phòng Việt Nam** có hệ thống học viện và nhà trường hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên nghiệp vụ ở mọi cấp các
**Trường Đại học Hà Nội** (tiếng Anh: **Hanoi University**, tên viết tắt: **HANU**) là một trong hai cơ sở đào tạo và nghiên cứu ngoại ngữ ở trình độ đại học và sau đại học;
**Trường Đại học Ngoại ngữ** ( – **VNU-ULIS**), là một trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội, được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam.
**Nam Cao** (nguyên danh **Trần Hữu Tri**, thánh danh **Giuse**, 29 tháng 10, năm 1915 hoặc 1917 – 30 tháng 11 năm 1951) là một nhà văn, nhà báo và cũng là một chiến sĩ,
**Viện Đại học Cần Thơ** là một viện đại học công lập ở Cần Thơ, được thành lập vào năm 1966. Năm 1975, Viện Đại học Cần Thơ trở thành Trường Đại học Cần Thơ.
**Đại học**, còn được gọi là **đại học đa thành viên** hay **hệ thống đại học**, là một loại hình cơ sở giáo dục tại Việt Nam, cung cấp giáo dục bậc đại học, sau
phải|nhỏ|Niên san khảo cứu 1958 của Trường Đại học Khoa học (còn được gọi là Khoa học Đại học Đường). **Trường Đại học Khoa học Sài Gòn** là một trường thành viên của Viện Đại
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Huế** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương và là thành phố di sản của Việt Nam. Thành phố là một trong các trung tâm văn hóa, y tế và giáo dục
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
right|thumb|Một góc khuôn viên [[Đại học Princeton|Viện Đại học Princeton ở tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ, một trong những cơ sở giáo dục đại học danh tiếng thế giới.]]**Giáo dục bậc cao** (tiếng Anh:
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII**, tên chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII** là Đại hội đại biểu toàn quốc
nhỏ|Dương Kỳ phương Hội - Tổ sáng lập phái Dương Kỳ.|230x230px **Dương Kì phái** (zh. _yángqí-pài_ 楊岐派, ja. _yōgi-ha_) là một trong hai nhánh chính của tông Lâm Tế, thuộc Ngũ gia thất tông, do
Một tòa nhà của Viện Đại học Huế (nay là [[Đại học Huế), ở số 3 đường Lê Lợi, thành phố Huế. Vào thập niên 1920 đây là trụ sở của Viện Dân biểu Trung
**Đại học Huế** () là một trong ba hệ thống đại học vùng của Việt Nam, nằm trong nhóm đại học trọng điểm quốc gia, có trụ sở tại Huế, được đánh giá là một
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trường Đại học Y Dược** (**YDH**; ) là một trường đại học chuyên ngành y khoa tại Việt Nam, trực thuộc Đại học Huế, được xếp vào nhóm đại học trọng điểm của quốc gia
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Cao Ly Trung Huệ Vương** (Hangul: 고려 충혜왕; chữ Hán: 高麗 忠惠王; 22 tháng 2 năm 1315 – 30 tháng 1 năm 1344, trị vì 2 lần: 1330 – 1332 và 1340 – 1343) là
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Cao Ly Thái Tổ**, húy danh là **Vương Kiến** (Hangul: 왕건 (Wang Geon), chữ Hán: 王建, 31/1/877 - 4/7/943), trị vì từ năm 918 tới năm 943. Ông là vị vua đầu tiên đã thành
**Chuyết Am Đức Quang** (zh: 拙庵德光, ja: _Settan Tokkō_, 1121-1203), còn có hiệu là **Phật Chiếu**, là Thiền sư Trung Quốc đời Tống, thuộc dòng Đại Huệ, phái Dương Kỳ, Tông Lâm Tế. Sư là
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
Giáo sư **Cao Xuân Huy** (1900 - 1983) là một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, từng được gọi là "nhà đạo học" ngay từ thuở mới khoảng
**Trường Trung học phổ thông chuyên Quốc Học – Huế** (hay còn gọi là **Trường Quốc Học** hoặc **Quốc Học Huế**) là một ngôi trường nổi tiếng ở thành phố Huế, Việt Nam. Thành lập
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Phó Đại Sĩ**-**Thiện Huệ** (zh: 傅翕) (497-569) hay còn gọi là Phó Hấp hay Ngư hành đại sĩ, Phó đại sĩ, Song lâm đại sĩ, Đông dương đại sĩ, Ô thương cư sĩ. Ông là
**Trường Đại học Kinh tế** (tiếng Anh: _University of Economics, Hue University_) là trường đại học đào tạo khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại miền Trung Việt Nam, trực thuộc Đại
**Lộ Huệ Nam** (; 412 – 24 tháng 2, năm 466), thụy hiệu **Chiêu thái hậu** (昭太后), hay còn gọi là **Sùng Hiến thái hậu** (崇憲太后), là phi tần của Lưu Tống Văn Đế và
**Lâm Tế Nghĩa Huyền** (zh. _línjì yìxuán_/ _lin-chi i-hsüan_ 臨濟義玄, ja. _rinzai gigen_), ?-866/867, là một vị Thiền sư Trung Quốc, là Tổ khai dòng thiền Lâm Tế. Sư là môn đệ xuất sắc nhất
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
_ **Bích nham lục** _ (zh. _bíyánlù_ 碧巖錄, ja. _hekigan-roku_) có nguyên tên là _Phật Quả Viên Ngộ Thiền sư Bích nham lục_ (zh. 佛果圓悟禪師碧巖錄), cũng được gọi ngắn là _Bích nham tập_, được tìm
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi