✨Tông Trạch

Tông Trạch

Tông Trạch (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là Nhữ Lâm, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống, đầu Nam Tống, anh hùng dân tộc Trung Hoa.

Thiếu thời

Tông Trạch sinh ra trong một gia đình làm ruộng nghèo nàn, nhưng có truyền thống học tập ở Thạch Bản Đường – một thôn miền núi Nghĩa Ô. Phụ thân Tông Thuấn Khanh là phần tử trí thức trong thôn làng. Ông từ nhỏ đã theo anh cả Tông Ốc tham gia lao động, lúc nông nhàn được cha ông dạy cho đọc sách biết chữ.

Vào khoảng 10 tuổi, nhà Tông Trạch dời đến một nơi giao thông tiện lợi, thương mại, văn hóa phát đạt chỉ cách thị trấn chừng 3 dặm. Tại đây, ông thấy nền chính trị hủ bại của vương triều nhà Tống và nguy cơ ngoại xâm rình rập, từ đây trong lòng manh nha tư tưởng cứu nước cứu dân. Chưa đến 20 tuổi, Tông Trạch quả quyết rời nhà đi học, trải qua hơn 10 năm, học tập ở vài mươi địa phương. Ông không chỉ hết lòng cầu học, nghiên cứu điển yếu của người xưa, mà còn học lấy cái học thực tế, khảo sát xã hội, tìm hiểu dân tình, truy cầu cái đạo trị nước không nghỉ; theo đuổi quan điểm chỉnh đốn quan lại là giải quyết tình hình chính trị hủ bại; đồng thời mắt thấy nước Liêu, Tây Hạ tiến công, sinh ra mong muốn bảo vệ biên cương, vì nước ra sức. Từ đó Tông Trạch quyết tâm nghiên cứu binh thư, khổ luyện võ nghệ. Do vậy, Tông Trạch nhanh chóng trở thành một thanh niên học rộng biết nhiều, văn võ toàn tài, có lý tưởng và hoài bão.

Năm Nguyên Hữu thứ 6 (1091), nhà Tống tiến hành tỉnh thí, điện thí. Tông Trạch từ xa đến phủ Khai Phong dự tỉnh thí (do Lễ bộ tổ chức). Sau khi vượt qua tỉnh thí, bước vào điện thí, Tông Trạch không kể đến quy định về giới hạn số chữ, viết hơn vạn chữ, phơi bày tệ nạn đương thời, còn phê bình triều đình khinh suất tin lời Ngô Xử Hậu vu hãm mà biếm nhân sĩ phái cải cách là Thái Xác (1037 – 1093) đến Lĩnh Nam, cho rằng cái họa đảng phái (chữ Hán: 朋党之祸, bằng đảng chi họa) là từ việc này. Quan chủ khảo cho rằng lời của ông thẳng thắn, có ý ngỗ ngược, xếp ông vào loại "mạt khoa", cho làm "đồng tiến sĩ xuất thân" .

Khi ấy Tống Thần Tông (1048 – 1085) mất đã 6 năm, các biện pháp cải cách bị xóa bỏ, hoạt động đảng phái bị cấm ngặt, tình hình chính trị rất đen tối. Tông Trạch vào lúc đỗ tiến sĩ đã 32 tuổi, nhưng vẫn không vội làm quan, là do hoàn cảnh chính trị bấy giờ vô cùng nguy hiểm và tàn bạo.

Sự nghiệp

Làm quan vì dân

Năm Nguyên Hữu thứ 8 (1093), Tông Trạch được phái đến huyện Quán Đào, phủ Đại Danh làm huyện úy, kiêm công việc của huyện lệnh. Tông Trạch đến nhậm chức chưa đến một tháng, đã phán xét hết những vụ án cũ được tố tụng nhiều năm, bộc lộ tài năng xử lý chính vụ của mình, rất được các chức lại tín nhiệm và kính ngưỡng.

Năm Thiệu Thánh thứ 2 (1095), tri phủ Lữ Huệ Khanh lệnh cho Tông Trạch cùng đi tuần thị công trình tu sửa đê Hoàng Hà. Khi ấy Tông Trạch vừa có tang con trai cả, ông cố nén đau lòng, nhận lệnh lên đường. Lữ Huệ Khanh sau khi biết được, khen ngợi rằng: "Thật là một người vì nước quên nhà." Bấy giờ, trời rét đất cứng, Tông Trạch trong khi tuần thị phát hiện không ít dân công ngã lăn bên đường, lập tức dâng thư lên trên, kiến nghị tạm dừng công trình, đợi đến mùa xuân trời ấm lại làm tiếp. Triều đình đồng ý, mùa xuân năm sau, đê hoàn thành.

Từ năm Nguyên Phù thứ nhất (1098) đến năm Chính Hòa thứ 4 (1114), Tông Trạch làm tri huyện của 4 huyện Long Du, Cù Châu; Giao Thủy, Lai Châu; Triệu Thành, Tấn Châu; huyện Dịch, Lai Châu. Ông làm quan hơn 20 năm, luôn hết lòng hết sức, tạo phúc cho dân, nên chính tích lừng lẫy, được dân chúng yếu mến cậy nhờ. Nhưng bấy giờ gian thần nắm quyền, suốt một thời gian dài ông không được đề bạt và trọng dụng.

Lo ngại Liêu, Kim không ngừng xâm lấn, nhà Tống muốn tăng cường việc biên phòng miền bắc, hạ lệnh lấy 4 châu như Đăng Châu làm "thứ biên", cần đề bạt, tuyển chọn quan viên mẫn cán, có thành tích nhận chức thông phán. Năm Chính Hòa thứ 5 (1115), Tông Trạch thăng chức làm Đăng Châu thông phán. Ruộng đất của quan viên tông thất ở khu vực Đăng Châu có đến mấy trăm khoảnh, đều bỏ không, tô thuế phải nộp hằng năm lên hơn vạn quan tiền, đều chuyển lên người trăm họ. Sau khi nhậm chức, Tông Trạch phẫn nộ dâng thư lên triều đình, trình bày thực tình, cuối cùng trăm họ Đăng Châu không phải nộp khoản tô thuế ngoại ngạch nặng nề đó nữa.

Tông Trạch ở trong quan trường, càng ngày càng nhận rõ sự hủ bại tập đoàn thống trị vương triều nhà Tống, cảm thấy bản thân khó mà làm được gì. Năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119), nhằm phản đối Tống – Kim kết minh trên biển, Tông Trạch vin cớ mình đã 60 tuổi, xin cáo lão về quê, được ân chuẩn và ban cho hư hàm chủ quản Hồng Khánh Tự ở phủ Ứng Thiên , bèn quay về quê nhà Đông Dương, huyện Lân, Nghĩa Ô, muốn soạn sách đến cuối đời ở hang núi Lư Sơn. Sau đó có người vu cáo là miệt thị đạo giáo, ông bị phát phối, "biên quản" (nghĩa là giam lỏng) ở Trấn Giang. Trong thời gian Tông Trạch bị biên quản, phu nhân Trần thị bệnh mất.

Năm Tuyên Hòa thứ 4 (1122), Tống Huy Tông cử hành đại điển tế tự, ban hành đại xá, Tông Trạch mới được trả tự do, đầu tiên giữ chức giám sát việc thu thuế rượu ở Trấn Giang, 2 năm sau được điều đi nhậm chức Ba Châu thông phán. Bấy giờ nước Kim ở phương bắc quật khởi, Tống – Liêu - Kim chính vào lúc này đang triển khai những cuộc đấu tranh kịch liệt, một người luôn âu lo cho nước cho dân như Tông Trạch lại bị điều đi Ba Châu ở biên thùy tây nam, hoàn toàn trái với ý nguyện của ông. Tông Trạch đã làm "Cổ nam phú", "Trùng tu Anh Huệ hầu nghĩa tế miếu ký",… tả cảnh trữ tình, than khóc cho tấm lòng của mình không được ai biết đến, biểu đạt nguyện vọng thà làm "tướng quân bị chặt đầu", chứ không làm "tướng quân đầu hàng".

Trấn thủ Từ Châu

Đầu năm Tĩnh Khang thứ nhất (1126), nhờ ngự sử Trần Quá Đình tiến cử, triều đình triệu Tông Trạch lên kinh, nhậm chức Đài gián. Tông Trạch tiếp nhận chiếu thư, không kể tuổi tác đã cao, lập tức ngày đêm lên đường, sau khi đến kinh tức thì dâng lên Tống Khâm Tông "tấu đối tam sách", hết sức kháng Kim, phản đối cầu hòa, sau này còn nhiều lần dâng thư trình bày chủ trương kháng Kim.

Đại quân Kim lần thứ 2 nam hạ, Khâm Tông đưa Tông Trạch ra tiền tuyến Từ Châu nhậm chức Tri phủ. Đầu tháng 8 cùng năm, Tông Trạch đưa theo 10 binh sĩ già yếu, hăng hái lên đường nhận nhiệm vụ. Ông đến thẳng Từ Châu, ra sức phát động mọi người tu sửa tường thành, đào thông sông hộ thành, chiêu mộ sĩ tốt, tổ chức nghĩa binh, thi hành binh dân hợp nhất, tiến hành biện pháp vừa chiến đấu vừa làm ruộng, vì thế người kéo đến như mây; lại đem hết bạc trong kho, còn bỏ cả tiền lương của mình ra thu mua mấy vạn cân lương thực, chuẩn bị đầy đủ quân lương. Dưới lời kêu gọi của Tông Trạch, trăm họ tranh nhau hiến lương thực, tiền bạc, kiên trì đấu tranh chống Kim.

Tháng 10 năm đó, quân Kim vây đánh cửa ngõ của phương bắc là Chân Định, Khâm Tông không phái viện binh, chỉ trao cho Tông Trạch cái hàm rỗng Hà Bắc nghĩa binh tổng quản, mệnh cho ông đưa quân đi cứu. Sau khi hạ được Chân Định, quân Kim chia đường nam hạ, đưa hơn ngàn kỵ binh tấn công Từ Châu. Tông Trạch mặc giáp cầm qua lên thành chỉ huy chiến đấu, mệnh cho binh sĩ dùng nỏ "Thần tý" bắn xuống, sau khi thế công của quân Kim tan rã thì mở toang cửa thành, thừa thế thả quân đuổi theo, chém hơn trăm tên giặc, bắt được một lượng lớn chiến lợi phẩm. Đây là lần đầu tiên quân Kim bị đánh bại, có tác dụng to lớn cổ vũ đấu chí của quân Tống ở khu vực Hà Sóc.

Hưởng ứng Cần vương

Tháng 11 cùng năm, quân Kim chia 2 đường đông tây trước sau kéo đến Khai Phong, một lần nữa bao vây đô thành nhà Tống. Khâm Tông lấy Triệu Cấu làm Binh mã đại nguyên soái, Tông Trạch, Uông Bá Ngạn làm Phó nguyên soái, mệnh cho bọn họ đưa binh mã Hà Bác đến cần vương.

Đầu tháng 12, Triệu Cấu truyền hịch gọi các cánh quân Cần vương đến Đại Danh phủ tập họp. Sau khi tiếp được mệnh lệnh, Tông Trạch lập tức đưa 2000 binh sĩ từ Từ Châu xuất phát, đội gió đụt tuyết, đến Đại Danh đầu tiên, đề nghị Triệu Cấu nhanh chóng ra quân, nhưng Triệu Cấu không có ý ra quân, nên chỉ nghe rồi để đấy. Tông Trạch lại yêu cầu, Triệu Cấu chỉ đem một bộ phận binh mã giao cho Tông Trạch, mệnh cho ông đi trước đến Khai Đức phủ.

Tháng giêng năm Tĩnh Khang thứ 2 (1127), Tông Trạch từ Đại Danh đến Khai Đức, trên đường cùng quân Kim giao chiến 13 lượt, hễ đánh là thắng, đến đóng quân ở Khai Đức. Tháng 2, Tông Trạch tiếp tục tiến về Khai Phong, đánh tan quân Kim ngăn trở, liên tiếp hạ được Nam Hoa, Vệ Nam, Vi Thành,… cách Khai Phong không còn xa. Lúc này, Triệu Cấu lui về Đông Bình, Tế Châu, ngồi xem Tông Trạch cô quân khổ chiến. Tông Trạch tuy liên tiếp thắng lợi, nhưng binh lực có hạn, không thể phá vỡ vòng vây Khai Phong trùng trùng của quân Kim.

Bắc Tống diệt vong, ngày 1/5/1127 Triệu Cấu tại Nam Kinh, Ứng Thiên phủ lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Viêm, chính là Tống Cao Tông. Ông ta mệnh cho Tông Trạch làm Đông Kinh lưu thủ kiêm Khai Phong phủ doãn, gia chức Duyên Khang Điện học sĩ.

Cố thủ Khai Phong

Ngày 17/6 năm Kiến Viêm thứ nhất (1127), Tông Trạch đến Khai Phong, bắt đầu chỉnh đốn trật tự xã hội, an định lòng dân:

  • Bắt hết những kẻ cấu kết với quân Kim tác oai tác quái, đem ra chính pháp nhằm thanh trừng hết nội ứng của giặc;
  • Nghiêm cấm cướp bóc, trừng trị gian thương, thực hiện chính sách giới hạn giá cả;
  • Kêu gọi mọi người đào thông Biện Hà, Ngũ Trượng Hà, đem hàng hóa các nơi không ngừng chuyển đến Khai Phong, khôi phục thuế muối. Do quản lý có phương pháp, Tông Trạch rất nhanh tái hiện được cảnh tượng phồn vinh, buôn bán tấp bập, hàng hóa đầy đủ, vật giá bình ổn ở Khai Phong.

Đồng thời, Tông Trạch tăng cường công tác phòng vệ Khai Phong. Ông kêu gọi mọi người gia cố tường thành, khơi sông đào hào, chế tạo dụng cụ phòng ngự. Ông tổ chức lại quân Tống rải rác trong ngoài Khai Phong, cùng quân chính quy hiệp đồng tác chiến. Nhằm đối phó với kỵ binh Kim, ông chế tạo 1200 cỗ chiến xa "Quyết Thắng". Tông Trạch cho mở rộng phạm vi phòng ngự, lựa chọn những nới hiểm yếu, xây dựng 24 đồn lũy kiên cố, phái hàng vạn binh sĩ đến trú phòng; ven Hoàng Hà cắm trại ngang dọc liên tiếp nhau, chia binh mà giữ; nhậm lấy trách nhiệm phòng vệ suốt 72 dặm Tần Hà, Khai Phong phủ và 16 huyện thuộc Bình Than phủ, lệnh cho đào các hào rãnh sâu đến vài trượng, ngoài rãnh ngầm rắc chông, đề phòng kỵ binh Kim xung kích. Như vậy từ Khai Phong đến nam Hoàng Hà đã được xây dựng một hệ thống phòng ngự sâu rộng, đây là biện pháp phòng vệ Khai Phong mạnh nhất mà nhà Tống từng có.

Tông Trạch trị quân nghiêm minh, thể tuất tướng sĩ, đối với các lộ quân Tống đều coi như nhau, tàn binh Tống tản mác khắp vùng Hà Sóc đều nhanh chóng tụ họp về dưới quyền ông, trong đó có không ít tướng soái kiệt xuất. Nhạc Phi cũng là một trong số đó.

Đầu tháng 12 năm Kiến Viêm thứ nhất (1127), quân Kim chia 3 đường nam hạ, ý đồ trước hết đánh chiếm Khai Phong, rồi nhân đó tiêu diệt vương triều Nam Tống. Tông Trạch điều binh khiển tướng chi viện cho Trịnh Châu, Hoạt Châu nhằm chia bớt thế công của quân Kim nhắm vào Khai Phong.

Tháng giêng năm Kiến Viêm thứ 2 (1128), Niêm Hãn soái đại đội nhân mã từ Trịnh Châu tập kích Khai Phong, tiến đến cầu gỗ cách thành 7 dặm, hoàn toàn rơi vào ổ mai phục của Tông Trạch. Quân Tống xông ra, 4 mặt vây đánh, quân Kim tan rã, quân Tống thừa thắng thu phục Duyên Tân, Tạc Thành, Hà Âm,… đuổi đến Hoạt Châu, phá hủy doanh trại chứa đầy lương thảo, quân nhu của quân Kim cách thành Hoạt Châu 30 dặm về phía tây. Tháng 2, Niêm Hãn quay trở lại, Tông Trạch một lần nữa đánh bại quân Kim ở Hoạt Châu, tàn binh Kim vượt Hoàng Hà bỏ trốn. Khi Tông Trạch còn sống, người Kim không dám phát động thêm một cuộc tấn công đại quy mô vào Khai Phong nào nữa, vương triều Nam Tống được an toàn.

Chuẩn bị bắc phạt

Trong khi tổ chức bố phòng, Tông Trạch không ngừng dâng sớ xin Cao Tông hồi loan, Cao Tông chỉ hứa suông. Tháng 10 năm Kiến Viêm thứ nhất, lấy danh nghĩa tuần hành, Cao Tông từ Nam Kinh chạy đến Dương Châu.

Sau khi đánh tan quân Kim, cho rằng thời cơ bắc phạt đã đến, Tông Trạch một mặt điều binh khiển tướng, một kêu gọi hàng binh hàng tướng người Liêu trong quân Kim làm phản, kêu gọi các dân tộc bị quân Kim bắt làm nô lệ cùng hợp sức chống Kim.

Từ tháng 7 năm Kiến Viêm thứ nhất đến tháng 5 năm Kiến Viêm thứ 2, Tông Trạch liên tiếp dâng lên 24 phong "Khất hồi loan sớ", đây là "Khất hồi loan 24 sớ" nổi tiếng trong lịch sử. Vào tháng giêng, tháng 3, tháng 5, Tông Trạch 3 lần sai thuộc hạ Phạm Thế Duyên, Hô Duyên Thứ Thăng và con trai Tông Dĩnh đến Dương Châu trực tiếp tấu lên tình hình chuẩn bị và kế hoạch vượt sông vào tháng 6, xin Cao Tông chủ trì đại kế bắc phạt.

Cao Tông chẳng những cự tuyệt, mà còn đâm ra nghi ngờ Tông Trạch. Tháng 5, Cao Tông phái Thị vệ mã quân Đô chỉ huy sứ Quách Tuân làm Đông Kinh phó lưu thủ, nhằm giám sát Tông Trạch, ngăn trở kế hoạch vượt sông vào tháng 6. Tông Trạch tận mắt trông thấy công sức của mình sắp trở thành bọt nước, ưu phẫn thành tật, phát nhọt đầy lưng, bệnh tình ngày càng nguy kịch.

Ngày 12/7 năm Kiến Viêm thứ 2 (1128), Tông Trạch vào lúc lâm chung, không nói một lời về việc nhà, trong lòng không quên việc bắc phạt, hô to 3 tiếng "Vượt sông! Vượt sông! Vượt sông!" rồi trút hơi thở cuối cùng. Con trai Tông Dĩnh và ái tướng Nhạc Phi đưa linh cữu của ông về hợp táng với phu nhân Trần thị ở núi Kinh Hiện, Trấn Giang.

Tông Trạch được truy tặng làm Quan Văn điện đại học sĩ, Thông nghị đại phu, thụy hiệu là Trung Giản.

Đánh giá

Tông Trạch chưa thể đuổi được quân Kim, lấy lại đất đai đã mất, khôi phục vương triều Tống thống nhất như ước nguyện, nhưng ông đã bảo vệ thành công tiền tiêu kháng Kim là Khai Phong, đánh tan đại quân Kim xâm phạm, cứu vãn vương triều Nam Tống thêm một thời gian nữa.

Trong cuộc đấu tranh kháng Kim vệ quốc, Tông Trạch là người giương cao ngọn cờ đầu, là tấm gương sáng được mọi người noi theo. Tông Trạch tuyển quân trữ lương, chiêu mộ hào kiệt Yên, Triệu, chờ ngày vượt sông. Vậy mà chí lớn không thành, ôm hận mà chết, thật khiến cho người ta đau xót.

Phương pháp tổ chức binh dân hợp nhất và chí lớn bắc phạt của Tông Trạch được danh tướng Nhạc Phi học tập và kế tục.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Huỳnh Tông Trạch** (tiếng Anh: **Bosco Wong**, sinh ngày 13 tháng 12 năm 1980 tại Hồng Kông thuộc Anh) là một nam diễn viên kiêm ca sĩ người Hồng Kông. Anh từng là diễn viên
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Giang Trạch Dân**, Nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) từ năm 1989 đến năm 2002 và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1993 đến năm 2003
**Mao Trạch Đông** (phồn thể: 毛澤東; giản thể: 毛泽东; bính âm: _Máo Zédōng_; 26 tháng 12 năm 1893 – 9 tháng 9 năm 1976), còn được người dân Trung Quốc gọi với tên tôn kính
**Tư tưởng Mao Trạch Đông** (Trung văn phồn thể: 毛澤東思想; Trung văn giản thể: 毛泽东思想; âm Hán Việt: Mao Trạch Đông tư tưởng), hay còn gọi là **chủ nghĩa Mao** (), là kết quả của
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Tổng Bí thư Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc** (), còn được gọi là **Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc**, hiện nay là một chức danh chỉ người
**Trận Trọc Trạch** (chữ Hán: 濁澤之戰, Hán Việt: _Trọc Trạch chi chiến_), là cuộc chiến tranh giành ngôi vua ở nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, có sự tham gia của
**Hà Trạch tông** (zh. _hézé-zōng_ 荷澤宗, ja. _kataku-shū_) là một nhánh của Thiền tông Trung Quốc, bắt nguồn từ Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, một môn đệ của Lục tổ Huệ Năng. Ngược với
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
nhỏ|Chân dung Mao tại Quảng trường Thiên An Môn **Sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông** là một phần nổi bật trong quá trình lãnh đạo của Chủ tịch Mao Trạch Đông đối với Cộng
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Khuê Phong Tông Mật** (zh: 圭峰宗密, guīfēng zōngmì, ja: keihō shū-mitsu, 780-841), Thiền sư Trung Quốc thuộc phái Hà Trạch Thần Hội và cũng là tổ sư đời thứ năm của Hoa Nghiêm Tông. Trong
Chi tiết của bản gốc _Thanh minh thượng hà đồ_ của Trương Trạch Đoan, đầu thế kỷ 12 Chi tiết của _Thanh minh thượng hà đồ_, bản vẽ lại vào thế kỷ 18. **Trương Trạch
**Trạch Am Tông Bành** (zh. 澤庵宗彭, ja. _takuan sōhō_), 1573-1645, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. _nampo jōmyō_). Sư không những là một vị
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Câu Xá tông** (, nghĩa là “kho báu”) là một tông phái Phật giáo, do đại sư Thế Thân sáng lập ở Ấn Độ, về sau được sư Huyền Trang giới thiệu vào Trung Quốc
**Địch Liêu** () (? 391) là người sáng lập ra nước Ngụy vào thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian trị vì của mình, ông sử dụng tước
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy** (tên giao dịch tiếng Anh: _Shipbuilding Industry Corporation_, viết tắt là _SBIC_) là một tổng công ty chuyên về hoạt động đóng tàu do Nhà nước Việt Nam
nhỏ|Thiền sư [[Vân Môn Văn Yển, tổ sáng lập Vân Môn tông.|229x229px]] **Vân Môn tông** (zh. 雲門宗, ja. _Unmon-shū_) là một thiền phái thuộc Ngũ gia thất tông - Thiền tông Trung Quốc, do Thiền
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Tổng công ty Sông Đà - CTCP,** tiền thân là Ban Chỉ huy công trường thủy điện Thác Bà, được thành lập ngày 01/06/1961, là đơn vị xây lắp truyền thống với nhiều công trình
**Tống Tử Du** (chữ Hán: 宋子游; ?-681 TCN; trị vì: 681 TCN), tên thật là **Tử Du** (子游), là vị vua thứ 18 của nước Tống – chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
nhỏ|250x250px|Cuộc hội vấn giữa [[Đạo Tín|Tứ Tổ Đạo Tín và Thiền sư Pháp Dung tại động núi Ngưu Đầu.]]**Ngưu Đầu tông** (zh. 牛頭宗), cũng được gọi là **Ngưu Đầu Thiền** (zh. 牛頭禪), là một dòng
**Tổng Bí thư** (hay tên gọi tương đương là **Bí thư thứ nhất**) là chức vụ cao nhất trong Đảng Cộng sản (nếu như chức Chủ tịch đảng không còn nữa) tại một số quốc
**Thiền Bắc Tông** (zh: 北宗禪), cũng được gọi là **Bắc Thiền** hay **Bắc Tông**, là một phái Thiền do Thiền sư Ngọc Tuyền Thần Tú sáng lập - chủ trương tiệm tu, tiệm ngộ -
**Tống Từ** (tiếng Trung: 宋慈) (1186-1249), tự **Huệ Phủ**, người huyện Kiến Dương, tỉnh Phúc Kiến thời Tống. Ông là nhà pháp y học trứ danh đời cổ xưa của Trung Quốc và cũng là
**Phạm Thái** (chữ Hán: 范泰, 355 – 428), tên tự là **Bá Luân**, người huyện Sơn Âm, quận Thuận Dương , là học giả, quan viên cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lưu Tống trong
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
**Hoàn Trạch** (chữ Hán: 完泽, 1246 – 1303), người thị tộc Thổ Biệt Yến (Tǔbiéyān), bộ tộc Khắc Liệt (Keraites), dân tộc Mông Cổ, thừa tướng nhà Nguyên. ## Thân thế Ông nội là Thổ
**Lưu Trạch Thanh** (chữ Hán: 劉澤清, ? – 1645 hoặc 1649), tự Hạc Châu, người Tào Châu (nay là huyện Tào, Sơn Đông) tướng lĩnh nhà Minh, trấn thủ Lư Châu (nay là Hợp Phì,
**Trương Ngạn Trạch** (? - 27 tháng 1, 947) là một vị tướng thời kì Ngũ Đại Thập Quốc phục vụ dưới triều Hậu Đường và Hậu Tấn và Nhà Liêu. Ông bị các sử
Cổng làng Mộ Trạch trong một ngày khai hội Làng **Mộ Trạch** (慕澤) là một ngôi làng cổ, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Mộ Trạch nổi danh trong
**Bùi Xương Trạch** (chữ Hán: 裴昌澤; 1451 - 1529) là quan nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông là một thành viên của gia tộc họ Bùi làng Thịnh Liệt nổi tiếng ở
**Vĩnh Trạch Đông** là một xã cũ thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam. ## Địa lý Xã Vĩnh Trạch Đông nằm ở phía đông thành phố Bạc Liêu, có vị trí
**Phaolô Tiêu Trạch Giang** (, _Paul Xiao Ze-jiang_; sinh 1967) là một giám mục Công giáo người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đang giữ chức vụ Tổng giám mục chính
**Hồ Trạch Quân** (; sinh tháng 3 năm 1955) là chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bà nguyên là Tổng Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc, Tổng Thư ký Tổ chức các
**Trần Thiên Trạch** (; ? – 1379), là một tông thất hoàng gia và nhà thơ Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Trần Thiên Trạch là con trai
**Hà Trạch Thần Hội** (zh. _hézé shénhuì_ 荷澤神會, ja. _kataku jin'e_), 668-760 hoặc 670-762, là một Thiền sư Trung Quốc, môn đệ của Lục tổ Huệ Năng. Sư có công lớn trong việc thuyết phục
**Đồng Tồn Trạch** (1616-1692) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Đồng Tồn Trạch người làng Lôi Dương, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Ông nội
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Trạch Nhượng** (, ? - 14 tháng 12 năm 617) là một thủ lĩnh khởi nông dân vào thời Tùy mạt. Tin vào sấm ngôn cho thấy Lý Mật sẽ trở thành hoàng đế, ông
**Tinh trung Nhạc Phi** (tiếng Trung: 精忠岳飞; Phiên âm: _Jīng Zhōng Yuè Fēi_) là một bộ phim truyền hình thể loại dã sử cổ trang của Trung Quốc, với nội dung kể về cuộc đời
**Giang Trạch Lâm** (tiếng Trung giản thể: 江泽林, bính âm Hán ngữ: _Jiāng Zé Lín_, sinh tháng 10 năm 1959, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện