✨Quách hoàng hậu (Tống Nhân Tông)

Quách hoàng hậu (Tống Nhân Tông)

Nhân Tông Quách Hoàng hậu (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh Thanh Ngộ (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh.

Dưới thời nhà Tống, bà là Hoàng hậu đầu tiên có danh phận nguyên phối của Hoàng đế. Ngoài ra, bà cũng là vị nguyên phối Hoàng hậu đầu tiên cử hành đại hôn sau khi Hoàng đế kế vị. Tuy thân phận tôn quý, lại được Thái hậu Lưu Nga ủng hộ nhưng vì tính tình cao ngạo, hay kiểm soát Nhân Tông nên bị thất sủng, trở thành vị Phế hậu đầu tiên trong lịch sử triều Tống, sau bị Nhân Tông cho xuất gia tu hành và qua đời khi tuổi còn trẻ.

Tiểu sử

Quách Hoàng hậu nguyên quán ở huyện Kim Thành, Ứng Châu (nay là huyện Ứng, Sơn Tây), là cháu gái của Quách Sùng (郭崇), giữ chức Tiết độ sứ của Bình Lư quân. Cha bà là Quách Doãn Cung (郭允恭), vốn giữ chức Sùng nghi Phó sứ, sau được tặng làm Tiết độ sứ Trung Vũ quân, kiêm Trung thư lệnh và Thượng thư lệnh.

Năm Thiên Thánh thứ 2 (1025), Quách thị và Trương thị - cháu gái của Kỵ Vệ thượng tướng quân Trương Mỹ (張美) là cùng vào cung, tham gia dự tuyển cho ngôi vị Hoàng hậu của Tống Nhân Tông. Nhân Tông phải lòng trước sắc đẹp của Trương thị, toan lập làm Hậu thì Lưu Thái hậu cương quyết chọn Quách thị. Vì thế ngày 21 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, Quách thị sách lập Hoàng hậu, còn Trương thị chỉ được phong Tài nhân.

Bên cạnh đó, Lưu Thái hậu lại tiếp tục nhúng tay vào việc tuyển phi của Tống Nhân Tông khi đưa Vương thị, người có sắc đẹp mà Nhân Tông muốn nạp làm phi, gả cho người trong họ là Lưu Tòng Đức (劉從德). Theo như Lưu Thái hậu nói: "Trọng đức bất trọng sắc" (重德不重色), điều này khiến Nhân Tông có ý bất mãn. Quách hậu cậy Thái hậu tiến cử, sống trong cung muôn phần cao ngạo, lại nghe lời Thái hậu hay giám sát hành tung của Nhân Tông, không cho ông gần gũi các phi tần khác, Nhân Tông tức giận nhưng vẫn không dám nói gì.

Sau khi bị phế truất

Năm Minh Đạo thứ 2 (1033), tháng 3, Lưu Thái hậu giá băng, Quách hậu mất đi chỗ dựa. Tống Nhân Tông càng không đoái hoài nên bà vô cùng oán thán.

Bấy giờ hậu cung có hai vị phi tần là Thượng Mỹ nhân (尚美人) và Dương Mỹ nhân (楊美人) rất xinh đẹp, được Nhân Tông sủng ái. Quách hậu đố kị, nhiều lần đến chỗ viện sở của hai người để gây sự quát tháo. Một ngày nọ, Nhân Tông lâm hạnh Thượng thị, nhân đó Thượng thị to nhỏ hành vi của Quách hậu, đúng lúc Quách hậu vừa tới nên hai bên xảy ra tranh chấp. Quách hậu không nhịn được, bèn dùng tay hướng thẳng mặt Thượng thị mà tát, Nhân Tông thấy thế, vội vàng lao ra cứu nên nhận ngay cái tát vào cổ. Nhân Tông phẫn nộ, thượng nghị với Tể tướng Lã Di Giản (呂夷簡), thảo chiếu thư phế truất Quách hậu.

Cùng năm tháng 11, Nhân Tông ngự điện, tuyên bố Quách hậu muốn xuất gia để tu hành, nên "đặc cách" mà cải hiệu thành Tịnh phi (净妃), ban biệt hiệu Ngọc Kinh Trùng Diệu tiên sư (玉京沖妙仙師), pháp danh Thanh Ngộ (清悟), cư ngụ tại Trường Lạc cung (長樂宮). Việc xảy ra đột ngột, Gián quan Khổng Đạo Phụ (孔道輔) tấu lên:"Hậu không có lỗi, không thể phế", kết quả Khổng và các phe cánh đều bị Nhân Tông bãi quan.

Năm Cảnh Hựu nguyên niên (1034), tháng 8, Tống Nhân Tông theo ý của Dương Thái hậu, biếm Thượng Mỹ nhân lẫn Dương Mỹ nhân đều bị lần lượt bắt tu hành ở Động Chân cung (洞真宮) và hoặc an trí ở biệt trạch. Thuận theo ấy, Nhân Tông lại tuyên bố Quách Tịnh phi ra ở Dao Hoa cung (瑤華宮), phế truất phi hiệu, đổi hiệu thành Kim Đình giáo chủ (金庭教主) rồi Trùng Tĩnh nguyên sư (沖靜元師). Thân thích của Quách thị là Tiền Duy Diễn (錢惟演), giữ chức Tòng bình chương sự (從平章事) nay cũng bị biếm ra làm Tiết độ sứ Sùng Tín quân.

Về sau, Nhân Tông cảm thấy hối hận và nhớ nhung Quách thị, thường sai quan thăm hỏi, còn ban Nhạc phủ. Quách thị đối với Nhân Tông cũng ung dung hơn khi trước. Nhân Tông mật lệnh cho bà hồi cung, nhưng bà đáp:"Nếu lại lần nữa triệu kiến, chỉ có thể cho bách quan lập ban thụ sách mới được", ý nói chỉ có thể đón bà làm Hậu thì bà mới nguyện gặp mặt. Khi ấy, Nhân Tông đã sách lập Tào Hoàng hậu, nên tuyệt nhiên không thể đáp ứng chuyện này.

Năm Cảnh Hựu thứ 2 (1035), ngày 8 tháng 11 (âm lịch), Quách thị bệnh nặng, Tống Nhân Tông sai Thái y Diêm Văn Ứng (阎文应) đến xem bệnh và Quách hậu mất ngay sau đó, khi 24 tuổi. Bà mất tại Gia Khánh viện (嘉慶院). Người ta cho rằng Diêm Văn Ứng đã hạ độc Quách thị, nhưng không có chứng cứ xác thực. Sang năm (1036), Tống Nhân Tông truy điệu Quách thị, lại truy tặng cho bà ngôi vị Hoàng hậu như trước, nhưng không có thụy hiệu cũng như việc an táng trong miếu, thay vào đó Nhân Tông khởi xây dựng một biệt lăng cho bà bên trong Phúc Thiền viện (福禪院).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Mã thị** (chữ Hán: 孝慈高皇后馬氏, 18 tháng 7 năm 1332 – 23 tháng 9 năm 1382), thường gọi **Minh Thái Tổ Mã Hoàng hậu** (明太祖馬皇后) để phân biệt với vị
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Chương Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 章穆皇后; 975 - 1007), kế thất của Tống Chân Tông Triệu Hằng, nhưng lại là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của ông. ## Tiểu sử Chương Mục hoàng
**Hậu Hán Thư** () là một trong những tác phẩm lịch sử chính thức của Trung Quốc do Phạm Diệp biên soạn vào thế kỷ thứ 5, sử dụng một số cuốn sách sử và
**Quách Thánh Thông** (chữ Hán: 郭聖通; 1 - 52), còn gọi **Quang Vũ Quách hoàng hậu** (光武郭皇后) hay **Phế hậu Quách thị** (废后郭氏), kế thất nhưng là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Quang Vũ
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Cung Nhượng Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 恭讓章皇后, 20 tháng 5, 1402 - 5 tháng 12, 1443) là Hoàng hậu thứ nhất của Minh Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ - vị Hoàng đế thứ 5
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
nhỏ|phải|Quách Nữ vương **Văn Đức Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 文德郭皇后; 8 tháng 4 năm 184 – 14 tháng 3 năm 235), không rõ tên, biểu tự là **Nữ Vương** (女王), tuy là kế thất
**Thần điêu hiệp lữ** là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu, trong truyện có nhiều nhân vật mang tiểu sử
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Nguyên Huệ Tông** (chữ Hán: 元惠宗; 25 tháng 5, 1320 – 23 tháng 5, 1370), tên thật là **Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ** (妥懽貼睦爾; ), Hãn hiệu **Ô Cáp Cát Đồ hãn** (烏哈噶圖汗; ), là
**Thành Mục Hoàng hậu** (chữ Hán: 成穆皇后; 1126 - 1156), là chính thất đầu tiên của Tống Hiếu Tông Triệu Bá Tông. Bà chưa từng được làm Hoàng hậu, danh vị Hoàng hậu của bà
**Minh Quang Tông** (chữ Hán: 明光宗, 28 tháng 8, 1582 – 26 tháng 9 năm 1620), là Hoàng đế thứ 15 của triều đại Nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị Trung
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
**Quách Tùng Khiêm** (; ? – 927), nghệ danh **Quách Môn Cao** (郭門高), là tướng lĩnh nhà Hậu Đường thời Ngũ Đại trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quách Tùng Khiêm vốn là
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
[[Tập tin:五代后晋、后汉时形势图(繁).png| Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân
]] **Nhà Hậu Hán** (後漢) được thành lập năm 947. Đây
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Lý Hoằng** (chữ Hán: 李弘; 652 - 25 tháng 5, năm 675), còn gọi là **Đường Nghĩa Tông** (唐義宗), hay **Hiếu Kính Hoàng đế** (孝敬皇帝), là Hoàng thái tử thứ 2 dưới triều Đường Cao
[[Tập tin:五代后周形势图(繁).png| ]] **Nhà Hậu Chu** (後周) (951-959) là triều đại cuối cùng trong số năm triều đại, kiểm soát phần lớn miền Bắc Trung Quốc trong thời Ngũ đại Thập quốc, một thời kỳ
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Minh Nhân Tông** (chữ Hán: 明仁宗, 16 tháng 8, 1378 - 29 tháng 5, 1425), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông chỉ cai trị trong một
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Quách Tĩnh** còn gọi là **Quách Tịnh**, **Quách Tỉnh** (tiếng Trung: 郭靖, bính âm: _Guō Jìng_) là nhân vật chính trong tiểu thuyết _Anh hùng xạ điêu_ của Kim Dung. Quách Tĩnh cũng là nhân
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của