✨Nhạc Phi

Nhạc Phi

Nhạc Phi (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng quân của ông đã có 2 lần bắc phạt nước Liêu trong năm 1122, 6 lần bắc phạt nước Đại Tề (quốc gia vùng đệm giữa Tống và Kim do Kim hậu thuẫn) và nước Kim vào các năm 1134, 1135, 1136, 1137, 1140 - 1141, 1141. Tổng cộng 126 trận chiến mà ông đã đánh với quân Liêu, Đại Tề, Kim và toàn thắng. Ông là một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc, chức tước của ông trước khi bị sát hại là Đại nguyên soái.

Người Trung Hoa đời sau luôn lấy Nhạc Phi làm tấm gương, xem ông là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một bậc sĩ phu dũng liệt trung thần. Cùng với Triệu Đỉnh, Lý Cương, Hàn Thế Trung, Văn Thiên Tường, ông là 1 trong 5 vị quan trong thời Nam Tống được thờ tại Đế vương miếu (历代帝王庙) được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng được đánh giá là tài năng và tận trung nhất qua các triều đại.

Do Tần Cối ngày trước đó đã xóa bỏ mọi chiến công của Nhạc Phi, thiêu hủy mọi tài liệu về Nhạc Phi liệu. Bởi vậy, thông tin về Nhạc Phi được biết đến như ngày nay đều do con trai Nhạc Lâm và cháu nội Nhạc Kha của Nhạc Phi tìm lại và biên soạn rồi trình vua Tống Ninh Tông vào năm 1203.

Thuở ban đầu

Nhạc Phi, tên lúc nhỏ là Nhạc Ngũ Lang, tự Bằng Cử (), thuỵ hiệu Vũ Mục (), Trung Vũ (); sinh ngày 15 tháng 2 năm Qúy Mùi, tức 24 tháng 3 năm 1103 thời Tống Huy Tông, bị hại ngày 25 tháng 12 năm Nhâm Tuất tức 27 tháng 1 năm 1142 thời Tống Cao Tông, hưởng dương 39 tuổi.

Tổ tiên họ Nhạc làm nghề nông ở Sơn Đông. Tuy nhiên tổ tiên thế hệ thứ tư của ông là Nhạc Hoán (岳渙) đã từng phục vụ cho triều đình Trung Quốc như một lệnh sứ (令使) (về cơ bản là một chức quan cấp thấp). Đến đời ông kỵ của Nhạc Phi thì di dời từ Sơn Đông sang Thang Âm, Tương Châu (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Cha của Nhạc Phi là Nhạc Hòa (岳和) tính tình đôn hậu, sống tằn tiện, làm nghề nông để hay giúp đỡ người nghèo khó. Mẹ ông là Diêu thị, nổi tiếng với điển tích "Tận Trung Báo Quốc". Nhạc Phi sinh ra ở huyện Thang Âm, Tương Châu, nay là huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam vào ngày 15 tháng 2 năm Quý Mùi, tức 24 tháng 3 năm 1103 thời vua Tống Huy Tông. Theo Tống sử, ông được đặt tên là "Phi", nghĩa là bay, vì khi ông sinh ra có một con chim lớn như thiên nga đậu trên nóc nhà. Sinh chưa đầy tháng thi gặp thuỷ tai, mẹ ông là phu nhân Diêu thị ẵm ông ngồi trong cái chum lớn, lướt trên sóng to, tấp vào bờ nên khỏi chết. Khi sinh Nhạc Phi, mẹ ông đã 36, 37 tuổi.

Nhạc Phi có mấy người anh em trai không may đều chết yểu. Đây chính là cú sốc rất lớn đối với cha mẹ ông. Sau Nhạc Phi mẹ ông may mắn lại sinh thêm được Nhạc Phiên (岳翻). Cha của Nhạc Phi đã sử dụng mảnh đất của gia đình mình cho các nỗ lực nhân đạo, nhưng sau khi nó bị lũ lụt phá hủy, cậu bé Nhạc Phi buộc phải giúp cha mình làm việc trên cánh đồng để tồn tại. Nhạc Phi nhận phần lớn giáo dục từ cha mình. Nhạc Phi lúc nhỏ chuộng điều khí tiết, thâm trầm, sống điềm đạm ít nói, siêng năng làm lụng, cố gắng học hành, hay giúp đỡ bà con trong vùng, yêu thích sách về thời Xuân Thu và binh pháp của Tôn Vũ và Ngô Khởi. Ông lại có sức khoẻ, có thể dương cung nặng 300 cân, nỏ nặng 8 thạch. Ông may mắn được học võ với thiện xạ Chu Đồng, tay thương cừ khôi Tần Quảng, trở thành người sử dụng được nhiều loại binh khí. Đặc biệt tài dùng thương thuật của ông được tiếng là "Vô địch toàn huyện". Chu Đồng mất, mỗi khi đến ngày rằm và mồng một, ông đến tế mộ thầy.

Cuối thời Bắc Tống, nước Liêu (đời vua Liêu Thiên Tộ Đế) hủ bại, tộc Nữ Chân do Hoàn Nhan A Cốt Đả lãnh đạo nổi dậy chống lại nước Liêu từ năm 1114. Năm 1115, Hoàn Nhan A Cốt Đả lập ra nước Kim, tức là đất nước "vàng", liên tục đánh bại quân đội nước Liêu. Thấy Đả Thảo Cốc kỵ binh của nước Liêu vẫn hay cướp bóc Quan Nam của nhà Tống, vua Tống Huy Tông (Triệu Cát) muốn lợi dụng dịp nước Kim đang liên tục đánh phá nước Liêu, nghe Đồng Quán xúi giục, ký hết Hải thượng chi minh (liên minh trên biển) với nước Kim vào năm 1118 , cùng Kim đánh Liêu để trả thù mối nhục Tống - Liêu.

Từ nhỏ Nhạc Phi đã có lòng yêu nước thương dân, luôn nghĩ đến việc báo quốc nên lập chí tòng quân. Cùng năm 1118, Nhạc Phi lúc đó 15 tuổi thì cưới vợ họ Lưu (còn gọi là Lưu thị). Sang năm sau 1119, Lưu thị sinh cho Nhạc Phi đứa con trai đầu lòng, được Nhạc Phi đặt tên là Ở Trung Quốc thời phong kiến, luật pháp yêu cầu một người phải tạm thời nghỉ việc khi cha mẹ họ qua đời để họ có thể theo dõi thời gian để tang theo phong tục. Nhạc Phi sẽ phải để tang cái chết của cha mình trong ba năm (36 tháng). Trong thời gian này, ông sẽ mặc áo tang thô, đội mũ lưỡi trai và đi dép lê, đồng thời kiêng mặc quần áo bằng lụa.

Vua Tống Huy Tông cuối cùng phải thỉnh quân Kim đánh hạ Nam Kinh (Yên Kinh) của Liêu. Quân Kim thuận lợi hạ được cả Đông Kinh, Thượng Kinh, Trung Kinh, Tây Kinh và Nam Kinh (Yên Kinh) của nước Liêu. Nước Kim mới giao trả 6 châu (Cảnh, Đàn, Dịch, Trác, Kế, Thuận) cùng Nam Kinh (Yên Kinh) cho nhà Tống nhưng để lại 1 tòa thành rỗng. Sự sụp đổ chóng vánh của nước Liêu dẫn đến nhiều hơn các cuộc đàm phán giữa hai phe Tống và Kim.

Cuối mùa xuân năm 1125, sau 27 tháng chịu tang cha tại quê nhà, Nhạc Phi 22 tuổi quay lại tòng quân trong quân đội của Lưu Cáp để tiếp tục phụng sự đất nước. Vương Quý và Từ Khánh vẫn chung một đội với ông.

Thừa thế diệt Liêu, cộng thêm sự biến Bình Châu của Trương Giác vào năm 1123 khiến các hàng tướng của nước Liêu đều hàng nước Kim, tháng 11 năm 1125 vua Kim Thái Tông phái quân do Tà Dã, Niêm Hãn, Hoàn Nhan Tông Vọng và Ngột Truật chỉ huy rầm rộ xâm lăng nhà Tống. Không phải đối mặt với cánh rừng phòng thủ biên giới Tống - Liêu (đã bị quân Tống phá bỏ vào năm 1122), quân Kim hành quân nhanh chóng qua đồng bằng Hoa Bắc nhà Tống. Quân Kim học hỏi cả Liêu và Tống rất nhanh nên xâm chiếm Trung Nguyên rất nhanh. Lãnh thổ phía bắc nhà Tống bị quân Kim chiếm lĩnh trong vòng chốc lát, chỉ còn hai thành Thái Nguyên và Đại Đồng là ngoan cường chống trả.

Sau khi tái nhập ngũ, Nhạc Phi đã chiến đấu để trấn áp các cuộc nổi loạn của các lãnh chúa địa phương đang cướp bóc ở miền bắc nhà Tống. Các cuộc nổi dậy địa phương đã chuyển các nguồn lực cần thiết ra khỏi cuộc chiến của nhà Tống chống lại nước Kim.

Lưu Cáp cùng Nhạc Phi, Vương Quý, Từ Khánh dẫn quân Tống từ Tuyên Định ra nghênh chiến với một cánh quân Kim đang muốn vượt sông Hoàng Hà áp sát Biện Kinh. Cánh quân Kim này bị đánh bại nên rút lui. Lưu Cáp chia quân cho Nhạc Phi, Vương Quý và Từ Khánh đến chi viện cho kinh đô Biện Kinh, còn bản thân Lưu Cáp dẫn toán quân Tống còn lại đi truy kích cánh quân Kim đã bị đánh lui kia. Không may Lưu Cáp bị trúng mai phục của quân Kim và bị đánh bại. Sau đó không rõ tung tích của Lưu Cáp. Khi đó Nhạc Phi, Vương Quý và Từ Khánh đã dẫn toán quân Tống vào trong thành Biện Kinh.

Làm hộ vệ cho Triệu Cấu và gia nhập quân Cần vương của Triệu Cấu

thumb|Bản đồ mô tả nước Kim xâm lược nhà Tống lần thứ nhất (1125 – 1126) Tháng 1 năm 1126 vua Tống Huy Tông (Triệu Cát) phải nhường ngôi cho Triệu Hoàn lên làm vua nhà Tống, tức là vua Tống Khâm Tông, rồi Thượng hoàng Tống Huy Tông nhanh chân chạy về Nam. Gian thần Đồng Quán chống lệnh vua Tống Khâm Tông, không ở lại giữ Biện Kinh mà chạy theo Thượng hoàng Tống Huy Tông, còn dùng cung nỏ bắt chết tướng sĩ ngăn cản Thượng hoàng Tống Huy Tông về nam. Vua Tống Khâm Tông giận giữ, sai người bắt giam và xử chết Đồng Quán. Thượng hoàng Tống Huy Tông chạy đến Kiến Khang (nay là Nam Kinh).

Quân Kim vượt sông Hoàng Hà, áp sát kinh đô Biện Kinh nhà Tống, đòi nhà Tống chịu nhận làm chư hầu của nước Kim, thần phục nhà Kim; giao nộp Tể tướng phế truất và một hoàng thân nhà Tống làm tù binh; nhượng hết các châu quận Hà Gian, Thái Nguyên, Trung Sơn; và bồi thường 50 triệu lượng bạc, 5 triệu lượng vàng, 1 triệu tấm lụa, 1 triệu tấm sa tanh, 10.000 ngựa, 10.000 gia súc, 1.000 lạc đà cho nước Kim. Khoản phí kể trên có giá trị bằng khoảng 180 năm nhà Tống cống nạp cho nước Kim từ năm 1123.

Khi triển vọng về một lực lượng viện binh cứu trợ đã cạn kiệt, đấu đá nội bộ bắt đầu nổ ra trong triều đình nhà Tống giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa. Những người thuộc phe chủ chiến như Lý Cương tập trung vào ý tưởng bám trụ tại các vị trí phòng thủ cho tới khi quân tiếp viện đến và nguồn cung của người Kim dần cạn kiệt. Tuy nhiên quân Tống do Diêu Bình Trọng chỉ huy sau đó bại trận khi tập kích doanh trại quân Kim. Đợt tấn công thất bại buộc vua Tống Khâm Tông phải đáp ứng các yêu cầu của quân Kim, giới quan lại trong triều cũng thuyết phục vua Tống Khâm Tông tiến hành thỏa thuận với người Kim. Khi đó Tần Cối thuộc phe chủ chiến, đề xuất bốn điều với vua Tống Khâm Tông, đại ý nói rằng không nên nhân nhượng với người Kim. Triều đình nhà Tống không trả lời Tần Cối, rồi lệnh Tần Cối cùng Trương Bang Xương thi hành việc cắt đất 3 châu quận Hà Gian, Thái Nguyên, Trung Sơn. Tần Cối cho rằng việc đó mâu thuẫn với kiến nghị ban đầu của mình, nên không muốn làm. Rồi vua Tống Khâm Tông cử Trương Bang Xương cùng Khang vương Triệu Cấu sang doanh trại quân Kim làm con tin và qua đời ở Đàm Châu (giữa đường đi lưu đày Lĩnh Nam) không lâu sau đó. Lục tặc nhà Bắc Tống cuối cùng cũng diệt xong. Hòa đàm thành công, người Kim dẫn Túc vương Triệu Xu của nhà Tống về phương bắc và giải vây Biện Kinh vào tháng 3 năm 1126, cho Tần Cối về Biện Kinh.

Tháng 4 năm 1126, Thượng hoàng Tống Huy Tông nghe tin chiến sự đã yên thì từ Kiến Khang quay về Biện Kinh. Vua Kim Thái Tông lúc này yêu cầu nhà Tống cắt đất Thái Nguyên và gửi con tin qua Thượng Kinh (nay thuộc Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang), cộng thêm khoản chiến phí và tiền cống nộp. Vua Tống Khâm Tông bất chấp lời can gián, vẫn đáp ứng người Kim, cử Khang vương Triệu Cấu đi sứ nước Kim, còn có Nhạc Phi đi theo làm hộ vệ.

Ngột Truật thấy Triệu Cấu thì kính nể, nhưng vua Kim Thái Tông thì lo sợ, bởi Triệu Cấu hùng tâm tráng chí, khẩu khí hơn người, vua Kim Thái Tông lo sợ sau này sẽ thành đại hoạ, do đó mà có ý định giết đi. Chuyện vỡ lở, Triệu Cấu cùng Nhạc Phi và tuỳ tùng chạy về biên giới đất Tống.

Gần như ngay sau đó, vua Tống Khâm Tông bội ước và điều động hai đội quân Tống đẩy lùi người Kim đang tấn công Thái Nguyên, đồng thời củng cố phòng thủ ở Trung Sơn và Hà Gian. Một binh đoàn với 9 vạn binh sĩ Tống và một binh đoàn khác với 6 vạn binh sĩ Tống đều bị quân Kim đánh bại vào tháng 6 năm 1126. Lên án nhà Tống vi phạm hiệp định và nhận thấy sự yếu kém của nhà Tống, tháng 10 năm 1126, lấy cớ nhà Tống muốn khôi phục Khiết Đan, vua Kim Thái Tông lệnh do Niêm Hãn, Hoàn Nhan Tông Vọng và Ngột Truật chỉ huy quân Kim lại rầm rộ tiến đánh nhà Tống, tàn hại dân chúng nhà Tống khắp nơi. Tháng 9 năm 1126, Thái Nguyên thất thủ trước quân Kim. Khi triều đình nhà Tống nhận tin Thái Nguyên thất thủ, các quan chức phe chủ chiến lại không được tin tưởng mà bị thay thế bằng những quan lại phe chủ hòa.

Vua Tống Khâm Tông kêu gọi các nơi ra sức kháng Kim. Khi đó Trương Thúc Dạ nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của vua Tống Khâm Tông, dẫn quân đánh lui vài cánh quân Kim rồi tiến về chi viện cho Biện Kinh. Tháng 10 âm lịch năm 1126 quân Kim chuẩn vượt sông Hoàng Hà đến đánh Biện Kinh. Vua Tống Khâm Tông kinh hãi, sai sứ đồng ý cắt thêm đất cho quân Kim. Hoàn Nhan Tông Vọng và Niêm Hãn đòi Khang vương Triệu Cấu sang làm con tin. Vua Tống Khâm Tông theo lời Vương Vân, cử Khang vương Triệu Cấu đi sứ đến trại quân Kim, hứa cắt đất, dâng tôn hiệu cho vua Kim có 18 chữ, gọi vua Kim là bác, vua Tống xưng cháu. Nhạc Phi tiếp tục đi theo hộ vệ cho Triệu Cấu. Đến Từ châu thì Triệu Cấu và Nhạc Phi gặp Tông Trạch. Tông Trạch khuyên Triệu Cấu hãy ở lại Từ châu vì Triệu Xu một đi không trở lại. Triệu Cấu nghe theo Tông Trạch. Sau đó Uông Bá Ngạn mời Khang vương Triệu Cấu đến Tương châu (nay thuộc Hà Nam, vùng quê của Nhạc Phi). Triệu Cấu nghe theo rồi cùng Nhạc Phi lưu lại ở đó. Khang vương Triệu Cấu xây dựng phủ đại nguyên soái ở Tương Châu và thành lập đội quân Cần vương chống Kim. Nhạc Phi cùng Vương Quý, Từ Khánh cũng tham gia vào đội quân Cần vương này của Khang vương Triệu Cấu.

Không lâu sau, Nhạc Phi xin về quê Thang Âm thuộc Tương châu để thăm mẹ già Diêu thị. Khang vương Triệu Cấu đồng ý.

Sự kiện Tĩnh Khang năm 1127

thumb|Bản đồ mô tả việc nước Kim diệt nước Liêu năm 1125 và diệt Bắc Tống năm 1127. thumb|Nhạc mẫu Diêu Thị khắc chữ Tận trung báo quốc lên lưng Nhạc Phi. Lúc này Nhạc Phi ở quê nhà tận mắt nhìn thấy nỗi thống khổ của người dân nhà Tống trước sự tàn bạo của quân Kim thì hết sức giận dữ. Tuy nhiên Nhạc Phi bị giằng xé giữa đi chiến đấu vì đất nước hay ở lại chăm sóc mẹ già Diêu thị. Diêu thị đã động viên ông hãy trân quý vinh dự được bảo vệ đất nước. Lúc này Lưu thị sinh cho ông đứa con trai thứ hai, được ông đặt tên là Nhạc Lôi. Bắc Tống kể như diệt vong. Quân Kim tha hồ cướp bóc, hãm hiếp, thảm sát khắp thành Biện Kinh. Hai vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông cùng hàng loạt hoàng tử, công chúa, hoàng hậu, thái hậu (trong đó có Vi Thái hậu - mẹ của Khang vương Triệu Cấu và Trịnh Thái hậu), vương phi, hoàng thân nhà Tống, quan lại nhà Tống (trong đó có vợ chồng Tần Cối - Vương thị, Trương Thúc Dạ) đều bị nước Kim bắt sang Yên Kinh nước Kim Kết quả Nhạc Phi cùng Vương Quý, Từ Khánh dẫn toán quân của mình một lần nữa gia nhập quân Cần vương của Khang vương Triệu Cấu ở Tương Châu (nay thuộc Hà Nam).

Người Nữ Chân nước Kim dù đánh chiếm Biện Kinh của Bắc Tống song họ không đủ nguồn lực để quản lý các lãnh thổ mới giành được. Thay vì trực tiếp sáp nhập, họ thành lập nên Đại Sở làm quốc gia vùng đệm, và lập cựu tể tướng Trương Bang Xương của Bắc Tống làm hoàng đế của Đại Sở vào tháng 3 âm lịch cùng năm 1127 (tức tháng 4 năm 1127). Kiến Khang, tức Nam Kinh ngày nay, trở thành kinh đô của Đại Sở.

Dưới quyền Trương Tuấn (Trương Bá Anh), Tông Trạch và Trương Sở

Khang vương Triệu Cấu nhờ Lã Hảo Vấn giúp đỡ từ bên trong Đại Sở, chấm dứt chính quyền Đại Sở của Hoàng đế Trương Bang Xương (do người Kim lập). Trương Bang Xương quy phục Khang vương Triệu Cấu. Khang vương Triệu Cấu lên ngôi vua ở Ứng Thiên phủ (nay là Thương Khâu) vào tháng 6 cùng năm 1127, tức là vua Tống Cao Tông.

Trương Tuấn (Trương Bá Anh) được vua Tống Cao Tông phong làm Ngự tiền doanh đô thống chế. Khi đó Nhạc Phi đứng dưới quyền quản lý của Tuấn. Dưới quyền Nhạc Phi khi đó có Vương Quý, Từ Khánh và Trương Hiến, dần dần hình thành nên Nhạc gia quân - quân đội riêng của Nhạc Phi.

Lúc này do gia cảnh của gia quyến Nhạc Phi nghèo khó, Nhạc Phi lại suốt ngày vắng nhà. Cuộc sống càng khó khăn cùng quẫn, vợ Nhạc Phi là Lưu thị không chịu được đã cải giá theo người khác đại thắng quân Kim một trận lớn.

Tháng 1 năm 1128, Niêm Hãn soái đại đội nhân mã nước Kim từ Trịnh Châu tập kích Biện Kinh, tiến đến cầu gỗ cách thành 7 dặm, hoàn toàn rơi vào ổ mai phục của Tông Trạch và Nhạc Phi. Quân Tống của Tông Trạch và Nhạc Phi, Vương Quý, Từ Khánh và Trương Hiến xông ra, 4 mặt vây đánh, quân Kim tan rã, quân Tống thừa thắng thu phục Duyên Tân, Tạc Thành, Hà Âm,… đuổi đến Hoạt Châu, phá hủy doanh trại chứa đầy lương thảo, quân nhu của quân Kim cách thành Hoạt Châu 30 dặm về phía tây.

Tháng 2 năm 1128, Niêm Hãn dẫn quân Kim quay trở lại tấn công dữ dội vào phòng tuyến của Tông Trạch, đảo ngược tình thế và lại đánh chiếm Hoạt Châu của nhà Tống. Tông Trạch phái Vương Tuyên, Nhạc Phi, Vương Quý, Từ Khánh và Trương Hiến đem quân đánh bại Niêm Hãn và đuổi quân của Niêm Hãn ra khỏi Hoạt Châu. Tàn binh Kim của Niêm Hãn phải vượt Hoàng Hà bỏ trốn về bắc.

Tháng 7 năm 1128, Tông Trạch sau nhiều lần xin vua Tống Cao Tông bắc phạt không thành thì qua đời. Con trai Tông Trạch là Tông Dĩnh cùng Nhạc Phi đưa linh cữu của Tông Trạch về hợp táng với phu nhân Trần thị ở núi Kinh Hiện, Trấn Giang. Phương pháp tổ chức binh dân hợp nhất và chí lớn bắc phạt của Tông Trạch được Nhạc Phi học tập và kế tục.

Dưới quyền Đỗ Sung anh dũng chống Kim

Đỗ Sung lên thay chức Lưu thú của Tông Trạch, trấn giữ Biện Kinh. Nhạc Phi, Vương Quý, Từ Khánh và Trương Hiến phụng sự dưới trướng của Đỗ Sung. Người Kim được tin bèn chuẩn bị kéo đến, đưa binh từ Thiểm Tây hợp với đại quân cùng đánh mạnh về phía nam. Nhạc Phi thường xuyên đánh nhau với quân Kim, thường thắng, dần dần được thăng đến chức Vũ đức đại phu, làm chế sứ ở Anh Chân.

Ngột Truật biết Đỗ Sung bất tài nên lại dẫn 10 vạn quân "Thiết Phù Đồ" (铁浮屠) nước Kim (toàn quân bọc giáp, chiến mã cũng bọc giáp) nam hạ đánh Tống. Nhạc Phi xin Đỗ Sung cho xuất quân tiếp chiến quân Kim. Đỗ Sung không thích Nhạc Phi nhưng thấy Nhạc Phi rất hăng hái muốn chiến đấu nhưng vẫn cho Nhạc Phi xuất quân, nhưng chỉ cho Nhạc Phi dẫn 800 quân đi chống lại 10 vạn quân "Thiết Phù Đồ" nước Kim của Ngột Truật. Mặt khác Đỗ Sung cho quân chuẩn bị phá đê Hoàng Hà để nhấn chìm quân Kim và quân đội của Nhạc Phi. Trận đánh diễn ra. Nhạc Phi cho quân đội chia nhau đánh tiêu hao sức lực của quân Kim. Vì toàn quân "Thiết Phù Đồ" nước Kim bọc giáp, chiến mã cũng bọc giáp nhưng không bọc giáp 4 chân của chiến mã, Nhạc Phi lệnh cho Nhạc gia quân của mình tiến hành chém vào chân của chiến mã nước Kim, khiến đại quân "Thiết Phù Đồ" nước Kim ai nấy đều bị ngã ngựa và bị quân của Nhạc Phi giết chết trong lúc hỗn loạn. Khi hai bên đang đánh nhau còn chưa phân thắng bại thì Đỗ Sung đã cho phá đê Hoàng Hà làm nước nhấn chìm quân đội Nhạc Phi và quân "Thiết Phù Đồ" của Ngột Truật. Nước cuốn trôi nhà cửa của rất nhiều dân chúng Tống - Kim hai bờ nam bắc Hoàng Hà. Ngột Truật thoát được về bắc với vài trăm tên lính Kim. Còn Nhạc Phi cùng vài thân tín phải trốn lên 1 ngọn núi, đợi đến khi nước sông rút bớt thì mới về nam hội với Đỗ Sung. Trận này được cũng coi là một trận đại thắng của Nhạc Phi khi lấy ít thắng nhiều.

Lúc này Nhạc Phi quay về quê Thang Âm, Hà Nam của ông để thăm gia đình. Sau đó Nhạc Phi lấy người vợ họ Lý hơn ông hai, ba tuổi (gọi là Lý thị). Đây chính là mẫu mẹ hiền vợ đảm điển hình. Lý thị rất hiếu thuận với mẹ chồng Diêu thị, yêu thương Nhạc Vân 10 tuổi, Nhạc Lôi 3 tuổi - con riêng của Nhạc Phi nhất mực. Lý thị đã trở thành hậu phương vững chắc, giúp Nhạc Phi giảm bớt lo âu và vững tâm nơi chiến trường.. Tháng 4 năm 1129, các tướng cầm quân ở ngoài gồm Lã Di Hạo, Trương Tuấn (Trương Bá Anh), Hàn Thế Trung, Trương Tuấn (Trương Đức Viễn)... hợp binh tiến vào Hàng Châu. Miêu Phó thấy tình hình nguy cấp quá, lại nghe theo Chu Thắng Phi, quyết định nhận tội và lập lại vua Tống Cao Tông quay lại ngai vàng, phế hoàng đế Triệu Phu xuống làm Thái tử. Không lâu sau, Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn đều bị tiêu diệt. Cuộc chính biến này đã ảnh hưởng đến thái độ của vua Tống Cao Tông trong việc đối nội, khiến vua Tống Cao Tông không còn tin tưởng vào các tướng nữa, đặc biệt là ảnh hưởng rất lớn đến kết cục sau này của Nhạc Phi.

Tháng 5 năm 1129, vua Tống Cao Tông chạy đến Kiến Khang (nay là Nam Kinh) và đổi tên Hàng Châu thành Lâm An phủ. Tháng 6 năm 1129, Lưu thú Đỗ Sung cùng Vương Tiếp dẫn quân về nam. Một mình Nhạc Phi lãnh quân bản độ cùng các tướng dưới quyền là Vương Quý, Từ Khánh và Trương Hiến đi đóng ở vùng Quảng Đức. Gia quyến của Nhạc Phi gồm mẹ là Diêu thị, vợ là Lý thị, hai con trai là Nhạc Vân và Nhạc Lôi, em trai là Nhạc Phiên cũng phải di dời từ Thang Âm, Hà Nam xuống Quảng Đức. Việc Đỗ Sung bỏ Biện Kinh về nam khiến Kiến Khang phải đối mặt với nguy cơ bị quân Kim tấn công trực diện.

Mùa thu năm 1129, Ngột Truật dẫn quân "Thiết Phù Đồ" nước Kim đánh mạnh vào Sơn Đông nhà Tống, chuẩn bị vào vùng Giang, Chiết. Vua Tống Cao Tông thấy thế sợ hãi, lại từ Kiến Khang chạy về Lâm An vào tháng 9 năm 1129, để lại Kiến Khang (Kim Lăng, nay là Nam Kinh) cho Đỗ Sung và Vương Tiếp tiếp quản.

Tháng 10 năm 1129, Ngột Truật dẫn quân Kim nam hạ đánh nhà Tống, đánh chiếm nhiều vùng phía bắc sông Hoài. Đỗ Sung ở Giang Hoài vẫn đóng cửa thành Kiến Khang không thèm đem quân đến cứu các quận, các tuyến phòng thủ của nhà Tống liên tục bị tan vỡ trức sức mạnh của người Kim. Nhạc Phi đến Kiến Khang khuyên Đỗ Sung nên coi việc quân. Đỗ Sung nhất định không nghe. Lúc này tại căn cứ Quảng Đức của Nhạc gia quân, người vợ Lý thị sinh cho Nhạc Phi một đứa con gái (dân gian gọi là Nhạc thị).

Mãi cho đến khi quân Kim của Ngột Truật vượt sông Trường Giang, tiến sát Kiến Khang thì Đỗ Sung mới nhận ra tình huống đã nguy cấp. Quân Kim từ bến đò Mã gia vượt qua sông. Đỗ Sung mới sai Nhạc Phi ra chống quân Kim. Nhạc Phi ra sức chiến đấu nhưng không thắng nổi. Các tướng Tống đều bỏ chạy, Đỗ Sung lại hàng quân Kim. Vương Tiếp dẫn tàn quân Tống không hàng Kim như Đỗ Sung nhưng lại đi cướp bóc của dân chúng rồi tháo chạy. Các tướng Tống giữ thành Kiến Khang là bọn Trần Bang Quang và Lý Chuyết mở cửa thành cho quân Kim tiến vào. Quân Kim của Ngột Truật ùn ùn kéo vào Kiến Khang. Kiến Khang rơi vào tay người Kim trong tháng 1 năm 1130. Vua Tống Cao Tông phải bỏ Lâm An, lên thuyền chạy ra Minh Châu (nay là Ninh Ba). Quân Kim nghe tin triều đình nhà Tống đã bỏ Lâm An thì lập tức lên thuyền đi từ Giang Âm đến khu vực Thượng Hải ngày nay.

Nhạc Phi cùng Nhạc gia quân khi đó vẫn ra sức chiến đấu với quân Kim. Cuối cùng căn cứ Quảng Đức của Nhạc gia quân cũng bị quân Kim đánh chiếm. Nhạc Phi phải cho rút quân về phía tây nam. Gia quyến của Nhạc Phi gồm mẹ là Diêu thị, vợ là Lý thị, hai con trai là Nhạc Vân, Nhạc Lôi và con gái Nhạc thị, em trai là Nhạc Phiên cũng phải di tản theo Nhạc gia quân.

Đại thắng quân Kim, tái chiếm Kiến Khang

Sau khi không tìm được vua Tống Cao Tông ở ngoài biển, Ngột Truật tiến quân về lại Lâm An. Nhạc Phi dẫn Vương Quý, Từ Khánh, Trương Hiến chặn đánh quân Kim của Ngột Truật ở Quảng Đức, 6 lần đánh, 6 lần thắng, bắt được tướng Kim là Vương Quyền, chém hơn 40 thủ cấp quân Kim. Nhân ban đêm, Nhạc Phi nổi lửa đánh tràn phá tan quân Kim. Quân Kim tranh nhau đầu hàng Nhạc Phi.

Cùng năm 1130, con trai trưởng của Nhạc Phi là Nhạc Vân (năm đó mới 11 tuổi) gia nhập vào đội ngũ của Trương Hiến để cùng cha đi xông pha chiến trận.

Ngột Truật lại dẫn quân Kim đánh Thường Châu (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay) nhà Tống. Nhạc Phi quan tâm đến binh sĩ nhà Tống và đích thân thăm hỏi khi họ ốm đau. Ông sẵn lòng giúp đỡ các gia đình người Tống có binh sĩ nhà Tống tử trận. Nhưng ông cũng là người nghiêm khắc với quân lính nhà Tống. Quân đội của Nhạc Phi khi đó đang thiếu thốn lương thực, bị đói khổ nhưng vẫn giữ kỷ luật nghiêm minh. Nhạc Phi nêu khẩu hiệu: "Thà chết đói cũng không đi cướp lương thực của dân."

Nhạc gia quân của Nhạc Phi hành quân qua các làng mạc thì không cướp bóc của dân, tiếng lành đồn khắp nơi. Quan huyện nhà Tống ở Nghi Hưng cho Nhạc gia quân của ông lương thực và cho Nhạc gia quân đóng quân để chống Kim. Gia quyến của ông cũng đến Nghi Hưng. Vương Tiếp sau đó dẫn tàn quân Tống gia nhập dưới trướng của Nhạc Phi. Tuy nhiên Vương Tiếp muốn làm binh biến giết Nhạc Phi làm quà tặng cho người Kim. Hắn ta dẫn thân tín nổi loạn chống đối Nhạc Phi. Nhạc Phi chỉ huy quân đội đánh bại và giết chết Vương Tiếp.

thumb|Nước Kim xâm lược nhà Tống (1126 – 1130) Tháng 7 năm 1130, Nhạc Phi được vua Tống Cao Tông sai người đem thánh chỉ đến phong chức Thông Thái trấn phủ sứ, kiêm tri Thái châu. Vương Quý giữ chức Thông Thái trấn phủ ti thống chế, dưới trướng trấn phủ sứ Nhạc Phi.

Sau đó Nhạc Phi tiến quân đến Thường Châu (thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay), đánh với quân Kim của Ngột Truật bốn trận, quân Kim thua trận. Nhạc Phi tiếp tục truy kích, giành thêm chiến thắng ở trấn Giang Đông, Thanh Thủy. Ngột Truật nhanh chân cho quân chạy về Kiến Khang (nay là thành phố Nam Kinh), Nhạc Phi cho quân phục kích tại núi Ngưu Đầu đánh bại Ngột Truật. Nhân đêm tối, Nhạc Phi sai 100 người mặc áo đen, trà trộn vào doanh trại của quân Kim để quấy phá. Quân Kim sợ hãi, tự chém giết lẫn nhau. Khi Ngột Truật đang đóng quân ở Long Loan. Nhạc Phi đem 300 kỵ binh, 2000 bộ binh, dong ruổi đến Tân Thành, phá tan quân Kim. Ngột Truật lại chạy về Hoài Tây, Nhạc Phi thu hồi được Kiến Khang. Ngột Truật dẫn quân Kim trở về, Nhạc Phi chặn đánh Ngột Truật ở Tỉnh An, lại phá tan quân Kim của Ngột Truật. Nhạc Phi đã bảo toàn được nửa mảnh giang sơn Giang Nam của Nam Tống. Lúc này Nhạc Phi đã có trong tay 4 vạn quân, trở thành danh tướng kháng Kim uy danh bốn phương, khi tuổi mới tròn 27. Bị Nhạc Phi chiếm mất Kiến Khang, Ngột Truật bị tuyệt đường về nước, nên quyết định hạ Sở châu để mở đường. Tướng Tống giữ thành Sở châu Triệu Lập tử chiến, quân Kim trốn thoát được về bắc.

Vua Tống Cao Tông từ ngoài biển đi thuyền quay về kinh đô Lâm An. Nhạc Phi được vua Tống Cao Tông phong làm Phòng ngự sử ở Xương Châu, kiêm chức Trấn phủ sư Thái Châu. Nhưng trung nguyên chưa khôi phục, chí nguyện của Nhạc Phi chưa được thoả.

Cũng trong tháng 8 năm 1130, Nguyên soái tả giám quân nước Kim là Thát Lại vây khốn Sở châu nhà Tống, buộc Nhạc Phi phải dẫn kỵ binh đi trước, để thống chế Vương Quý dẫn quân chủ lực từ Giang Âm qua sông. Không lâu sau, Sở châu thất thủ. Nhạc Phi và Vương Quý phải rút quân về Thái châu.

Tháng 10 năm 1130, vua Kim Thái Tông chính thức sắc phong Lưu Dự làm "Đại Tề Hoàng đế", chia Hoàng Hà phía nam thuộc quyền thống trị của Đại Tề (nhằm tạo ra một lá chắn giữa nhà Tống và nước Kim), lấy phủ Đại Danh làm kinh đô.

Lúc này tại căn cứ Nghi Hưng của Nhạc gia quân, Lý thị sinh con Nhạc Phi thêm một đứa con trai, được Nhạc Phi đặt tên là Nhạc Lâm. Tần Cối cùng vợ là Vương thị được về nước, khai với vua Tống Cao Tông rằng mình giết giám ngục rồi cướp thuyền, theo đường biển mà trở về nam. Các đại thần trong triều tỏ ý nghi hoặc, nhưng bọn Phạm Tòng Doãn, Lý Hồi ra sức biện bạch, nói Tần Cối đáng tin dùng. Vua Tống Cao Tông phong cho Tần Cối làm Lễ Bộ thượng thư.

Tháng 11 năm 1130, Thát Lại dẫn quân Kim đánh Thái châu nhà Tống. Nhạc Phi cùng Nhạc gia quân phải rút quân về bờ nam.

Dưới quyền Trương Tuấn (Trương Bá Anh) đánh dẹp Thích Phương và Lý Thành

Sau khi thu phục được Kiến Khang và cầm cự với quân Kim của Thát Lại, Nhạc Phi chuyển quân sang đánh các vùng như Giang Tây, Hồ Nam, Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) và Phúc Kiến, bình định diệt trừ các nhóm thảo khấu cũng như các cuộc khởi nghĩa nông dân, củng cố chính quyền Nam Tống. Năm 1131, Nhạc Phi dẫn Nhạc gia quân của mình đánh tan cuộc khởi nghĩa của Thích Phương. Thích Phương đến hàng Trương Tuấn (Trương Bá Anh) của nhà Tống. Vua Tống Cao Tông phong Trương Tuấn làm Giang Hoài chiêu thảo sứ, Trương Tuấn lại cho Nhạc Phi làm Phó Giang Hoài chiêu thảo sứ.

Sau đó cùng năm 1131, Mã Tiến dưới quyền nghĩa quân Lý Thành dẫn quân đánh Quân châu và Giang châu nhà Tống. Trương Tuấn (Trương Bá Anh) và Nhạc Phi được vua Tống Cao Tông cử đi tiêu diệt. Mã Tiến kéo quân hạ doanh lập trại ở Tây Sơn, thanh thế rất lớn. Trương Tuấn cho án binh bất động khoảng 10 hôm. Mã Tiến viết thư hẹn ngày giao chiến. Trương Tuấn phúc đáp nhưng không hẹn rõ ngày khai chiến. Mã Tiến tưởng Trương Tuấn sợ mình nên chẳng đề phòng. Khi đó Nhạc Phi đã đưa quân vào thành và tình nguyện làm tiên phong. Trương Tuấn bèn lệnh Dương Nghi Trung đưa quân đến Sính Mễ, Nhạc Phi nghênh địch ở phía trước. Nhạc Phi xông thẳng vào trại giặc, Mã Tiến bị bát ngờ phải chạy về Quân châu. Nhạc Phi lại đuổi theo Mã Tiến đến Đông Thành rồi dùng kế mai phục đánh bại Mã Tiến một trận nữa. Trương Tuấn và Dương Nghi Trung cũng tới tiếp ứng, Mã Tiến chạy sang Nam Đường. Lý Thành dẫn 20 vạn quân đến cứu, giao chiến với Trương Tuấn mà cũng bị thua to. Quân triều đình lấy lại Quân châu và Lâm Giang quân.

Khi đó quân của Lý Thành chiếm cứ Hạp Hà, dựa vào địa hình hiểm trở. Trương Tuấn nhân đem tối tập kích, cướp trại địch. Trương Tuấn lệnh Dương Nghi Trung vượt sông từ mặt tây, còn mình cùng Nhạc Phi từ mặt đông. Trong đêm, người ngặm tăm, ngựa tháo nhạc tất cả qua chống rồi sau một tiếng hô thì tiến vào trại địch. Trương Tuấn và Nhạc Phi giành lại Giang châu, Hưng Quốc quân và nhiều vùng khác. Trương Tuấn và Nhạc Phi lại dẫn quân vượt sông đến huyện Hoàng Mai giao chiến với Lý Thành. Nhạc Phi dựa vào điểm mạnh, điểm yếu của từng loại binh chủng mà đánh tan quân đội của Lý Thành đông gấp mấy lần Nhạc gia quân của ông. Lý Thành thua trận, vượt sông sang hàng chính quyền Đại Tề của vua Lưu Dự, còn Mã Tiến bị giết.

Đánh dẹp Tào Thành, thu phục Dương Tái Hưng

Tháng 11 cùng năm 1131, triều đình nhà Tống hạ lệnh Tào Thành suất bộ tiến về Lâm An nhưbg Tào Thành không nghe lệnh. Tào Thành còn thu quân 10 vạn, ý đồ cướp phá vùng đông nam nhà Tống, còn thông đồng người Kim.

Tháng 1 năm 1132, triều đình nhà Tống phong Nhạc Phi nhậm quyền tri châu Đàm Châu, quyền Kinh Hồ Đông lộ An Phủ sứ, Mã bộ quân Đô tổng quản. Nhạc Phi đánh bại Tào Thành một trận lớn, bắt được nhiều tù binh, trong đó có phụ nữ. Tướng của Nhạc Phi là Hàn Thuận Phu mở tiệc, bỏ yên, cởi giáp, bắt phụ nữ của giặc hầu rượu. Bộ tướng của Tào Thành là Dương Tái Hưng đem người tập kích doanh trại của Nhạc Phi, chém tướng thứ năm của Nhạc Phi là Hàn Thuận Phu đứt cánh tay. Hàn Thuận Phu bị thương nặng mà chết. Sau đó, Dương Tái Hưng lại kịch chiến với Tiền quân thống chế Trương Hiến và Hậu quân thống chế Vương Kinh của Nhạc Phi, giết chết em Nhạc Phi là Nhạc Phiên (岳翻).

Tháng 4 năm 1132, Tào Thành bị Nhạc Phi đánh bại, Dương Tái Hưng bỏ chạy. Dương Tái Hưng rơi vào khe núi và bị Trương Hiến bắt sống. Trương Hiến muốn giết Dương Tái Hưng. [Dương Tái Hưng xin hàng Nhạc Phi và được thu dụng..

Nghe tin Tào Thành chạy sang Liên châu, Nhạc Phi phái Trương Hiến, Vương Quý, Từ Khánh truy kích. Trương Hiến cùng chư tướng nhận lệnh vừa tiến quân vừa chiêu hàng, được hơn 2 vạn nghĩa quân. Tào Thành lại thua chạy, có Hác Chánh chạy ra Nguyên Châu, đánh tiếng báo thù cho Tào Thành, khiến bộ hạ đều chít vải trắng, quan quân gọi là Bạch cân tặc. Trương Hiến chỉ mất 1 hồi trống là bắt được Hác Chánh. Trương Hiến lại đuổi Tào Thành đến Quảng Nam đông lộ. Nhạc Phi phái Vương Quý tiếp tục truy quét Tào Thành đến Kinh Hồ nam lộ. Quân đội của Nhạc Phi bình định vùng Lĩnh Biểu.

Lúc này người vợ Lý thị của Nhạc Phi sinh cho ông thêm một người con trai, được Nhạc Phi đặt tên là Nhạc Chấn Các quận Tuần, Mai, Quảng, Huệ, Anh, Thiều, Nam Hùng, Nam An, Kiến Xương, Đinh, Thiệu Vũ đều theo phản quân chống lại nhà Tống.

Tháng 4 năm 1133, Nhạc Phi dẫn quân tới Cát Châu, phái Vương Quý, Trương Hiến tiến binh, bắt sống bọn người Bành Hữu, Lý Mãn. Nhạc Phi thừa thắng tiến công Kiền Châu. Lợi dụng địa hình, Nhạc Phi phái quân cảm tử nhanh chóng tấn công lên đỉnh núi, khiến phản quân đại loạn bỏ đỉnh núi chạy tán loạn tứ phía. Nhạc Phi cho kỵ binh bao vây chặt bọn họ. Nhạc Phi lại chia binh tiến đánh mấy trăm tòa sơn trại của phản quân, mỗi ngày phá một trại, phản quân sợ hãi, các nơi sơn trại liên tiếp thất thủ. Nhạc Phi sau đó còn thu phục lại các quận Tuần, Mai, Quảng, Huệ, Anh, Thiều, Nam Hùng, Nam An, Kiến Xương, Đinh, Thiệu Vũ cho nhà Tống.

Khi hành quân qua chùa Tiêu ở Thanh Nê thị huyện Tân Cam (năm 1957 đổi tên là Tân Cán), nay thuộc tỉnh Giang Tây, Nhạc Phi đã viết bài thơ Đề Thanh Nê thị Tiêu tự bích lên vách chùa Tiêu có nội dung như sau:

Đề Thanh Nê thị Tiêu tự bích

"Hùng khí đường đường quán đẩu ngưu,
Thệ tương trinh tiết báo quân cừu.
Trảm trừ ngoan ác hoàn xa giá,
Bất vấn đăng đàn vạn hộ hầu!"

(Nhạc Phi)

Tạm dịch:

Đề vách chùa Tiêu ở Thanh Nê thị

"Hùng khí vút lên tận sao Ngưu sao Đẩu,
Thề đem lòng tiết nghĩa báo thù cho vua.
Giết hết bọn giặc để đưa xe vua trở về,
Không màng đăng đàn bái tướng và phong vạn hộ hầu."

(Nhạc Phi)

Triều đình nhà Tống khi đó đã suy yếu, cuộc sống dân chúng đói khổ, nước Kim thường xuyên xâm lấn, nên người dân mới nổi lên, có những người là bất đắc dĩ. Phản quân Kiền Châu bấy giờ cầu xin triều đình nhà Tống tha mạng, Nhạc Phi hạ lệnh cho Nhạc gia quân không được chém giết hàng binh, chấp nhận cho họ đầu hàng. Ban đầu Long Hựu thái hậu rất kinh sợ điều này, vua Tống Cao Tông mật lệnh cho Nhạc Phi sau khi chiếm được thành Kiền Châu thì giết hết dân chúng trong thành, thậm chí vua Tống Cao Tông còn lệnh cho Nhạc Phi giết hết những người dân trong các ngôi làng, các thị trấn từng theo phản quân để trị tội tạo phản. Theo Tống sử, Nhạc Phi xin vua Tống Cao Tông tha tội chết cho những người dân trong thành Kiền Châu, các ngôi làng, các thị trấn từng theo phản quân, chỉ hành quyết những kẻ kích động cho cuộc nổi loạn trong các nghĩa quân. Vua Tống Cao Tông không đồng ý.

Tháng 9 năm 1133, Nhạc Phi dâng biểu thỉnh công, mong triều đình thăng ba chức quan cho Vương Quý và đồng thời xin vua Tống Cao Tông tha mạng cho những người dân trong thành Kiền Châu, các ngôi làng, các thị trấn từng theo phản quân. Triều đình nhà Tống nhận thấy Vương Quý đã giữ chức Vũ Hiển đại phu, nên quan chức phải trao cho người thân. Khi đó phó tướng, Thừa tiết lang Dương Tái Hưng cũng có công bình định Cát, Kiền nên cũng được nhận chiếu thư khen thưởng của vua Tống Cao Tông. Trương Hiến đang ở chức Thần Vũ phó quân thống lĩnh quan, Vũ công lang, Các môn tuyên tán xá nhân, nhờ công lao này cũng được thăng làm Vũ lược đại phu, Cát Châu thứ sử.

Thấy vua Tống Cao Tông mặc kệ thỉnh cầu xin tha mạng cho dân chúng của Nhạc Phi, Nhạc Phi liền khẩn cầu thêm nhiều lần nữa, vua Tống Cao Tông mới đồng ý ban lệnh xá tội cho họ nhưng trong lòng bắt đầu không hài lòng về Nhạc Phi. Dân chúng trong thành Kiền Châu, các ngôi làng, các thị trấn từng theo phản quân rất cảm kích ân đức của Nhạc Phi, thậm chí họ còn vẽ chân dung Nhạc Phi để thờ cúng.

Lá cờ "Tinh trung Nhạc Phi" (精忠岳飛, nghĩa là "Sự trung thành thuần khiết của Nhạc Phi") được vua Tống Cao Tông ban tặng cho Nhạc Phi vào năm 1133. Trong suốt 8 năm chinh chiến về sau (1133 - 1141), Nhạc Phi luôn mang theo lá cờ này ra chiến trường vì vua Tống Cao Tông và nhà Nam Tống. Để khen thưởng cho chiến công của Nhạc Phi, vua Tống Cao Tông cho người thêu bốn chữ lớn trên nền lá cờ "Tinh trung Nhạc Phi" (精忠岳飛, nghĩa là "Sự trung thành thuần khiết của Nhạc Phi") để ca ngợi lòng trung thành của Nhạc Phi với Hoàng đế và với muôn dân nhà Tống. Vua Tống Cao Tông lại thăng Nhạc Phi làm Tri sứ Giang Tây.

Lúc đó Nhạc Phi đã là tướng quân của một đội quân hùng hậu nhất tại vùng trung du sông Trường Giang, nhưng Nhạc Phi vẫn chưa hài lòng. Ông không quên khôi phục Trung Nguyên, đã nhiều lần dâng sớ yêu cầu vua Tống Cao Tông cho ông dẫn quân đi bắc phạt, nhưng vua Tống Cao Tông không chấp nhận (do khi đó vua Tống Cao Tông đang đợi tin tức từ cuộc bắc phạt vào nước Kim của quân nổi dậy Lý Hoành).

Nhạc Phi sau đó làm bài từ Mãn giang hồng (滿江紅, Manjiang Hong hay Máu đầy sông), thể hiện hùng tâm diệt Kim rửa hận cho đất nước, giành lại giang sơn cho trăm họ Đại Tống:

Mãn giang hồng

"Nộ phát xung quan,
Bằng lan xứ,
Tiêu tiêu vũ yết.
Đài vọng nhãn,
Ngưỡng thiên trường khiếu,
Tráng hoài khích liệt.
Tam thập công danh trần dữ thổ,
Bát thiên lý lộ vân hoà nguyệt.
Mạc đẳng nhàn, bạch liễu thiếu niên đầu,
Không bi thiết.

Tĩnh Khang sỉ,
Do vị tuyết.
Thần tử hận,
Hà thời diệt!
Giá trường xa,
Đạp phá Hạ Lan sơn khuyết.
Tráng chí cơ xan Hồ lỗ nhục,
Tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết.
Đãi tòng đầu, thu thập cựu sơn hà,
Triều thiên khuyết."

(Nhạc Phi)

Tạm dịch:

Máu đầy sông

"Tóc dựng mái đầu,
Lan can đứng tựa,
Trận mưa vừa dứt.
Ngóng trời xa,
Uất hận kêu dài.
Hùng tâm khích liệt,
Ba mươi tuổi cát bụi công danh,
Tám ngàn dặm dầm sương dãi nguyệt.
Chớ lỏng lơi nữa kẻo bạc đầu,
Ích gì rên xiết.

Mối nhục Tĩnh Khang,
Chưa gội hết.
Hận thù này,
Bao giờ mới diệt.
Cưỡi cỗ binh xa,
Dẫm Hạ Lan nát bét.
Đói, vùng lên ăn thịt giặc Hồ,
Khát, cười chém Hung Nô uống máu.
Rồi đây dành lại cả giang san,
Về chầu cửa khuyết."

(Nhạc Phi)

upright|thumb|Hiện vật có chữ thư pháp được viết bởi chính Nhạc Phi.

Sau đó người vợ Lý thị sinh cho Nhạc Phi thêm một đứa con trai, được Nhạc Phi đặt tên là Nhạc Ai.

Nhạc Phi dẫn Nhạc gia quân bắc tiến, mạnh mẽ đánh tan Dương Ma. Quân của Nhạc Phi kế đó đánh tan quân Kim ở Tương Châu, thu phục Tương Châu, sau đó chia làm 2 đường tiến đánh phủ Tín Dương. Sau đó Nhạc Phi chia quân cho Trương Hiến và Từ Khánh tiến công Tùy Châu và cho Vương Quý tấn công Đặng Châu. Ngưu Cao theo lệnh của Nhạc Phi đi đánh phủ Tín Dương. Ngưu Cao đánh bại Lý Thành, hạ được phủ Tín Dương.

Bản thân Nhạc Phi đích thân đi đánh Dĩnh Châu. Tướng giữ thành Dĩnh Châu là "Vạn nhân địch" Kinh Siêu cố gắng chống giữ, sau đó cổng thành Dĩnh Châu bị công hạ. Nhạc Phi thúc quân vào thành. Kinh Siêu cận chiến với Nhạc Phi. Nhạc Phi sức khỏe phi thường đã giết chết Kinh Siêu. Nhạc Phi thu hồi lại Dĩnh Châu.

Khi đó cánh quân của Trương Hiến và Từ Khánh đã nhận lệnh của Nhạc Phi đi giành lại Tùy Châu nhưng đánh nhiều ngày vẫn chưa hạ được Tùy Châu. Ngưu Cao lại xin Nhạc Phi đi giúp Trương Hiến và Từ Khánh, được Nhạc Phi đồng ý. Ngưu Cao dùng kế dương đông kích tây cuối cùng hạ được Tùy Châu trong đúng 3 ngày. Tướng giữ thành Tùy Châu là Vương Tung không chiến bỏ trốn. Ngưu Cao xông vào thành Tùy Châu chiến đấu, bắt được tướng Vương Sùng của Đại Tề thì mang chém. .

Trước đó Vương Quý đã nhận lệnh Nhạc Phi đi đánh Đặng Châu nhưng bị liên quân Kim - Tề đón đánh bên ngoài Đặng Châu. Tháng 7 năm 1134, Nhạc Phi phái Trương Hiến, Vương Vạn, Đổng Tiên đi giúp Vương Quý đánh Đặng Châu. Trương Hiến, Vương Vạn, Đổng Tiên ngay sau đó cũng bị liên quân Kim - Tề ngăn lại giữa đường y như Vương Quý nên họ hội quân với Vương Quý. Nhạc Phi nghe tin thì đích thân đến Đặng Châu trợ chiến. Lý Thành ở Đặng Châu nghe nói Nhạc Phi đích thân đến đánh Đặng Châu thì âm thầm chạy trốn khỏi Đặng Châu. Tướng Kim giữ thành Đặng Châu là Lưu Hợp Bột Cận và tướng Tề giữ thành Đặng Châu là Cao Trọng bày trận ngoài thành Đặng Châu 30 dặm đợi Nhạc Phi phá trận. Nhạc Phi phái Vương Quý, Trương Hiến hỗ trợ mình tấn công vào trận pháp của liên quân Kim - Tề này, dùng cung tên và hỏa lực bắn tan nát trận pháp của kẻ địch. Lưu Hợp Bột Cận bị giết, trận pháp của liên quân Kim - Tề bị Nhạc Phi phá tan ở ngoài thành Đặng Châu 30 dặm. Cao Trọng chạy về cố thủ Đặng Châu. Nhạc gia quân do Vương Vạn và Đổng Tiên chỉ huy thừa thắng thu phục Đặng Châu. Nhạc Phi bắt sống Cao Trọng

Nhạc Phi sau đó dẫn Nhạc gia quân từ Ngạc Châu đi đánh Đường Châu, nơi do tướng Đại Tề là Tiết Hanh rất dũng mãnh trấn giữ. Thấy Tiết Hanh cậy khỏe, Ngưu Cao dùng kế mai phục ở Hà Gia trại phía bắc Đường Châu. Tiết Hanh bị Ngưu Cao dụ vào ổ mai phục đánh tan tành. Nhạc gia quân nhanh chóng chiếm Đường Châu vào tháng 8 năm 1134.

Cuối năm 1134, liên quân nước Kim và Đại Tề lại hợp quân tấn công Lư châu (nay là Hợp Phì) nhà Tống. Thấy Lư châu nguy cấp, vua Tống Cao Tông đích thân viết thánh chỉ lệnh cho Nhạc Phi dẫn quân đến cứu Lư châu. Nhạc Phi dẫn Nhạc gia quân tiến gấp về Lư châu. Ông giương lá cờ "Tinh trung Nhạc Phi" khiến tướng sĩ Nhạc gia quân ai ai cũng hăng hái giết địch, chỉ một trận đánh lớn là đã đánh tan liên quân Kim - Tề, khiến liên quân Kim - Tề phải tháo chạy về bắc. Lư châu được yên. Nhạc Phi nhân đó nêu cao khẩu hiệu "Nghênh Hồi Nhị Đế" (cứu hai vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông về) rồi dẫn Nhạc gia quân bắc phạt nước Kim, chiếm vài châu quận của nước Kim. Những chiến công này đã cổ vũ mạnh mẽ quân dân nhà Tống chống Kim, kiên định thể hiện quyết tâm thu phục Trung Nguyên của Nhạc Phi. Nhưng do ảnh hưởng của Tần Cối đứng đầu của phe chủ hòa, vua Tống Cao Tông đã cho triệu hồi Nhạc Phi về Bình Giang gặp mình, thăng chức cho Nhạc Phi làm Thanh Viễn quân Tiết độ sứ. Nhờ công hạ được 2 thành trong chiến dịch Tương Dương, Ngưu Cao được Nhạc Phi tâu lên vua Tống xin phong làm An phủ sứ 4 châu Đặng, Tương Dương, Đường, Sính; sau đó vua Tống Cao Tông lại bổ nhiệm Ngưu Cao làm Trung hộ thống lĩnh thần vũ hộ quân.

Dưới quyền Trương Tuấn (Trương Đức Viễn)

Bắc phạt Tề - Kim, đánh dẹp Dương Ma năm 1135

Năm 1135, sau khi liên tục bị quân Kim đánh bại, thủ lĩnh "Trung Nghĩa xã" (忠義社) là Lương Hưng vẫn không nguôi chí đánh Kim, liền dẫn hơn trăm người vượt Hoàng Hà đầu hàng Nhạc Phi.

Cùng năm 1135, Nhạc Phi lại nêu cao khẩu hiệu "Nghênh Hồi Nhị Đế", giương lá cờ "Tinh trung Nhạc Phi" lên rồi dẫn Nhạc gia quân bắc phạt Trung nguyên, Ngưu Cao khi đó thường cùng tác chiến dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nhạc Phi. Thấy Nhạc Phi bắc phạt, quân Kim tấn công Hoài Tây nhà Tống. Ngưu Cao theo lệnh Nhạc Phi mang quân vượt sông chống cự quân Kim, còn Nhạc Phi dẫn Nhạc gia quân đi tiếp ứng. Quân Kim bại trận rút lui khỏi Hoài Tây. Quân Đại Tề tiến đánh Lư Châu nhà Tống, nhưng thấy Ngưu Cao ra trận đều sợ hãi rút lui. Ngưu Cao truy kích quân địch trên 30 dặm, giết được khá nhiều quân Tề.

Nhạc Phi sai thủ lĩnh "Trung Nghĩa xã" (忠義社) là Lương Hưng ban bố ý của vua Tống Cao Tông, chiêu kết bọn hào kiệt ở Lưỡng hà (Hoài Hà và Hoàng Hà), các núi. Vi Thuyên, Tôn Mưu cầm quân giữ các gia trang, để chờ quân của Nhạc Phi sau này kéo đến mà tiếp ứng.

Khi ấy Dương Ma (hoặc Dương Yêu) chiếm cứ Động Đình, quan quân nhà Tống chưa dẹp được. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) cho rằng Động Đình ở thượng lưu của Kiến Khang, sợ Dương Ma thẳng tiến đến Lâm An hại vua Tống Cao Tông nên Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) xin vua đi dẹp. Vua Tống Cao Tông đồng ý, cử Nhạc Phi đi cùng Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) đánh dẹp Dương Ma.

Tháng 6 năm 1135, Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) đích thân đi đốc chiến, Nhạc Phi cùng Nhạc gia quân xuất quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Dương Ma. Dựa vào việc Dương Ma không được lòng dân, Nhạc Phi cho quân bao vây các căn cứ của Dương Ma, vừa đánh vừa chiêu hàng các tướng dưới quyền Dương Ma. Cuối cùng các tướng của Dương Ma đều quy hàng Nhạc Phi, giúp cho Nhạc Phi đánh tan các đạo thủy quân của Dương Ma. Sau đó nhờ nội gián bên trong hàng ngũ của Dương Ma, quân đội Nhạc Phi nhanh chóng đánh được vào căn cứ chính của Dương Ma. Ngưu Cao bắt sống được Dương Ma, triệt để loại bỏ mối họa bên trong cho nhà Tống. Sau khi bình định dược Dương Ma, Nhạc Phi lấy mấy vạn tráng đinh của Dương Ma thu vào Nhạc gia quân. Nhạc gia quân từ khoảng 3 vạn người phát triển tới khoảng 10 vạn người, lấy trung quân thống chế Vương Quý, tiền quân thống chế Trương Hiến, Từ Khánh, Ngưu Cao, Đổng Tiên làm trụ cột.

Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) bèn tâu xin vua Tống Cao Tông lấy Nhạc Phi đóng ở Kinh, Tương để tính Trung Nguyên, còn Trương Tuấn từ Ngạc chuyển đến Hoài Đông, đại hội chư tướng, bàn việc tổ chức phòng ngự. Vua Tống Cao Tông thuận theo. Lúc này Nhạc Phi đổi tên đứa con trai út của mình từ Nhạc Ai sang Nhạc Đình nhằm vào Hoài Dương, Lưu Quang Thế tiến đến đóng quân ở Hợp Phì, Trương Tuấn (Trương Bá Anh) tiến đến ở Hu Dị, lấy Dương Nghi Trung đi sau giúp Trương Tuấn (Trương Bá Anh); Nhạc Phi đến Tương Dương, nhòm ngó Trung Nguyên.

Việc được đóng quân ở Tương Dương để mưu việc khôi phục trung nguyên vốn là chí nguyện của Nhạc Phi. Nhạc Phi dời quân đóng ở Kinh Tây, được vua Tống Cao Tông đổi làm Vũ thắng Định quốc quân Tiết độ sứ kiêm Tuyên phủ phó sứ. Nhạc gia quân đang đồn trú tại Tương Dương, 5 vạn binh của tướng Đại Tề là bọn Tây Kinh thống chế Quách Đức, Ngụy Nhữ Bật, Thi Phú, Nhâm An Trung xâm phạm Đặng Châu, Nhạc Phi sai Trương Hiến cùng Hác Chỉnh, Dương Tái Hưng đem 1 vạn binh nghênh chiến ở Nội Hưng. Giằng co 2 ngày, Trương Hiến vờ thua, dẫn dụ quân Tề vào ổ mai phục mà đánh bại, bắt được Quách Đức, Thi Phú, giành lấy hàng trăm thớt ngựa, thu hàng cả ngàn binh sĩ. Ngụy Nhữ Bật thu tàn quân Tề chạy về Lạc Dương.

Tháng 7 năm 1136, Nhạc Phi ở Tương Dương được phong Kiểm giáo thiếu bảo, Vũ Thắng Định quốc quân Tiết Độ sứ, Hồ Bắc Kinh Tây lộ Tuyên phủ phó sứ, kiêm Doanh điền sứ suất quân bắc phạt nước Đại Tề. Dương Tái Hưng được lệnh của Nhạc Phi suất bộ binh đến Nghiệp Dương để thu phục Tây Kinh huyện Trường Thủy. Dương Tái Hưng đến Nghiệp Dương giết đô thống và thống chế của Đại Tề, giết quân Đại Tề hơn năm trăm người, bắt giữ hơn trăm người. Tàn dư Đại Tề bỏ chạy. Ngày hôm sau, Dương Tái Hưng tái chiến với quân Đại Tề do Tôn Hồng Giản chỉ huy. Dương Tái Hưng phá tan 2000 quân Đại Tề, rồi dẫn binh chiếm lại Tây Kinh huyện Trường Thủy, đoạt lương hơn hai vạn thạch cung cấp cho quân dân, tu sửa thành trì Tây Kinh. Dương Tái Hưng lại đoạt ngựa vạn thớt, mấy chục vạn cỏ khô. Trung Nguyên đều hưởng ứng Nhạc gia quân. Dương Tái Hưng tiến về phía đông đánh chiếm Thái Châu (nay là Nhữ Nam, Hà Nam) của quân Đại Tề, lại đốt lương thảo của quân Đại Tề ở đó.

Quân Tống sau đó dưới sự chủ trì của đại tướng Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) cùng các lộ quân của Nhạc Phi, vợ chồng Hàn Thế Trung - Lương Hồng Ngọc, Lưu Quang Thế, Trương Tuấn (Trương Bá Anh), Dương Nghi Trung cùng các lộ cất quân Bắc phạt vào nước Kim. Nhạc Phi xuất quân ở trấn Tương Dương, giương đông kích tây, lệnh cho thuộc tướng là Ngưu Cao giả vờ tiến quân lên phía Đông Bắc, đến Thái Châu, còn mình thì dẫn quân chủ lực tấn công phía Tây Bắc, đến Y Dương. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) vượt Trường Giang, phủ dụ khắp các đòn thú ở thượng du sông Hoài. Khi Trương Tuấn (Trương Bá Anh) đến Hu Dị, Nhạc Phi đưa quân vào Thái Châu. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) vào triều đình Lâm An, mời vua Tống Cao Tông đến Kiến Khang. Xa giá khởi hành, Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) đi trước đến thượng du Trường Giang, có tin báo vua Lưu Dự nước Đại Tề cùng cháu là Lưu Nghê hiệp với người Kim vào đánh nhà Tống. Bọn Trương Tuấn (Trương Bá Anh), Lưu Quang Thế tỏ ra hoang mang, Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) không cho lui quân, rồi mệnh cho Dương Nghi Trung đến đóng quân ở Hào Châu. Lưu Lân dẫn quân Tề bức Hợp Phì, Trương Tuấn (Trương Bá Anh) xin thêm quân, còn Lưu Quang Thế muốn lui quân, tể tướng Triệu Đỉnh muốn triệu quân đội Nhạc Phi về phía đông. Vua Tống Cao Tông lệnh cho bọn Trương Tuấn (Trương Bá Anh), Lưu Quang Thế, Dương Nghi Trung về giữ Trường Giang. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) tâu lên phản đối việc điều động này, cho rằng nếu các cánh quân vượt Trường Giang quay về thì vùng Hoài Nam sẽ mất. Vua Tống Cao Tông sau đó có chiếu thư nghe theo lời Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) vẫn để các cánh quân tác chiến như cũ. Dương Nghi Trung đến Hào Châu, Lưu Quang Thế đã bỏ Lư Châu chạy về phía nam, Hoài Tây chấn động. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) nghe tin, vội đến Thái Thạch, lệnh cho chém đầu bất cứ ai dám vượt sông trở về. Lưu Quang Thế đành phải dừng quân lại, cùng Dương Nghi Trung đánh bại quân Tề của Lưu Nghê và Lưu Lân ở Ngẫu Đường (thuộc An Huy ngày nay). Lưu Nghê và Lưu Lân đều nhổ trại bỏ trốn về bắc.

Tranh vẽ Nhạc Phi cùng Nhạc gia quân đánh tan quân Kim (cờ xí nước Kim bị rách dưới đất) được trưng bày tại Miếu Nhạc Phi thuộc [[Tân Trịnh, Hà Nam, Trung Quốc.]] Trong khi đó Nhạc Phi và con trai là Nhạc Vân cùng các tướng dưới quyền như Dương Tái Hưng, Vương Quý, Từ Khánh, Trương Hiến, Vương Vạn, Đổng Tiên, Lý Sơn,... đang tiến đánh lên Tây Bắc, năm trận giao chiến với quân Kim thì Nhạc Phi đều đánh thắng cả năm, thu phục rất nhanh Y Dương, Lạc Dương, Thương Châu, Quắc Châu về cho nhà Tống. Với lá cờ "Tinh trung Nhạc Phi" bay phấp phới, Nhạc Phi cùng Nhạc gia quân hăng hái đánh chiếm thêm các vùng đất rộng lớn ở Dự Tây và Thiểm Nam của nước Kim. Nhạc Phi tiến vào một dãy bờ phía nam Hoàng Hà, thu phục cả một vùng đất rộng lớn về cho nhà Tống. Nhân dân khắp nơi đón chào Nhạc Phi, đua nhau tham gia vào quân đội của Nhạc Phi. Nhạc Phi liên tục dâng sớ xin vua Tống Cao Tông cho ông tiếp tục bắc phạt, khôi phục giang sơn cho nhà Tống. Trong tình thế hết sức thuận lợi này, phái chủ hoà trong triều đình Nam Tống mà đứng đầu là Tần Cối lại tỏ ra sợ hãi, liên tục gạt đi ý định bắc phạt của Nhạc Phi, bất chấp những chiến thắng vang dội của Nhạc Phi trên trận địa. Cũng trong năm 1136, thân mẫu của Nhạc Phi là Diêu thị qua đời ở trại huấn luyện Nhạc gia quân tại Vũ Xương, hưởng thọ 71 tuổi. Vợ Nhạc Phi là Lý thị sợ chồng biết tin sẽ đau buồn sinh bệnh, ảnh hưởng đến chiến sự nên cô không báo tin cho Nhạc Phi. Có thể đây cũng là ý nguyện của người mẹ Diêu thị.

Nhạc Phi khi đó là đại nguyên soái quyền cao chức trọng nhưng ông luôn sống rất chuẩn mực và nghiêm túc. Ông là người vẫn giữ được bản chất của một người anh hùng áo vải. Ông sống rất giản dị, tiết kiệm. Ông cũng là người rất nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Tuy hai lần kết hôn nhưng ông không hề nạp thêm tiểu thiếp, kiên quyết 1 vợ, không bao giờ đi đến những nơi thanh lâu buông thả. Lúc đó có tướng Tống là Ngô Giới bỏ ra 2000 quan tiền để mua một mỹ nữ nhà có ăn học, dâng tặng cho Nhạc Phi Rồi Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) vẫn không giao 50.000 quân Hoài Tây cho Nhạc Phi. Thay vào đó Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) giao lại quân đội của Lưu Quang Thế cho đốc phủ (tức là đặt dưới quyền quản hạt của Trương Tuấn), rồi lệnh cho Tham mưu Binh bộ thượng thư Lữ Chỉ đến Lư Châu chỉ huy. Nhưng Tần Cối cho rằng đốc phủ nắm binh có chỗ đáng ngờ, xin đặt chủ soái, triều đình lấy Vương Đức làm Đô thống chế, Lịch Quỳnh làm phó.

Bức tượng [[Diệu thị trong Miếu Nhạc Phi ở Tân Trịnh, Hà Nam, Trung Quốc.]] Lúc này biết tin chồng đang tạm ngưng chinh chiến nên Lý thị mới sai người gửi thư báo cho Nhạc Phi biết chuyện thân mẫu Diêu thị của ông đã qua đời từ năm ngoái. Nhạc Phi hết sức đau buồn, liền gửi thư xin Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) cho Trương Hiến thay ông cai quản Nhạc gia quân, rồi ông về nhà ở Vũ Xương chịu tang mẹ. Trước đó, Nhạc Phi và Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) đã có mâu thuẫn nên Trương Tuấn từ chối mong muốn của Nhạc Phi. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) tâu xin vua Tống Cao Tông lấy Trương Tông Nguyên làm Tuyên phủ phán quan, giám quân của Nhạc gia quân.

thumb|right|''Thánh chỉ vua [[Tống Cao Tông gửi Nhạc Phi vào mùa thu năm 1137]] Mùa thu năm 1137, Nhạc Phi dẫn Nhạc gia quân đi thị sát các tuyến phòng thủ biên giới nhà Tống nhằm củng cố vững chắc hơn cho các tuyến phòng thủ biên giới này, đề phòng liên quân Kim - Tề nam hạ tấn công. Nhạc Phi gửi báo cáo lên vua Tống Cao Tông về những việc mà ông đã làm nhằm củng cố các tuyến phòng thủ biên giới của nhà Tống. Vua Tống Cao Tông đã viết một đạo thánh chỉ để đáp lại báo cáo của Nhạc Phi, ca ngợi và khuyến khích lòng trung thành kiên định của Nhạc Phi với nhà Tống.

Cùng Trương Tuấn (Trương Đức Viễn), Hàn Thế Trung phản đối nghị hòa

Tranh vẽ Nhạc Phi đời Thanh. Nhạc Phi biết vua Lưu Dự liên kết với nước Kim mà Ngột Truật nước Kim lại ghét Lưu Dự nên lập kế ly gián hai bên. Khi trung quân bắt được một tên gián điệp của Ngột Truật. Sau khi đe dọa, Nhạc Phi lại sai tên ấy làm việc cho mình. Tên ấy trở về, đem thư dâng cho Ngột Truật. Ngột Truật cả sợ, dâng thơ ấy cho vua Kim Hi Tông. Sau đó Ngột Truật tiêu diệt phe cánh của Niêm Hãn (người ủng hộ vua Lưu Dự của nước Đại Tề) khiến Niêm Hãn phẫn uất mà qua đời trong năm 1137. Cuối năm 1137, vua Kim Hi Tông giáng

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
**Tinh trung Nhạc Phi** (tiếng Trung: 精忠岳飞; Phiên âm: _Jīng Zhōng Yuè Fēi_) là một bộ phim truyền hình thể loại dã sử cổ trang của Trung Quốc, với nội dung kể về cuộc đời
**_Thuyết Nhạc toàn truyện_** (), tên đầy đủ là **_Tinh trung diễn nghĩa thuyết bản Nhạc vương toàn truyện_** (), là một tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc được nhiều tác giả, trong đó nổi
Trong định nghĩa rộng và phổ thông, **Nhạc đương đại** (_Contemporary music_) là nhạc thời hiện tại, nhạc đương thời, là bất kỳ âm nhạc nào được viết trong ngày nay, có thể thuộc nhiều
**Đại hội Nhạc trẻ** () là một sự kiện văn hóa thường niên được tổ chức trên địa phận Sài Gòn giai đoạn 1964-74. ## Lịch sử ### 1964 - 1969 Trong thập niên 1960,
**Lê Phi Phi** (sinh năm 1967 hoặc 1968; tên khác là **Le Fifi**) là một nhạc trưởng người Việt Nam. Lê Phi Phi một trong những nghệ sĩ âm nhạc cổ điển Việt Nam thành
**Phạm Phi Nhung** (10 tháng 4 năm 1970 – 28 tháng 9 năm 2021), ### Sự nghiệp phát triển Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư
**Nhạc thế giới** hay **nhạc toàn cầu**, **nhạc quốc tế** (tiếng Anh: _world music_, _global music_ hay _international music_) là một thuật ngữ có nhiều định nghĩa đa dạng khác nhau, nhưng thường chủ yếu
**Phí Phương Anh** (sinh ngày 16 tháng 9 năm 1997 tại Hà Nội) là một nữ người mẫu, ca sĩ người Việt Nam. Cô nổi danh sau khi trở thành quán quân của chương trình
**Người Mỹ gốc Phi** (Anh: _African Americans)_ hay **Người Mỹ da đen** (Black Americans)là thành phần chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ có tổ tiên từng là thổ dân ở châu Phi nam Sahara,
phải|Hình ảnh của châu Phi chụp từ vệ tinh **Châu Phi** hay **Phi châu** (_l'Afrique_, _Africa_) là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau châu Á), thứ ba về diện
nhỏ | [[iTunes Store truy cập thông qua một chiếc điện thoại di động.]] **Tải nhạc** (tiếng Anh: _music download_) là hành động chuyển tập tin nhạc từ máy vi tính, điện thoại kết nối
nhỏ|360x360px| [[Arctic Monkeys, một ban nhạc indie của Anh]] **Nhạc indie** (; còn được gọi là **nhạc độc lập** hoặc đơn giản là **indie**) là nhạc được sản xuất độc lập mà không có sự
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
Thuật từ **Nhạc Phúc âm** thường được dùng để chỉ thể loại nhạc tôn giáo khởi phát từ các giáo đoàn của người Mỹ gốc Phi. Tuy nhiên, trong ý nghĩa rộng lớn hơn, có
**Nhạc hải ngoại** là một khái niệm thường được dùng để chỉ nền âm nhạc do các nghệ sĩ gốc Việt sáng tác, trình bày tại hải ngoại. Nền âm nhạc hải ngoại bao gồm
**Tango** là một phong cách âm nhạc viết theo nhịp 2/4 hoặc 4/4, có nguồn gốc từ dân châu Âu nhập cư sang Argentina và Uruguay. Loại nhạc này theo truyền thống được chơi với
**Prince Rogers Nelson** (7 tháng 6 năm 1958 – 21 tháng 4 năm 2016), được biết đến bởi nghệ danh **Prince**, là một ca sĩ, người viết bài hát, nhạc công đa nhạc cụ, nhà
**Phi Luân Hải** (tiếng Anh: Fahrenheit; ) là một nhóm nhạc nam Đài Loan hoạt động tại châu Á từ năm 2005. Nhóm nhạc ra mắt với bốn thành viên: Uông Đông Thành, Thần Diệc
**An Phong**, thường được biết đến với nghệ danh **Lưu Diệc Phi** (; , sinh ngày 25 tháng 8 năm 1987), là một nữ diễn viên, người mẫu kiêm ca sĩ người Mỹ gốc Hoa.
Đây là **danh sách những thể loại và phong cách âm nhạc** hay đơn giản là **danh sách các dòng nhạc**. Những tiêu chí được đưa vào để phân loại các thể loại nhạc là:
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Nhạc đồng quê** là một thể loại nhạc pha trộn truyền thống được tìm thấy phổ biến ở Mỹ và Canada. Nguồn gốc của nhạc đồng quê hiện nay là nhạc dân ca truyền thống
**Nhã nhạc cung đình Huế** là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong
**Danh sách video ca nhạc tốn kém nhất mọi thời đại** là danh sách những video ca nhạc tốn kém tiền nhiều nhất (các video được tính đến năm 2013 và số tiền đầu tư
**Bulelwa Mkutukana** (9 tháng 11 năm 198711 tháng 12 năm 2023 ), nổi tiếng nhất với nghệ danh Zahara, là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nam Phi. Cô bắt đầu hát trong dàn
**_Phi công siêu đẳng Maverick_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Top Gun: Maverick_**) là một bộ phim chính kịch hành động của Hoa Kỳ được phát hành vào năm 2022. Bộ phim được đạo diễn bởi
**Nhạc vàng** là dòng nhạc trữ tình lãng mạn bắt nguồn từ nhạc tiền chiến của tân nhạc Việt Nam được hình thành dưới thời Quốc gia Việt Nam và tiếp tục phát triển ở
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Nhạc house** là một thể loại nhạc dance điện tử được đặc trưng bởi nhịp four on the floor và tempo từ 120 tới 130 nhịp một phút. Thể loại nhạc này được sáng tạo
**Nhóm nhạc nam** hay **nhóm nhạc thiếu niên** là một nhóm nhạc bao gồm các nam ca sĩ trẻ, thường ở độ tuổi thanh thiếu niên hoặc độ tuổi đôi mươi vào thời điểm nhóm
**Claire Johnston** (sinh ngày 16 tháng 12 năm 1967) là một ca sĩ và nhạc sĩ người Anh-Nam Phi. Cô là ca sĩ chính của ban nhạc hợp xướng Nam Phi Mango Groove. Sinh ra
thumb|304x304px|Cây sáo làm từ xương động vật [[thời kỳ đồ đá. Đây được xem như phát minh đầu tiên của loài người dùng xương động vật chế tác thành nhạc cụ|thế=]] Hình ảnh của một
**T-pop**, **nhạc pop tiếng Đài Loan** hay **nhạc pop Đài ngữ** (; ; Hán-Việt: _Đài ngữ lưu hành âm nhạc_) là một thể loại âm nhạc đại chúng được hát bằng tiếng Phúc Kiến Đài
, cũng được gọi là ở Nhật Bản, là tiểu thể loại của các hoạt động dōjin. Dōjin về cơ bản là các hoạt động tự xuất bản tác phẩm không chính thức bằng tiếng
**Hoàng Hà** (1 tháng 12 năm 1929 – 4 tháng 9 năm 2013; tên khai sinh _Hoàng Phi Hồng_) là một nhạc sĩ người Việt. Ông là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng,
**Nguyễn Hải Phong** (sinh ngày 23 tháng 5 năm 1982) là một nam nhạc sĩ, ca sĩ, nhà soạn nhạc kiêm nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Anh từng giành được hai đề
**Nghiêm Phú Phi** (1930 – 2008) là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc sĩ hòa âm hoạt động tại Việt Nam Cộng hòa trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Ông là Giám đốc
**_Tarzan_** là một vở nhạc kịch dựa trên bộ phim cùng tên của Walt Disney Animation Studios năm 1999. Các bài hát được viết bởi Phil Collins, tác giả của quyển sách cùng tên là
**Nguyễn Phi Hùng** (sinh ngày 24 tháng 6 năm 1977 tại Đan Phượng, Hà Nội) là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên Việt Nam. ## Tiểu sử và sự nghiệp Nguyễn Phi Hùng được
**Nhạc Chung Kỳ** (chữ Hán: 岳锺琪, 1686 – 1754), tự **Đông Mỹ** (東美), hiệu **Dung Trai** (容齋), người Thành Đô, Tứ Xuyên, tướng lãnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Khang Hi
là một ban nhạc rock toàn thành viên nữ người Nhật Bản đến từ Osaka. Nhóm do bốn cô nữ sinh trung học thành lập vào tháng 8 năm 2006, họ biểu diễn nhạc sống
**Ngũ Cung** (thường được viết tắt là **5C**, còn được biết tới với cái tên **Pentatonic**) là một ban nhạc rock người Việt Nam được thành lập tại Hà Nội vào năm 2007. Sau khi
**Âm nhạc thời Trung cổ** là những tác phẩm âm nhạc phương Tây được viết vào thời kỳ Trung cổ (khoảng 500–1400). Thời kỳ này bắt đầu với sự sụp đổ của Đế chế La
nhỏ|Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam tại [[Nhà hát Lớn Hà Nội]] Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam (VNSO) được thành lập theo quyết định số 79/VH-QĐ, ngày 14/6/1984, trực thuộc Bộ Văn hóa (nay
Đây là danh sách đĩa nhạc của **Quang Lê**. ## Solo CD ### Sương Trắng Miền Quê Ngoại - TNCD 309 (2003) 1. Sương trắng miền quê ngoại (Nhạc sĩ: Đinh Miên Vũ) 2. Những
Âm nhạc Do thái được sử dụng trong các nghi lễ Do Thái Giáo của người Do Thái - Một bô lão Do Thái trong thánh lễ Do Thái. **Âm nhạc Do Thái** là âm
**MOG** là một cửa hàng âm nhạc có đăng kí trả phí và là một mạng blog, nơi người dùng có thể nghe và tìm hiểu về âm nhạc. Người đăng kí có thể phát
**Vũ Tuấn Đức** là một ca nhạc sĩ người Mỹ gốc Việt, anh có một thời gian dài cộng tác với Trung tâm Asia với vai trò ca sĩ và hòa âm. Từ năm 2016,
**Hoài Linh** (1920 – 1995) tên thật **Lê Văn Linh** là một nhạc sĩ nhạc vàng nổi tiếng. Trước 1975, ông hoạt động trong đoàn văn nghệ **Vì Dân** (thuộc Nha Cảnh sát Quốc gia)