✨Nhạc indie

Nhạc indie

nhỏ|360x360px| [[Arctic Monkeys, một ban nhạc indie của Anh]] Nhạc indie (; còn được gọi là nhạc độc lập hoặc đơn giản là indie) là nhạc được sản xuất độc lập mà không có sự can thiệp của các hãng đĩa thương mại hoặc các chi nhánh của họ; loại nhạc này có thể thực hiện bằng hình thức DIY để thu âm và xuất bản.

Dưới dạng một thuật ngữ thể loại, "indie" có thể hoặc không bao gồm nhạc được sản xuất độc lập. Nhiều nghệ sĩ âm nhạc indie không thuộc một phong cách hoặc thể loại âm nhạc ấn định duy nhất, âm nhạc tự xuất bản của họ có thể được phân loại thành nhiều dòng khác nhau mà không có kỳ vọng liên quan đến nhạc thương mại. Thuật ngữ 'indie' hay 'nhạc indie' có thể bắt nguồn từ đầu thập niên 1920: trong ngữ cảnh chỉ các công ty điện ảnh độc lập. Sau đó nó được sử dụng để phân loại một ban nhạc hoặc nhà sản xuất nhạc indie.

Hãng thu âm

Các hãng đĩa độc lập có lịch sử lâu đời trong việc thúc đẩy sự phát triển của nhạc quần chúng, kéo dài từ thời kỳ hậu chiến ở Hoa Kỳ, với các đơn vị như Sun Records, King Records và Stax.

Tại Vương quốc Liên hiệp Anh trong các thập niên 1950 và 1960, các công ty thu âm lớn có nhiều quyền lực đến mức các hãng đĩa độc lập phải chật vật thành lập, cho đến khi ra mắt các khái niệm mới như Virgin Records. Một số nhà sản xuất và nghệ sĩ người Anh đã cho ra đời các hãng đĩa độc lập để làm nơi phân phối tác phẩm của họ và nghệ sĩ mà họ yêu thích; đa số thất bại do liên doanh thương mại hoặc bị các hãng đĩa lớn mua lại. Thập niên 1970 chứng kiến sự ra đời của Hiệp hội phân phối đĩa nhạc indie quốc gia (NAIRD), về sau trở thành A2IM vào năm 2004. Những tổ chức nhỏ hơn cũng tồn tại như Hiệp hội nhạc indie (IMA), do Don Kulak thành lập vào cuối thập niên 1980. Ở thời kỳ vàng son, đơn vị sở hữu tới 1.000 hãng đĩa độc lập trong danh sách thành viên của mình. Thập niên 1990 mang đến Công ty thu âm độc lập liên kết (AIRCO), nơi sở hữu thành viên đáng chú ý nhất là hãng đĩa nhạc punk-thrash metal mới nổi Mystic Records và Hiệp hội nhà bán lẻ nhạc indie (IMRA), một tổ chức tồn tại trong thời gian ngắn do Mark Wilkins và Don Kulak thành lập. Đơn vị thứ hai gây chú ý nhất với một vụ kiện liên quan đến phí hợp tác mà đơn vị đã đệ trình thay mặt cho Nhà phân phối kỹ thuật số (Digital Distributors; thành viên của họ) kết hợp với Kho lưu trữ thu âm (Warehouse Record Stores). Kết quả vụ xét xử đã thu về 178 triệu đô la Mỹ từ các chi nhánh phân phối của các hãng đĩa lớn. Số tiền thu được đã được chia cho toàn bộ nguyên đơn.

Trong kỷ nguyên punk rock, số lượng hãng đĩa độc lập ngày càng tăng. Từ cuối thập niên 1970 đến thập niên 1980, một số hãng thu âm độc lập của Vương quốc Anh (chẳng hạn như Rough Trade, Fast Product, Cherry Red, Factory, Glass, Industrial, Cheree Records và Creation) đã đóng góp phần nào đấy bản sắc thẩm mỹ cho các nghệ sĩ mà họ phát hành đĩa nhạc.

Vào khoảng cuối thập niên 1980, Sub Pop Records có trụ sở tại Seattle là trung tâm của làng nhạc grunge. Vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, khi mà các tệp MP3 và các trang tải nhạc như iTunes Store của Apple ra đời đã thay đổi ngành công nghiệp thu âm, một làn sóng nhạc neo soul độc lập đã sớm xuất hiện từ những làng nhạc soul ngầm đô thị ở Luân Đôn, New York, Philadelphia, Chicago và Los Angeles, chủ yếu là do đài phát thanh thương mại và các hãng thu âm lớn thiên vị chú trọng vào tiếp thị, quảng bá và phát sóng nhạc pop và hip hop trong thời kỳ này. Các hãng đĩa độc lập như Dome Record và Expansion Records ở Anh, Burger, Wiener và Ubiquity Records ở Mỹ cùng rất nhiều hãng đĩa khác trên khắp thế giới tiếp tục phát hành các ban nhạc và sản phẩm nhạc indie.

Phương thức phân phối

Một vài hãng đĩa độc lập phân phối sản phẩm của chính họ trong khi những hãng đĩa khác phân phối thông qua một hãng đĩa lớn. Những hãng độc lập có thể thuộc sở hữu của một hãng lớn vì hãng lớn sẽ phân phối cho họ.

Những ban nhạc độc lập có thể gặp khó khăn để ký hợp đồng với một hãng thu âm có thể không quen thuộc với phong cách cụ thể của họ. Có thể mất nhiều năm nỗ lực tận hiến, tự quảng bá và bị từ chối trước khi ký được hợp đồng với hãng thu âm độc lập hoặc hãng thu âm lớn. Những ban nhạc sẵn sàng đi theo con đường này cần đảm bảo rằng họ đã chuẩn bị sẵn sàng cả về âm nhạc mà họ mang đến cũng như những kỳ vọng thành công thực tế của họ.

Hợp đồng của hãng thu âm lớn

Hầu hết nghệ sĩ của hãng đĩa lớn đều kiếm được 10–16% lệ phí bản quyền. Tuy nhiên, trước khi một ban nhạc có thể nhận được bất kỳ khoản tiền bản quyền nào của mình, họ phải xóa tên mọi khoản nợ của mình từ chi phí đền bù. Những chi phí này phát sinh từ khâu gói album và thiết kế bìa, hỗ trợ chuyến lưu diễn và sản xuất video. Ngoài chi phí đền bù còn có tiền tạm ứng của nghệ sĩ, giống như một khoản vay. Nó cho phép nghệ sĩ có tiền để sống và thu âm cho đến khi đĩa nhạc của họ được phát hành. Tuy nhiên, trước khi họ có thể nhận được bất kỳ khoản tiền bản quyền nào, tiền tạm ứng phải được trả lại đầy đủ cho hãng thu âm. Vì chỉ những nghệ sĩ thành công nhất mới thu lại được chi phí sản xuất và tiếp thị, khoản nợ của một nghệ sĩ không thành công có thể chuyển sang album tiếp theo của họ, tức là họ nhận được rất ít hoặc không lấy được tiền bản quyền.

Gói tiền tạm ứng của hãng đĩa lớn thường lớn hơn nhiều so với các hãng độc lập. Các hãng đĩa lớn có thể trả trước cho các nghệ sĩ trong khoảng từ 150.000 đến 500.000 đô la Mỹ. Một vài hãng đĩa độc lập nhỏ hơn không cung cấp tiền tạm ứng nào; chỉ chi phí ghi âm, gói album và thiết kế bìa cũng có thể đền bù. Nếu một nghệ sĩ không nhận được khoản tạm ứng nào, họ sẽ nợ công ty thu âm của mình ít tiền hơn, do đó cho phép họ bắt đầu nhận séc tiền bản quyền sớm hơn nếu doanh số bán hàng đảm bảo. Tuy nhiên, vì hãng thu âm thường đền bù rất nhiều chi phí khác nhau, nên việc nhận được khoản tạm ứng lớn nhất có thể thực sự có lợi cho nghệ sĩ vì họ có thể không thấy bất kỳ séc tiền bản quyền nào trong một thời gian dài. Một lợi thế khác của việc nhận tiền tạm ứng; số tiền tạm ứng mà nghệ sĩ nợ của hãng đĩa chỉ đền bù thông qua tiền bản quyền của nghệ sĩ, không phải thông qua trả lại chính khoản tiền tạm ứng.

Hợp đồng của hãng thu âm độc lập

Hợp đồng của hãng đĩa độc lập thường giống với hợp đồng do các hãng đĩa lớn đưa ra vì chúng có trách nhiệm pháp lý tương tự cần xác định trước khi đại diện cho một nghệ sĩ. Tuy nhiên, có những điểm khác biệt thường liên quan đến tiền tạm ứng, chi phí phòng thu và tiền bản quyền thấp hơn nên ít được lựa chọn định dạng album. Do những hạn chế về tài chính, các hãng độc lập thường chi tiêu ít hơn nhiều cho khâu tiếp thị và quảng cáo so với các hãng lớn. Nhưng với tỷ lệ tiền bản quyền trả cho các nghệ sĩ và quảng cáo thấp hơn, các hãng độc lập thường có thể thu được lợi nhuận từ số lượng bán ra thấp hơn so với tiềm năng của một hãng lớn. Trong loại hợp đồng này, lợi nhuận ròng sau khi loại bỏ mọi chi phí được chia giữa hãng đĩa và nghệ sĩ theo tỷ lệ phần trăm đã thương lượng. Tuy nhiên, các thỏa thuận ở dạng này có thể mất nhiều thời gian hơn để nghệ sĩ thu được bất kỳ khoản lợi nhuận nào nếu có, vì mọi chi phí – chẳng hạn như thu âm, sản xuất, quảng bá và tiếp thị, video âm nhạc... cũng được tính đến. Chỉ khi một nghệ sĩ độc lập trở nên nổi tiếng thì những thỏa thuận kiểu này mới có lợi hơn.

Hãng đĩa độc lập chủ yếu dựa vào mạng lưới cá nhân hoặc "truyền miệng" để quảng bá. Hãng đĩa độc lập có xu hướng tránh các chiến thuật tiếp thị kinh phí cao, vốn thường không nằm trong ngân sách của một hãng độc lập. Tất nhiên, điều này góp phần làm giảm tổng chi phí sản xuất và có thể giúp nghệ sĩ nhận được tiền bản quyền sớm hơn. Các hãng đĩa lớn có xu hướng theo dõi các nghệ sĩ của hãng indie và đánh giá mức độ thành công của họ, đồng thời có thể đề nghị ký hợp đồng với các nghệ sĩ độc lập khi hợp đồng của họ hết hạn. Hãng lớn cũng có thể yêu cầu mua hợp đồng của nghệ sĩ từ hãng độc lập trước khi hợp đồng hết hạn, mang lại cho hãng độc lập một khoản thanh toán tài chính khổng lồ nếu họ chọn bán hợp đồng. CD Baby không còn báo cáo số lượng đĩa CD đã bán, nhưng vào năm 2010 họ tuyên bố đã trả tổng cộng 107 triệu đô la Mỹ cho các nghệ sĩ trong suốt thời gian đơn vị hoạt động và hiện tại tuyên bố rằng con số này đến năm 2016 là hơn 200 triệu đô la Mỹ.

Khó có thể đánh giá doanh số bán hàng từ các nguồn phi truyền thống chủ yếu đến từ việc khai thác thị trường đang mở rộng hay từ việc bòn rút doanh số bán hàng từ phân phối CD truyền thống, khi mà RIAA tuyên bố rằng vi phạm bản quyền âm nhạc gây thiệt hại 12,5 tỷ đô la Mỹ cho nền kinh tế thường niên của Hoa Kỳ.

Bầu chọn

Is This It của The Strokes đã được tạp chí GQ bầu là album nhạc indie hay nhất mọi thời đại, trong khi danh hiệu album nhạc indie hay nhất mọi thời đại của NME thuộc về Boy in da Corner của Dizzee Rascal.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|360x360px| [[Arctic Monkeys, một ban nhạc indie của Anh]] **Nhạc indie** (; còn được gọi là **nhạc độc lập** hoặc đơn giản là **indie**) là nhạc được sản xuất độc lập mà không có sự
**Giới nhạc indie Budapest** là giới nhạc indie của thành phố Budapest, Hungary ở thập niên 2000. Giới nhạc này thường được gắn liền với tên tuổi các ban nhạc như Amber Smith, The Moog,
**Nhạc indie Hàn Quốc** (tiếng Anh: _Korean indie_) ý chỉ dòng nhạc indie tại Hàn Quốc, phát triển từ thập niên 1990 tại Hongdae, một khu vực phía tây bắc thủ đô Seoul. Dòng nhạc
**Giới indie**, hay còn gọi là **giới âm nhạc indie** hoặc **làng nhạc indie**, là cộng đồng các ban nhạc định hướng indie (hay cụ thể hơn là thiên hướng indie rock/indie pop) và đối
**Indie folk** là một thể loại âm nhạc xuất hiện vào thập niên 1990 từ những nghệ sĩ trong giới indie rock bị ảnh hưởng bởi nhạc dân ca và nhạc đồng quê cổ điển.
là một ban nhạc rock toàn thành viên nữ người Nhật Bản đến từ Osaka. Nhóm do bốn cô nữ sinh trung học thành lập vào tháng 8 năm 2006, họ biểu diễn nhạc sống
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
thế=Logo for NME. The capitals letters N, M and E are spelled out close together in a large, red font. **Danh sách nhạc sĩ ngầu nhất của _NME**_ (tiếng Anh: _**NME_'s Cool List**) là một
**Vũ Đinh Trọng Thắng** (sinh ngày 6 tháng 11 năm 1995), hay ngắn gọn là **Thắng** hoặc **Thắng Ngọt** là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát, nhà sản xuất âm nhạc
là một nhạc sĩ, người viết ca khúc, và nhà sản xuất âm nhạc nổi tiếng của Nhật Bản. Anh là được biết đến như một trong những thành viên nổi tiếng nhất đồng sáng
**Ngọt** là ban nhạc pop rock Việt Nam gồm 4 thành viên Vũ Đinh Trọng Thắng (hát chính, guitar đệm), Phan Việt Hoàng (guitar bass), Nguyễn Hùng Nam Anh (trống) và Hoàng Chí Trung (keyboard).
, cũng được gọi là ở Nhật Bản, là tiểu thể loại của các hoạt động dōjin. Dōjin về cơ bản là các hoạt động tự xuất bản tác phẩm không chính thức bằng tiếng
Lý Chí (chữ Hán giản thể: 李志, sinh ngày 13 tháng 11 năm 1978) là một nam ca sĩ đến từ Trung Quốc. Anh là người đại diện cho nền âm nhạc ballad đương đại
**Nhạc cổ phong** () là một phong cách âm nhạc Trung Quốc xuất hiện và nổi lên trong thế kỷ 21, đặc trưng bởi: ca từ cổ điển tao nhã, cách dùng từ đều đặn,
**Fun** (thường được cách điệu là **fun.**) là một nhóm nhạc theo dòng nhạc indie pop tại thành phố New York, Mỹ. Ban nhạc được thành lập bởi Nate Ruess, ca sĩ đứng đầu và
**Darlin'** là một ban nhạc indie rock của Pháp được thành lập vào năm 1992 bởi Laurent Brancowitz, Thomas Bangalter và Guy-Manuel de Homem-Christo. Tên của họ được lấy từ bài hát cùng tên của
Danh sách đĩa nhạc của ca sĩ-nhạc sĩ người Anh Ed Sheeran bao gồm ba album phòng thu, mười bốn EP, hai mươi tư đĩa đơn (trong đó có 11 đĩa đơn hợp tác) và
Dưới đây là danh sách đĩa nhạc của ban nhạc indie pop Foster the People bao gồm 2 album phòng thu, 2 đĩa mở rộng, 8 đĩa đơn và 7 video âm nhạc. Sau khi
Danh sách đĩa nhạc của ban nhạc indie pop Mỹ Fun. bao gồm 2 album phòng thu, 1 album trực tiếp, 11 đĩa đơn và 7 video ca nhạc. Đĩa đơn "We Are Young" giúp
Đây là danh sách đĩa nhạc của nhóm nhạc indie pop người Anh, The xx. Họ đã phát hành 2 album phòng thu, 5 EP, 8 đĩa đơn và 6 video âm nhạc. ## Album
**Danh sách đĩa nhạc của Arctic Monkeys**, một ban nhạc indie rock Anh. ## Albums ### Album phòng thu ### Album video ### Đĩa mở rộng ### Album khác ## Đĩa đơn ### Bài hát
**Indie rock** là một thể loại alternative rock có nguồn gốc tại Anh và Mỹ từ những năm 1980. Đây là một thể loại khá đa dạng, với các tiểu thể loại bao gồm indie
**Indie pop** là một thể loại thuộc alternative rock được hình thành tại Anh Quốc vào giữa thập niên 1980, bắt nguồn từ các ban nhạc post-punk người Scotland trong hãng thu âm Postcard Records
**400 Blows** là một ban nhạc post-punk Vương quốc Liên hiệp Anh thành lập năm 1981. ## Lịch sử 400 Blows được thành lập tại Croydon, Nam Luân Đôn bởi Edward Beer vào năm 1981
**Jannabi** () là ban nhạc indie đến từ Hàn Quốc gồm 2 thành viên: Choi Jung Hoon (vocal) và Kim Do Hyung (guitar), cùng sinh vào năm 1992 (năm Khỉ). "Jannabi" cũng có nghĩa là
**The xx** là một ban nhạc indie pop người Anh từ Wandsworth, Luân Đôn, thành lập vào năm 2005. Đội hình của nhóm gồm Romy Madley Croft (guitar, hát), Oliver Sim (bass, hát) và Jamie
**Trần Thanh Phương** (hay **Thanh Phương**, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một nam nhạc công, kĩ sư âm thanh, giám đốc âm nhạc, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người
**Sophie Xeon** (/ˈziːɒn/; 17 tháng 9 năm 1986 – 30 tháng 1 năm 2021), được biết đến với nghệ danh **Sophie** (hay cách điệu hóa là **SOPHIE**), là một nhà sản xuất âm nhạc, nhạc
thumb|Morrissey, Johnny Marr, Andy Rourke & Mike Joyce **The Smiths** là một ban nhạc rock người Anh thành lập tại Manchester vào năm 1982. Đội hình của ban gồm có giọng ca chính Morrissey, cây
**Foster the People** là một ban nhạc indie pop đến từ Mĩ và được thành lập tại Los Angeles, California vào năm 2009. Các thành viên Mark Foster (hát chính, chơi keyboard, piano, chỉnh synthesizer,
Khi uống rượu vang, lựa chọn âm nhạc phù hợp có thể tạo thêm một trải nghiệm thú vị và lãng mạn.Mối liên hệ giữa âm nhạc và rượu vang đã tồn tại trong nhiều
**DIIV**, tên gọi cũ là **Dive**, là một ban nhạc indie rock Mỹ tới từ Brooklyn, thành phố New York. Được thành lập năm 2011, DIIV khởi đầu là một dự án ghi âm solo
**Kings of Convenience** là một bộ đôi hát nhạc indie folk-pop đến từ Bergen, Na Uy. Gồm có Erlend Øye và Eirik Glambek Bøe, nhóm nhạc được biết đến bởi giai điệu tinh tế, tiếng
**10cm **(tiếng Hàn: 십센치) là một nhóm nhạc Hàn Quốc một thành viên bao gồm **Kwon Jung-yeol** (tiếng Hàn: 권정열, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1983), một ca sĩ, nhạc sĩ người Hàn Quốc.
**Wolf Cove** là một ban nhạc indie rock được thành lập tại Starkville, Mississippi vào năm 2012. Nó bao gồm các thành viên Clayton Waller, Ben Watson, và John William "Dub" White. Waller đến từ
**Muse** là ban nhạc rock của Anh, được thành lập năm 1994 tại Teignmouth, Devon. Ban nhạc gồm 3 người bạn học: Matthew Bellamy (hát chính, lead guitar, piano, keyboard), Christopher Wolstenholme (bass, hát nền,
Ban nhạc **Hillsong United** (được gọi là **Hillsong UNITED** hoặc **UNITED**) là một ban nhạc thờ phượng, khởi đầu là một phần của Hillsong Church. Được thành lập năm 1998 từ mục vụ thanh thiếu
**Pentagon** (; ; cách điệu: **PENTAGON**) là một nhóm nhạc nam Hàn Quốc được thành lập bởi Cube Entertainment vào năm 2016 gồm 9 thành viên: Jinho ,Hui,Hongseok, Shinwon, Yeo One, Yan An, Yuto, Kino
Đây là một danh sách các **thể loại nhạc rock** bao gồm các tiểu thể loại của âm nhạc mang tính đại chúng có nguồn gốc từ thể loại nhạc rock and roll trong thập
**Cá Hồi Hoang** là một ban nhạc alternative rock người Việt Nam được thành lập vào năm 2013 bởi giọng ca Thành Luke (Nguyễn Viết Thành) và tay guitar Nguyễn Thanh Minh. Năm 2014, ban
**_Pitchfork_** là một tạp chí Internet xuất bản hàng ngày có trụ sở tại Chicago, với nội dung chuyên phê bình âm nhạc, bình luận, tin tức âm nhạc và phỏng vấn nghệ sĩ. Tạp
**Trần My Anh** (sinh ngày 4 tháng 2 năm 2000), thường được biết đến với nghệ danh **Marzuz** (viết cách điệu là **marzuz**), là một nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát
**_New Musical Express (NME)_** là một tổ chức báo chí, tạp chí và website phê bình âm nhạc của Anh được xuất bản từ năm 1952. Đây là tờ báo Anh đầu tiên ghi lại
**Nguyễn Mạnh Cường** (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1999), được biết đến với nghệ danh **14 Casper**, là một nhạc sĩ, nhà sản xuất âm nhạc Indie người Việt Nam, thường được biết tới
"**Mirrorball**" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift nằm trong album phòng thu thứ tám _Folklore_ (2020) của cô. Nữ ca sĩ coi
**The Shins** là một ban nhạc indie-rock người Mỹ được thành lập ở Albuquerque, New Mexico vào năm 1996. Đội hình hiện tại của ban nhạc bao gồm James Mercer (vocal, guitar, bass, keyboard, nhạc
**CD Baby, Inc.** là cửa hàng âm nhạc trực tuyến chuyên bán các đĩa compact, bản ghi vinyl và các bản nhạc tải về từ các nhạc sĩ tự do. Công ty cũng là nơi
**Chamber pop** (còn gọi là baroque pop và đôi khi được gộp lại với nhạc orchestral pop hoặc nhạc symphonic pop) là một thể loại âm nhạc kết hợp nhạc rock hoặc indie pop, Chamber
**I Dont Know How But They Found Me** (viết hoa cách điệu), thường được rút gọn là **IDKHow** (cách điệu thành **iDKHOW** ), là một nhóm nhạc song tấu người Mỹ trú tại Thành phố
**Radiohead** là ban nhạc rock người Anh được thành lập vào năm 1985 tại Abingdon, Oxfordshire. Ban nhạc bao gồm các thành viên Thom Yorke (hát chính, guitar, piano), Jonny Greenwood (guitar lead, keyboard cùng