✨Âm nhạc Việt Nam
Âm nhạc Việt Nam là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong tục, địa lý,... của đất nước Việt Nam, trải dài suốt chiều dài Lịch sử Việt Nam.
Âm nhạc Việt Nam bắt đầu từ những nền văn minh đầu tiên qua những phát hiện khảo cổ về những nhạc cụ. Trải qua những triều đại phong kiến, nền âm nhạc Việt Nam có được những nét phát triển rõ rệt. Ngoài ra các nền văn hóa ngoại lai như Trung Hoa, Ấn Độ, Chăm Pa cũng ảnh hưởng đến âm nhạc Việt Nam, dung hòa những yếu tố ảnh hưởng từ nước ngoài với những nét nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống, từ đó tạo nên những loại hình âm nhạc cổ truyền của từng vùng miền như hát xẩm, bài chòi, ca trù, hò, cải lương, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ, chầu văn,...
Giai đoạn Pháp thuộc vào cuối thế kỷ XIX đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam được tiếp xúc với những phong cách và quan điểm của văn hóa phương Tây, đồng thời tiếp tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Tân nhạc Việt Nam ra đời vào cuối thập niên 1930 với dòng nhạc tiền chiến rồi tiếp hơi cho những làn điệu mới trong thời gian đất nước chia đôi dưới hai chính thể: Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhạc đỏ ra đời sau năm 1945 ở miền Bắc với sự xuất hiện của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng trong khi đó nhiều thể loại âm nhạc mới như nhạc vàng, nhạc trẻ, du ca nở rộ ở miền Nam.
Sau năm 1975, âm nhạc Việt Nam bắt đầu học tập nhiều phong cách từ khắp nơi trên thế giới. Sau khi đất nước mở cửa vào cuối thập niên 1980, đặc biệt là việc những lứa nghệ sĩ chuyên nghiệp đầu tiên được cử đi du học, âm nhạc Việt Nam đã theo kịp xu hướng của thế giới, mang theo nhiều phong cách và thể loại chưa từng xuất hiện tới nền văn hóa đại chúng nói chung và nền âm nhạc nói riêng ở Việt Nam. Ngoài ra, một số lượng lớn nghệ sĩ hải ngoại cũng góp phần xây dựng đáng kể vào sự phát triển của nền âm nhạc Việt Nam ngày nay. Âm nhạc hiện đại Việt Nam bao gồm nhiều yếu tố kết hợp của các nền văn hóa châu Á, châu Âu, thậm chí châu Mỹ và châu Phi qua việc gia tăng cộng tác của các nghệ sĩ trong nước với các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới. Trên hết, âm nhạc Việt Nam vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng của nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
Lịch sử
Trống đồng Đông Sơn trưng bày tại [[Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp.]] Âm nhạc Việt Nam có một lịch sử lâu dài. Âm nhạc xuất hiện trước chữ viết là phương tiện để con người thể hiện cảm xúc của mình về thế giới xung quanh và cũng là một phần trong sinh hoạt cộng đồng. Âm nhạc ở Việt Nam còn được sử dụng trong sinh hoạt tôn giáo, trong đời sống thường nhật và trong các lễ hội của dân chúng. Từ thời nguyên thủy đã xuất hiện nhạc cụ trong đó có đàn đá được xem là một loại nhạc cụ cổ xưa nhất của nhân loại. Đến thời kỳ đồ đồng xuất hiện trống đồng và các loại nhạc cụ khác. Do sự đa dạng về mặt sắc tộc nên các loại nhạc cụ bản địa tại Việt Nam hết sức phong phú và có lịch sử lâu đời. Cũng chính điều này khiến nền âm nhạc của Việt Nam mang nhiều sắc thái. Mỗi dân tộc sở hữu nhiều loại hình âm nhạc khác nhau thuộc hai thể loại thanh nhạc và khí nhạc. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lên âm nhạc Việt Nam khá mạnh với sự xuất hiện của nhiều loại nhạc cụ Trung Hoa như đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn nhị... trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên âm nhạc cổ truyền của Việt Nam không hoàn toàn giống âm nhạc cổ truyền Trung Hoa. Ngoài ra còn có các loại nhạc cụ có nguồn gốc Ấn Độ như trống cơm, trống lục lạc...
Âm nhạc cổ truyền
Gồm nhạc dân gian, nhạc thính phòng, kịch hát, nhạc cung đình
Chèo
nhỏ|phải|Chèo Quan âm Thị Kính của soạn giả [[Vũ Khắc Khoan hiệu đính diễn tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn, năm 1972]]
Vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ XVIII, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ XIX, chèo chịu ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ XX, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị độ mai.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.
Xẩm
thế=|nhỏ|Hai người xẩm chợ, [[Hải Phòng, thời Pháp thuộc.]]
Theo truyền thuyết, đời nhà Trần, vua cha Trần Thánh Tông có 2 hoàng tử là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh. Do tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Đĩnh bị Trần Quốc Toán hãm hại, chọc mù mắt rồi đem bỏ giữa rừng sâu. Tỉnh dậy, 2 mắt mù lòa nên Trần Quốc Đĩnh chỉ biết than khóc rồi thiếp đi. Trong mơ, Bụt hiện ra dạy cho ông cách làm một cây đàn với dây đàn làm bằng dây rừng và gẩy bằng que nứa. Tỉnh dậy, ông mò mẫm làm cây đàn và thật lạ kỳ, cây đàn vang lên những âm thanh rất hay khiến chim muông sà xuống nghe và mang hoa quả đến cho ông ăn. Sau đó, những người đi rừng nghe tiếng đàn đã tìm thấy và đưa ông về. Trần Quốc Đĩnh dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị. Tiếng đồn về những khúc nhạc của ông lan đến tận hoàng cung, vua vời ông vào hát và nhận ra con mình. Trở lại đời sống cung đình, nhưng Trần Quốc Đĩnh vẫn tiếp tục mang tiếng đàn, lời ca dạy cho người dân để họ có nghề kiếm sống. Hát xẩm đã ra đời từ đó, và Trần Quốc Đĩnh được suy tôn là ông tổ nghề hát xẩm nói riêng cũng như hát xướng dân gian Việt Nam nói chung. Người dân lấy ngày 22 tháng 2 và 22 tháng 8 âm lịch làm ngày giỗ của ông. Trung tâm Phát triển Nghệ thuật Âm nhạc Việt Nam thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã lập ra một giải thưởng mang tên Trần Quốc Đĩnh nhằm tôn vinh, hỗ trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ, nhà sưu tầm, nghiên cứu, nhà báo có công lao, đóng góp cho lĩnh vực âm nhạc truyền thống và trao giải lần đầu tiên năm 2008.
Theo chính sử thì vua Trần Thánh Tông không có hoàng tử tên Đĩnh hay Toán. Thái tử con vua Thánh Tông tên là Khảm, sau lên ngôi là vua Nhân Tông; một người con nữa là Tả Thiên vương. Vì vậy nguồn gốc hát xẩm là dựa trên thánh tích chứ không truy được ra trong chính sử.
Quan họ
nhỏ|phải|Liền anh, liền chị hát quan họ mới trên thuyền tại [[hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội]] Ý nghĩa từ Quan họ thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của quan và của họ. Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan họ xuất phát từ âm nhạc cung đình, hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh, liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (họ). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.
Hát chầu văn
Hát chầu văn là loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc trong nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Vào thời gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan.
Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám và hai câu bảy chữ), hát nói,... Các thí dụ minh họa: - Thể thất ngôn: (trích đoạn bỉ của văn công đồng)
森森鶴駕從空下
Sâm sâm hạc giá tòng không hạ
顯顯鸞輿滿坐前
Hiển hiển loan dư mãn tọa tiền
不舍威光敷神力
Bất xả uy quang phu thần lực
證明功德量無邊
Chứng minh công đức lượng vô biên
Ca trù
nhỏ|phải|Một buổi vinh danh ca trù Ca trù là bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ XV, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và học giả yêu thích.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới có vùng ảnh hưởng lớn nhất Việt Nam, có phạm vi tới 16 tỉnh, thành phố phía Bắc. Hồ sơ đề cử Ca trù là di sản văn hóa thế giới với không gian văn hóa Ca trù trải dài khắp 16 tỉnh phía Bắc gồm: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Hò
Hò là loại ca hát trình diễn dân gian phổ biến đến đời sống, là nét văn hóa của miền Trung và miền Nam. Có nguồn gốc lao động sông nước, diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động.
Trong sinh hoạt những đêm trăng những nhóm con trai đi chơi, thường cất lên những điệu hò để dò hỏi những cô gái về những công việc. Điệu hò giao duyên giữ hai bên đối đáp lại nhau, người con gái hay một nhóm sẽ hò đáp trả lại khi đó. Trên sông nước khi đi đò, người hò thường hò điệu giao duyên giữa hai chiếc đò gần nhau.
Các loại hò phổ biến:
- Hò Đồng Tháp
- Hò kéo lưới
- Hò Qua sông hái củi
- Hò khoan
- Hò mái nhì
- Hò Giã gạo
- Hò Xay lúa
- Hò Kéo gỗ
- Hò Đạp lúa
Nhạc cung đình
nhỏ|phải|Dàn nhạc ca Huế trên sông Hương Nhã nhạc là hình thức phổ biến của âm nhạc cung đình, đề cập đến các thể loại nhạc triều đình được chơi trong các dịp lễ hội từ thời Nhà Trần đến thời Nhà Nguyễn (triều đại cuối cùng của Việt Nam). Nhã nhạc được các hoàng đế chúa Nguyễn tổng hợp và phát triển trở thành tầm vóc của quốc gia.
Ở các triều đại Việt Nam thế kỷ 19 cũng có nhiều điệu múa hoàng gia rất đặc sắc hiện vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Chủ đề của hầu hết các điệu múa này là chúc nhà Vua trường thọ và sự giàu có hưng thịnh của đất nước.
Nhạc tài tử
thumb|Một ban nhạc đờn ca tài tử Sài Gòn năm 1911
Bắt nguồn từ Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian , nhạc tài tử được hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ 19. Nhạc tài tử là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này có cách tân bằng cách thay thế độc huyền bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục... Đây là loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn Nam Bộ ca hát sau những giờ lao động.
Tân nhạc
Tân nhạc Việt Nam là thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng. Các sáng tác có thể chia làm thanh nhạc và khí nhạc, theo phong cách thính phòng, dân gian và nhạc nhẹ, hoặc cũng có thể chia theo các giai đoạn lịch sử với những đặc điểm khác nhau. Cách phân chia phổ biến là theo giai đoạn lịch sử. Về khí nhạc, nổi bật các sáng tác: Giao hưởng số 1 "Quê hương" (Hoàng Việt), "Bài ca chim ưng" (Đàm Linh), "Miền Nam quê hương ta ơi" (Huy Du), "Trở về đất mẹ" (Nguyễn Văn Thương), "Thành đồng Tổ Quốc" (Hoàng Vân), "Suối đàn T'rưng" (Nhật Lai), "Tiếng sáo quê hương" (Văn Chung), "Người về đem tới ngày vui" (Trọng Bằng), "Vì miền Nam" (Huy Thục), "Mẹ Việt Nam" (Nguyễn Văn Nam), "Cung đàn đất nước", "Chung một niềm tin", "Xuân quê hương" (Xuân Khải), "Tình yêu của biển" (Cát Vận), "Đất và hoa" (Quang Hải), Buồn,Vui và Khát Vọng (Tô Hải),... các sáng tác ở hải ngoại của Nguyễn Thiên Đạo, Tôn Thất Tiết... Các sáng tác thanh nhạc, cũng như khí nhạc, có thể chia làm ba dòng: "'Thính phòng - Nhạc nhẹ - Dân gian"'. Cách phân chia này phổ biến trên toàn thế giới, nhưng không rành mạch.
Dòng thính phòng để chỉ các sáng tác nhạc cổ điển (nhạc nghệ thuật), phong cách thính phòng, và các ca khúc hát theo phong cách thính phòng. Một số các tác phẩm của các nhạc sĩ tiền chiến như Văn Cao ("Thiên Thai", "Trương Chi",...), Phạm Duy ("Tình ca", "Đường chiều lá rụng", "Chiều về trên sông", "Con đường Cái Quan"...), Cung Tiến ("Hương xưa,"...), phần lớn các tác phẩm nhạc đỏ của các nhạc sĩ Văn Cao ("Sông Lô",...), Đỗ Nhuận ("Du kích sông Thao", "Áo mùa Đông", opera "Cô Sao"...), Hoàng Việt, Hoàng Hiệp, Hoàng Vân ("Hồi tưởng", "Việt Nam muôn năm", "Guồng nước quay", "Vượt núi,"...),... và một số tác phẩm về sau. Các sáng tác này hay được chơi với dàn nhạc giao hưởng/thính phòng hay bán cổ điển. Một dòng khác hay được xem là tách ra từ nhạc cổ điển là dòng hành khúc, hay chơi với ban/dàn kèn đồng.
Dòng nhạc nhẹ (từ nhạc nhẹ dịch từ tiếng Nga sang), để chỉ các ca khúc hay được xem là nhạc thị trường, nhạc đại chúng, thường viết với giai điệu và cấu trúc đơn giản, chơi với ban nhạc nhẹ, phong cách acoustic, hay sử dụng các nhạc cụ điện tử. Các tác phẩm nổi tiếng như của Đặng Thế Phong, Đoàn Chuẩn, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Văn Thương, Cung Tiến... thời tiền chiến, các nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Văn Phụng, Y Vân, Lam Phương, Song Ngọc,... trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn 1975 - 1978, dòng nhạc nhẹ bị Nhà nước Việt Nam cấm. Đến năm 1979 dòng nhạc này được cho phép nhưng bị giới hạn trong các sáng tác ca khúc chính trị, đến cuối thập niên 1980 được cho phép rộng rãi. Ngày nay nhạc nhẹ hay để chỉ cho dòng nhạc trữ tình (ballad); và nhạc trẻ hay còn gọi là nhạc đương đại, với các tác giả tiêu biểu sau 1975 như Trần Tiến, Phú Quang,... ở hải ngoại như Đức Huy,... và thế hệ trẻ hơn như Đức Trí, Việt Anh, Hồ Hoài Anh, Phan Mạnh Quỳnh...
Dòng nhạc dân gian, thực chất là nhạc mới nhưng âm hưởng dân gian, được chỉ cho các tác phẩm tân nhạc mang âm hưởng dân gian (dân ca,...), là sự pha trộn nhạc thính phòng với nhạc dân gian (nhiều sáng tác nhạc đỏ, nhạc quê hương như của Phan Huỳnh Điểu, Hoàng Vân, Nguyễn Văn Tý, Trần Hoàn, Thuận Yến, An Thuyên..., nhiều sáng tác của Phạm Duy,...), sự pha trộn nhạc nhẹ (ballad) với nhạc dân gian (của nhiều tác giả Y Vân, Lam Phương, Trúc Phương, Lê Dinh, Anh Bằng, Duy Khánh... (hay được xếp nhạc vàng), hay của Trần Tiến,...), sự pha trộn nhạc trẻ (đương đại) với nhạc dân gian (của Nguyễn Cường, Lê Minh Sơn, Trần Tiến...). Các ca khúc này thường hát có các nhạc cụ dân tộc, nhưng cũng có thể không.
Cách phân chia phổ biến nhất có tính đại chúng là theo các giai đoạn lịch sử.
Nguồn gốc
Vào những năm đầu thế kỷ XX. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong nghệ thuật văn học Việt Nam nói chung, xuất hiện sau phong trào Thơ mới và dòng văn học lãng mạn vài năm. Chủ nghĩa tư bản của người Pháp cùng với nền văn hóa phương Tây được du nhập vào Việt Nam gây nên những xáo trộn lớn trong xã hội. Nhiều giá trị tư tưởng bền vững mấy ngàn năm trước đó lại bị giới trẻ Tây học xem thường, thậm chí trở thành đối tượng để mỉa mai của nhiều người. Giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị hình thành. Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp) đã có một lối sinh hoạt thành thị mới với nhiều tiện nghi theo văn minh Tây phương. Họ ở nhà lầu, đi ô tô, dùng quạt điện, đi nghe hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên, mốt quần áo thay đổi mỗi năm. Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp. Nguyễn Xuân Khoát Âm nhạc của châu Âu theo chân người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó, người dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandolin, guitar và cả vĩ cầm, dương cầm.
Giai đoạn trước năm 1937 được xem là giai đoạn hình thành Tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Trần Quang Hải gọi đây là "giai đoạn tượng hình". Còn Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới". Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của Phong trào Thơ mới chịu ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền chiến chịu ảnh hưởng bởi âm nhạc phương Tây.
Thời kỳ này, một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm, thường được gọi là "bài tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài "Tiếng nhạn trong sương, Hòa duyên" và soạn lời Việt cho một vài ca khúc châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella trong vở "Phũ phàng", Pouet Pouet trong "Tiếng nói trái tim", Tango mystérieux trong "Đóa hoa rừng", La Madelon trong "Giọt lệ chung tình",... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là "Hoài tình" rất được ưu chuộng.
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có phong trào chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi, Rina Ketty, Albert Préjean, Georges Milton... mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như Ái Liên, Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka mới thu âm các bài ta theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của Pháp như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du monde, Colombella... mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp Vincent Scotto và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, soạn bởi một nhà báo trẻ tên là Mai Lâm và bởi những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc biệt được giới trẻ yêu thích, đã có những hội Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng.
Năm 1930, trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, nhạc sĩ Đinh Nhu đã viết ca khúc "Cùng nhau đi Hồng binh". Theo Trần Quang Hải thì "Cùng nhau đi Hồng binh" là ca khúc tân nhạc đầu tiên của Việt Nam. Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn, ba thành viên của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như "Bẽ bàng" (1935), "Nghệ sĩ hành khúc" (1936) của Lê Yên; "Tiếng sáo chăn trâu" (1935), "Bên hồ liễu" (1936), "Bóng ai qua thềm" (1937) của Văn Chung. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản "Trên sông Hương" năm 1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có "Xuân năm xưa" năm 1936. Giai đoạn từ 1935 tới 1938 được nhạc sĩ Phạm Duy gọi là "thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt Nam".
Giai đoạn 1938–1945
Giai đoạn này bắt đầu từ chuyến lưu diễn xuyên Việt của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên. Ông khi đó ở Sài Gòn, là người Việt duy nhất tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và đoạt được cảm tình của báo chí và radio. Năm 1937, ông phổ một bài thơ của người bạn và viết thành ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn, khi đó làm việc cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên và giúp ông soạn lời ca. Nguyễn Văn Cổn còn giới thiệu ông với Thống đốc Nam Kỳ. Thống đốc Nam Kỳ lúc bấy giờ là Pagès nghe ông hát và mời ông du lịch sang Pháp để tiếp tục học nhạc nhưng Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Ngược lại, ông lại đề nghị và được thống đốc Pagès tài trợ cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định để quảng bá những bài nhạc mới này. Năm 1938 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên thực hiện một chuyến lưu diễn từ Nam ra Bắc nhằm cổ động cho âm nhạc cải cách. Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại Hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã cho việc hô hào của ông là thừa, vì các bài hát cải cách đã có sẵn ở đây. Tại Hội Trí Tri (Hải Phòng), Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm. Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài "Bông cúc vàng".]] Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc Làn Sóng Xanh do Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Người đoạt giải là ca sĩ Lam Trường với ca khúc "Tình thôi xót xa" (Bảo Chấn) khiến trào lưu nhạc trẻ ra đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: "Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến,..." góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi danh như: Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh Lam, Thu Phương, Quang Linh, Quang Dũng, Lệ Quyên, Đàm Vĩnh Hưng, Mỹ Tâm, Tuấn Hưng, Phương Thanh, Thanh Thảo, Hiền Thục, Đan Trường, Cẩm Ly,...
Nhạc sĩ trẻ Hoài An đoạt giải thưởng từ cuộc thi sinh viên với bài hát "Tình thơ" với phần hòa âm mới lạ hiện đại lúc bấy giờ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc Việt Nam: phần nhạc dạo đầu bài hát và phần hòa âm phối khí được chú trọng hơn so với trước đây làm cho ca khúc Việt Nam trở nên hiện đại hơn, hay hơn.
Tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều nhạc sĩ hòa âm phối khí như: Quốc Dũng, Bảo Chấn, Sỹ Dan, Tùng Châu, Quốc Trung, Mạnh Trinh, Trần Thanh Tùng, Quang Phúc, Đức Trí, Hoài Sa, Lê Quang, Lý Huỳnh Long,... Nghề mix nhạc (DJ) cũng xuất hiện.
Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: "Vọng cổ buồn" (Minh Vy)", Đêm Gành Hào nghe điệu Hoài Lang" (Vũ Đức Sao Biển)", Quê em mùa nước lũ" (Tiến Luân)", Duyên phận" (Thái Thịnh),"..."
Vài ca sĩ Việt Nam có hoài bão vươn ra thị trường âm nhạc thế giới và đã đạt được một số thành công ban đầu: Mỹ Tâm được đài truyền hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất, Hồ Quỳnh Hương đoạt giải Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng.
V-pop
nhỏ|216x216px|phải|[[Sơn Tùng M-TP là nam ca sĩ tiêu biểu của dòng nhạc V-pop]]
Thành công với các ca khúc nhạc trẻ mà báo chí ngưỡng mộ, cái tên phát triển cho ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều khán giả trẻ, vào năm 2005, cái tên V-pop đã xuất hiện làm cho nhiều thần tượng và khán giả rất tò mò. Đặc biệt là sự nổi lên của làn sóng nhạc Hàn Quốc, nên nhiều ca sĩ đã bắt chước model của Hàn Quốc và các giai điệu âm nhạc của nó. Tuy nhiên V-pop vẫn chưa có các tác phẩm âm nhạc, nhạc sĩ và ca sĩ được đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật có thể trường tồn qua sự đào thải của thời gian.
Đến năm 2017, dòng nhạc trẻ đã trở nên phổ biến toàn Việt Nam, ở YouTube, nhiều bài hát đã đạt được 100 triệu lượt xem, như "Lạc trôi" (Sơn Tùng M-TP), "Vợ người ta" (Phan Mạnh Quỳnh), "Bống bống bang bang" (365daband),...