✨Nguyễn Văn Thương (nhạc sĩ)

Nguyễn Văn Thương (nhạc sĩ)

Nguyễn Văn Thương (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Văn Thương thuộc thế hệ đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam.

Được truyền cảm hứng niềm âm nhạc từ nhỏ, ông sớm tiếp xúc với nền âm nhạc mới trước Cách mạng của Việt Nam. 13 tuổi, Nguyễn Văn Thương nhập học Trường Quốc Học Huế và được đào tạo âm nhạc bài bản từ cả nền âm nhạc phương Tây và âm nhạc cổ truyền phương Đông. Sớm có sự thành công từ những tác phẩm đầu tay, Nguyễn Văn Thương tiếp tục tham gia con đường nghệ thuật Cách mạng. Ông là tác giả của những ca khúc tiền chiến đáng chú ý như "Đêm đông", "Trên sông Hương" và cả những ca khúc cách mạng như "Bình Trị Thiên khói lửa". Nguyễn Văn Thương đã quản lý, dàn dựng và dẫn dắt các Đoàn Văn công nghệ thuật của Việt Nam được biểu diễn trong và ngoài Việt Nam. Ông cũng là một nhà giáo với công tác đào tạo, nâng cấp và quản lý các cơ sở âm nhạc, giúp cho những nơi này trở thành những trung tâm đào tạo âm nhạc uy tín. Xuyên suốt hành trình sự nghiệp sáng tác, quản lý và đào tạo, Nguyễn Văn Thương đóng góp một vai trò quan trọng đối với nền âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20.

Với những đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, Nguyễn Văn Thương được nhà nước Việt Nam phong tặng nhiều huân huy chương cùng các giải thưởng danh giá. Ông qua đời vào cuối năm 2002 ở tuổi 83.

Thân thế

Nguyễn Văn Thương sinh ngày 22 tháng 5 năm 1919 trong một gia đình công chức tại huyện Hương Thuỷ (nay là thị xã Hương Thuỷ), thành phố Huế thuộc miền Trung Việt Nam. Cha ông là một công chức nhưng yêu thích âm nhạc. Mẹ ông là một người biết chơi đàn tranh và thuộc nhiều dân ca Trung Bộ cũng như Hò Huế. Từ nhỏ, cha mẹ đã truyền cảm hứng âm nhạc cho ông từ những tiếng đàn và điệu hát. Năm 9 tuổi, Nguyễn Văn Thương được cha mẹ cho học đàn nguyệt với một nghệ nhân.

Đầu những năm 1930, âm nhạc phương Tây ngày càng du nhập sâu vào Việt Nam qua nhiều phương thức. Trong thời gian này, ông được bố mẹ mua cho cây đàn mandolin và tự học cách diễn tấu, cũng là nhạc cụ phương Tây đầu tiên mà Nguyễn Văn Thương được học. Năm 1932, Nguyễn Văn Thương được nhập học ở Trường Quốc học Huế. Tại đây, ông có dịp được tiếp xúc nhiều nhạc phương Tây khác như guitare, acordeon, piano, saxophone...

Thời kỳ này, Việt Nam đang phổ biến phong trào "Lời Ta điệu Tây". Cũng giống như nhiều nhạc sĩ yêu nước đương thời, Nguyễn Văn Thương đã không tán thành xu hướng bị xem là "ngoại lai" này. Những bài hát của các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước... đã giúp ông tự chọn con đường phát triển của âm nhạc Việt Nam mà bản thân sẽ đi theo.

Đời tư

Nguyễn Văn Thương kết hôn với nghệ sĩ ưu tú Đặng Thị Thanh Hảo.

Sự nghiệp

Những năm đầu

Năm 1936, sau khi tốt nghiệp trung học ở Trường Quốc học Huế, Nguyễn Văn Thương chuẩn bị ra Hà Nội để học thi tú tài. Trong buổi du ngoạn sông Hương trước khi rời Huế, ông đã sáng tác ca khúc đầu tay "Trên sông Hương". Nguyễn Văn Thương đã trau chuốt, sửa chữa và cộng tác với Kim Minh trong phần ca từ để ca khúc trở thành một tác phẩm nổi tiếng. "Đêm đông" không những là điểm khởi đầu định danh cho Nguyễn Văn Thương mà cũng là tác phẩm giúp cho ca sĩ Bạch Yến có được sự chú ý ban đầu trong sự nghiệp khi bà mới 15 tuổi.

Tham gia cách mạng và hoạt động nghệ thuật

nhỏ|211x211px|Bưu điện trung tâm Sài Gòn vào thập niên 1930, là nơi Nguyễn Văn Thương từng làm việc Từ năm 1938, Nguyễn Văn Thương vào Sài Gòn thi ngạch kiểm soát viên bưu điện từ đó ông làm việc tại Bưu điện trung tâm Sài Gòn. Tại đây, ông vẫn tiếp tục sáng tác âm nhạc và dạy đàn, đồng thời làm quen với các nhạc sĩ ở khu vực Nam Bộ như Lưu Hữu Phước. Năm 1942, ca khúc "Bướm hoa" ra đời. Ca khúc này ông cũng hợp tác với Kim Minh trong phần lời. Bài hát được xuất bản năm 1943 và được tái bản nhiều lần. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Văn Thương còn sáng tác nhiều ca khúc khác, tuy vậy 3 ca khúc đầu tay của ông là "Trên sông Hương", "Đêm đông" và "Bướm hoa" vẫn là những ca khúc có đóng góp đáng kể cho dòng ca khúc lãng mạn của phong trào Tân nhạc Việt Nam thời bấy giờ.

Năm 1944, Nguyễn Văn Thương được chuyển về Huế. Trong những ngày đầu của Cách mạng tháng Tám, ông thoát ly tham gia chiến tranh vào cuối năm 1946 khi lên chiến khu cùng cơ quan. Năm 1948, ông được làm quyền Giám đốc Bưu điện Liên khu IV. Thời gian này, Pháp mở nhiều cuộc càn quét Việt Nam. Những cảnh tượng người chết đẫm máu đã khiến Nguyễn Văn Thương sáng tác "Bình Trị Thiên khói lửa" trong hai đêm thức trắng. Ca khúc được biểu diễn lần đầu tiên trong đêm gặp mặt ủng hộ người dân Bình Trị Thiên ở khu IV vào mùa thu năm 1948. Ca khúc đã đánh dấu bước ngoặt trong thế giới quan cũng như bút pháp sáng tác của Nguyễn Văn Thương. Từ đây, ông đã sáng tác các tác phẩm nói đến vấn đề lớn về dân tộc Việt Nam, của cách mạng cùng với việc vận dụng các chất liệu âm nhạc trong kho tàng âm nhạc dân gian Việt Nam.

Cuối năm 1948, Nguyễn Văn Thương nghỉ việc ở Bưu điện và chuyên tâm vào công việc hoạt động nghệ thuật hơn. Ông phụ trách về mảng âm nhạc và làm Ủy viên Ban chấp hành Chi hội Văn nghệ liên khu IV. Ông cùng một số nhạc sĩ như Nguyễn Khoa Châu hay Lê Yên mở lớp dạy nhạc. Một số học sinh của những lớp nhạc đó về sau trở thành những nhạc sĩ có tiếng như Nguyễn Văn Tý, Văn Ký. Năm 1949, Nguyễn Văn Thương gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1950, ông bị thực dân Pháp bắt và tống giam trong một nhà lao Toà Khâm sứ ở Huế. Tuy vậy sau một thời gian do không tìm được bằng chứng buộc tội nên Pháp đã thả Nguyễn Văn Thương ra, từ đó nhạc sĩ thoát ly khỏi vùng tự do. Trong thời gian 9 năm của cuộc chiến tranh Đông Dương, rất nhiều ca khúc của ông đã bị thất lạc.

Năm 1951, ông trở về làm Ủy viên Thường vụ Chi hội Văn nghệ kiêm Trưởng đoàn văn công của Liên khu IV. Cuối năm 1953, ông đã cùng Đoàn Văn công lên đường tham gia chiến dịch Trung Lào và sau đó là chiến dịch Điện Biên Phủ. Cuối năm 1954, Nguyễn Văn Thương lại được điều động ra công tác tại Đoàn Văn công Trung ương Việt Bắc. Miền Bắc Việt Nam thắng trận trong Chiến tranh Đông Dương, ông cùng đoàn quân Việt Nam chiến thắng về tiếp quản lại Hà Nội. Cũng trong những ngày này, ông được giao nhiệm vụ quay trở lại Liên khu IV tìm người để xây dựng Đoàn Văn Công trung ương. Năm 1955, Nguyễn Văn Thương là người chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Văn công Việt Nam đầu tiên tham dự Festival Thanh niên quốc tế tại Warszawa. Cùng năm, ông được cử làm Trưởng đoàn Văn công Trung ương cho tới năm 1964. Trong suốt thời gian mười năm đó, ông đã dẫn nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam tham dự và biểu diễn ở nhiều quốc gia trên Thế giới. Những năm này, nhạc sĩ đã sáng tác nhiều tác phẩm nhạc múa cho các Đoàn Văn công như thơ múa "Chim gâu", kịch múa "Tấm Cám" cộng tác với nhạc sĩ Văn Chi. Bản kịch múa "Tấm Cám" đã nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Ông cũng viết thêm nhạc cho một số điệu múa như "Múa ô", "Múa sạp", "Chàm Rông", "Thiếu nữ bên hồ".

Bên cạnh nhạc múa, Nguyễn Văn Thương còn sáng tác nhiều ca khúc trong thời gian này. Đây cũng là thời điểm ông tham gia viết nhạc cho phim truyện và phim tài liệu như "Vợ chồng A Phủ", "Dòng sông âm vang", "Hai bà mẹ". Năm 1960, ông viết một số tác phẩm cho nhạc cụ truyền thống Việt Nam, tiêu biểu là bài "Nhớ về Nam" cho sáo trúc độc tấu với dàn nhạc dân tộc. Năm 1964, Nguyễn Văn Thương được cử đi thực tập tại Nhạc viện Bắc Kinh, Trung Quốc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Văn hóa nổ ra khiến ông phải bỏ dở việc học và trở về nước. Ông bắt đầu bước vào lĩnh vực sáng tác khí nhạc. Tác phẩm đầu tay được nhạc sĩ viết trong lĩnh vực này là "Quê hương Tây Nguyên" viết cho piano, sau đó là vũ khúc "Tây Nguyên vui chiến thắng" cho violin và piano vào năm 1965. Tác phẩm này đã từng được phát trên Đài phát thanh Tiếng nói Bắc Kinh. Bài hát "Tiếng hát muôn phương" (lời Xuân Oanh) sáng tác năm 1958 của ông nhận được Bằng khen tại Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới ở Viên, Áo.

Năm 1968, Nguyễn Văn Thương được tiếp tục đi thực tập tại Nhạc viện Leipzig (từng là Cộng hoà Dân chủ Đức). Ông là nhạc sĩ tiền chiến thứ hai được tu nghiệp ở nước ngoài sau Đỗ Nhuận. Tại nơi đây, ông được tiếp xúc với nhiều nhạc sĩ, giáo sư âm nhạc của Đức với nhiều các tác phẩm âm nhạc đương đại trên toàn thế giới. Trong thời gian học tập tại Đức, Nguyễn Văn Thương đã viết bản giao hưởng "Đồng Khởi" vào năm 1971. Đến cuối năm 1971, bản giao hưởng được biển diễn lần đầu tiên tại Đức trong ngày kỷ niệm thành lập Nhạc viện Leipzig và ngày đoàn kết Cộng hoà Dân chủ Đức với Việt Nam.

Trở về nước, làm công tác quản lý và đào tạo

Tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thương trở về Việt Nam và được làm giám đốc Trường Âm nhạc Việt Nam (sau đó là Nhạc viện Hà Nội, nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam). Trong suốt 12 năm từ 1972 đến 1984, Nguyễn Văn Thương làm công tác quản lý và đào tạo tại ngôi trường này. Ông là một trong những người có công xây dựng trường từ một trường Trung cấp thành trường Đại học, trở thành một trung tâm đào tạo âm nhạc lớn của Việt Nam. Nhận thức được thời đại của nhạc nhẹ, ông đã nhanh chóng cử các ca sĩ và nhạc công sang học nhạc nhẹ ở các quốc gia Đông Âu. Qua đó, ông có sự đóng góp tích cực trong công tác đào tạo âm nhạc cho Việt Nam.nhỏ|233x233px|Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, nơi Nguyễn Văn Thương từng làm giám đốc trong 12 nămNguyễn Văn Thương là người đưa hệ trung cấp khoa âm nhạc cổ truyền của Nhạc viện Hà Nội lên bậc đại học. Ông cũng là tác giả của một số quyển sách giáo khoa như "Tuyển tập piano" (hệ trung cấp), "Tuyển tập 16 bài hát dân ca và dân vũ Việt Nam" (soạn cho piano được nhà xuất bản Peters của Cộng hoà Dân chủ Đức ấn hành năm 1972). Nhạc sĩ cũng viết những tác phẩm sân khấu như "Mệnh lệnh", "Cải tô" và dịch cuốn "Beethoven" do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành.

Mặc dù công tác quản lý và đào tạo đã chiếm đáng kể vốn thời gian nhưng Nguyễn Văn Thương vẫn dành thời gian và tâm huyết cho việc sáng tác. Ông đã viết một ca khúc trong thời gian này như "Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ", "Gửi Huế giải phóng", "Dâng người tiếng hát mùa xuân",... hợp xướng gồm có "Dân ta đánh giặc anh hùng" vào năm 1972. Ngoài ra, ông còn viết một số tác phẩm cho dàn nhạc dân tộc như "Ngày hội quê hương", tổ khúc "Quê hương" (hợp tác với nhạc sĩ Hoàng Dương), "Buôn làng vào hội" cho đàn tre lắc và bộ gõ tre nứa. Đối với khí nhạc phương Tây, ông viết 4 bản romance cho cello và piano cùng một số tác phẩm cho đàn khác như violin. Ông cũng viết nhạc phim cho những bộ phim "Thành phố lúc rạng đông", "Sao Tháng Tám", "Ngày ấy bên bờ sông Lam"... Từ năm 1979 đến 1983, ông làm giám đốc Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam.

Năm 1982, ông được Nhà nước Việt Nam phong học hàm Giáo sư. Đến năm 1984, ông nghỉ công tác quản lý và chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh để làm cố vấn cho Sở Văn hoáthông tin thành phố. Cũng trong thời gian này, ông còn tham gia hội đồng khoa học tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1987, ông nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục công việc sáng tác âm nhạc. Đánh giá cao công lao trong việc chỉ đạo nghệ thuật và dàn dựng chương trình cho các đoàn văn công biểu diễn trong và ngoài nước trong nhiều chục năm qua, Nguyễn Văn Thương được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1993.

Những năm cuối và qua đời

Trong những năm cuối đời, Nguyễn Văn Thương có những sáng tác đạt nhiều giải thưởng lớn dù tuổi cao và sức khoẻ kém. Những sáng tác trong thời gian này chủ yếu là sáng tác khí nhạc phương Tây như Romance số 2 "Bên dòng sông thương", Romance số 3 và 4. Các tác phẩm này đều viết cho cello. Năm 1997, ông còn viết "Vũ khúc ngày hội" cho 8 đàn cello. Ông cũng viết một số tác phẩm cho dàn nhạc giao hưởng như "Rhapsodie số 2" cho đàn t'rưng và dàn nhạc năm 1996, "Capriccio" cho dàn nhạc giao hưởng năm 1999. Ông qua đời vào ngày 5 tháng 12 năm 2002, Ông cũng là một trong 9 nhạc sĩ được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật đợt 2 năm 2000.

Đánh giá và phong cách nghệ thuật

Nguyễn Văn Thương là một nhạc sĩ sáng tác nhiều thể loại nhạc. Nhìn chung, các tác phẩm của ông được xem là "đậm bản sắc dân tộc" vì ngôn ngữ âm nhạc được khai thác từ chất liệu âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Ông đã vận dụng âm điệu, tiết tấu đặc trưng trong âm nhạc dân gian với thủ pháp sáng tác đa dạng để tạo nên những hình tượng âm nhạc. Nguyễn Văn Thương được xem là người tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam ở Huế. Tuy vậy khi so với thời điểm các tác phẩm thanh nhạc ra đời, các tác phẩm khí nhạc của Nguyễn Văn Thương ra đời muộn hơn rất nhiều. Năm 1960, "Nhớ về Nam" là tác phẩm khí nhạc đầu tay của ông, là tác phẩm viết cho sáo trúc độc tấu và dàn nhạc dân tộc. Tuy viết khí nhạc muộn nhưng ông đã có nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại, nhưng chủ yếu ở các thể loại thính phòng, giao hưởng và nhạc cụ dân tộc. Các tác phẩm này cũng có được sự thành công nhất định ở trong và ngoài Việt Nam. Sáng tác khí nhạc cũng được nhận định là một lĩnh vực quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Các tác phẩm thính phòng của Nguyễn Văn Thương có cấu trúc vừa và nhỏ, thường là các tiểu phẩm, vũ khúc, tổ khúc được viết ở hình thức 2, 3 đoạn đơn hay 3 đoạn phức. Một số tác phẩm khác ông thường viết ở hình thức rondo hay biến tấu.

Khí nhạc phương Tây

Tác phẩm đầu tiên ông viết cho piano là "Quê hương Tây Nguyên", cũng là tác phẩm viết cho piano thành công nhất của ông. Tác phẩm này là một tổ khúc gồm nhiều đoạn nhạc độc lập có sự tương phản về sắc thái, nhịp độ cũng như chất liệu âm nhạc. Nhạc phẩm viết cho violin và piano tiêu biểu của ông là "Tây Nguyên vui chiến thắng", được sáng tác khi ông tu nghiệp ở Trung Quốc. Đây là tác phẩm thính phòng tiêu biểu được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Ông sử dụng những đặc trưng của âm nhạc dân gian Tây Nguyên, qua đó miêu tả hình ảnh núi rừng và con người nơi đây một cách "chân thực". Đối với các tác phẩm viết cho cello và piano, tiêu biểu nhất là 4 tác phẩm mà ông gọi là "romance". Trong đó Romance số 1 "Trở về đất mẹ" được nhận định là bài đáng chú ý nhất, thường được nhận xét "cảm xúc sâu lắng".

Nhạc cụ truyền thống

Ở giao hưởng, ông sử dụng thông thạo những nhịp nhạc thuần Việt như , cùng với các nhạc cụ gõ như mõ, cồng.

Với vai trò là một nhà giáo và là người quản lý công tác giáo dục, Nguyễn Văn Thương có đóng góp tích cực trong công tác đào tạo âm nhạc cho Việt Nam. Ông là người phát hiện ra nhiều tài năng nghệ thuật và đưa về Nhạc viện Hà Nội đào tạo trong đó có nhiều nghệ sĩ của Nhà hát Ca Múa Nhạc Việt Nam và sau này đều trở thành những nghệ sĩ có tên tuổi như: Quang Thọ, Thu Hiền, Lệ Quyên, Ái Vân,... Nghệ sĩ nhân dân Quang Thọ cho biết nếu không có Nguyễn Văn Thương, ông sẽ không có được sự nghiệp âm nhạc như hiện tại. Nguyễn Văn Thương cũng là một trong những người có công xây dựng nhạc viện Hà Nội từ một trường Trung cấp thành trường Đại học, trở thành một trung tâm đào tạo âm nhạc lớn của Việt Nam, đồng thời cũng là người nâng hệ trung cấp khoa âm nhạc truyền thống của Nhạc viện Hà Nội lên bậc đại học.

Năm 1996, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam đã tổ chức kỷ niệm 60 năm hoạt động âm nhạc của ông bằng một đêm nhạc lớn ở Cung thiếu nhi Hà Nội. Năm 2019, một chương trình nghệ thuật đặc biệt mang tên "Trở về đất mẹ" đã được tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.

Tác phẩm

Dưới đây là danh mục tác phẩm của Nguyễn Văn Thương dựa trên sách của Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Tú Hương.

Ca khúc

Bài hát

"Trên sông Hương" "Đêm đông" "Bướm hoa" "Leo núi Bạch Mã" "Ngày xanh" "Trên đường khuya" "Tình trăng" "Khóc cơ hàn" "Bình Trị Thiên khói lửa" "Tiếng hát muôn phương" "Bài ca trên núi" "Bài ca Việt Lào" "Bài ca đã hẹn" "Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ" "Gửi Huế giải phóng" "Dâng Người tiếng hát mùa xuân" "Hai dòng sông mong nhớ" "Thu Hà Nội" "Mùa thu tuyệt vời" "Yêu Huế" *"Bài ca trong hang đá"

Nhạc cho kịch múa

  • "Múa ô"
  • "Múa sạp"
  • "Chàm Rông"
  • "Thiếu nữ bên hồ"
  • "Mùa hoa đào nở"

Hợp xướng

"Tiến lên toàn thắng ắt về ta" "Dân ta đánh giặc anh hùng"

Khí nhạc và giao hưởng

Nhạc cụ phương Tây

  • "Quê hương Tây Nguyên"
  • "Phi ngựa bắn cung"
  • "Múa sạp"
  • "Múa Mèo"
  • "Đàn bướm mùa xuân"
  • "Inh noọng ơi"
  • "Tây Nguyên vui chiến thắng"
  • "4 Romance cho Cello" Romance số 1 "Trở về đất mẹ" Romance số 2 "Bên dòng sông Thương"
  • "Vũ khúc ngày hội"

Nhạc cụ truyền thống

  • "Nhớ về Nam"
  • "Ngày hội non sông"
  • "Ngày hội Tây Nguyên"
  • "Quê hương"
  • "Buôn làng vào hội"
  • "Rhapsodie số 2 cho T'rưng"

Giao hưởng

  • "Đồng Khởi"
  • "Capriccio"
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Nguyễn Văn Chung** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983) là một nhạc sĩ người Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Văn Chung sinh ngày 12 tháng 4 năm 1983 tại Thành
**Nguyễn Văn Nam ** (14 tháng 7 năm 1932 – 17 tháng 5 năm 2020) là giáo sư, tiến sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng tại Việt Nam. Ông là nhà soạn nhạc Việt Nam đầu
**Nguyễn Văn Tuyên** (1909-2009) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Các buổi biểu diễn nhạc cải cách trước công chúng của ông được xem là mốc khởi đời cho nền tân nhạc Việt Nam,
**Nguyễn Văn Khánh** (1922 - 20 tháng 8, 1976) là một nhạc sĩ tiền chiến người Việt Nam. ## Cuộc đời **Nguyễn Văn Khánh**, sinh năm 1922 tại Hà Nội, là một nhạc sĩ nổi
**Văn An** (1929–2011) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là một trong những người được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Thị Nhung** (sinh năm 1936) là một phó giáo sư, tiến sĩ, nữ nhạc sĩ Việt Nam. Là nữ nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên tham gia sáng tác nhạc giao hưởng, Nguyễn Thị
**Nguyễn Ngọc Thiện** sinh năm 1951 tại thành phố Hồ Chí Minh, là bác sĩ, nhạc sĩ Việt Nam, được phong danh hiệu Thầy thuốc ưu tú năm 2004 và được tặng Giải thưởng Nhà
**Nguyễn Hải Phong** (sinh ngày 23 tháng 5 năm 1982) là một nam nhạc sĩ, ca sĩ, nhà soạn nhạc kiêm nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Anh từng giành được hai đề
**Trần Trọng Ngọc** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1933), thường được biết đến với nghệ danh **Tuấn Khanh**, là một nam nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Việt Nam. ## Tiểu sử Năm 1950,
Nhạc sĩ **Văn Chung** (1914 - 1984) thuộc thế hệ tiên phong của nền tân nhạc Việt Nam, ông là tác giả của những nhạc phẩm nổi tiếng _Bóng ai qua thềm_, _Trên thuyền hoa_...
**Nguyễn Đức Cường** là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ,nhà sản xuất thu âm thể loại nhạc trẻ của Việt Nam. Anh là cựu thành viên của nhóm _Nét nhạc mới_. ## Tiểu sử và
**Nguyễn Hữu Trí** (1917-1979) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông là tác giả của bài hát nổi tiếng "Tiểu đoàn ba lẻ bảy" viết về Tiểu đoàn 307 thời chống Pháp. ## Cuộc đời
**Phan Văn Minh** sinh năm 1954 tại Quảng Nam, là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2022. "Cả nhà thương nhau" là ca khúc nổi
**Nguyễn Văn Tý** (5 tháng 3 năm 1924 - 26 tháng 12 năm 2019) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông có nhiều sáng tác từ dòng nhạc tiền chiến như _Dư âm_ đến
**Nguyên Thảo** (sinh năm 1940) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước năm 1975. Ngoài ra, ông còn là chủ nhà xuất bản Nguyên Thảo trước năm 1975. ## Cuộc đời Nhạc sĩ Nguyên Thảo,
**Đào Duy Anh**, tên tiếng Anh là **David Dao** (sinh 1948) là một ca sĩ, nhạc sĩ, bác sĩ người Mỹ gốc Việt. Ông sáng tác nhiều bài hát dựa trên nền tảng âm nhạc
**Ngân Giang** (tên khai sinh: **Nguyễn Văn Vỹ**, 1946 – 2009) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam, hoạt động nghệ thuật tại Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông còn có
**Nguyễn Văn Quỳ** (2 tháng 1 năm 1925 – 27 tháng 1 năm 2022) là một nhà soạn nhạc và nhạc sĩ người Việt Nam. Nguyễn Văn Quỳ chuyên sáng tác các thể loại như
**Nguyễn An** (1930 – 2011) là nhạc sĩ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007. Ca khúc _Em có nghe âm thanh ngày mới_ là tác phẩm
**Lê Chí Trực** (28 tháng 2 năm 1928 – 31 tháng 12 năm 1967), hay còn được biết đến rộng rãi với bút danh **Hoàng Việt**, là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là
**Nguyễn Văn Đông** (15 tháng 3 năm 1932 – 26 tháng 2 năm 2018) nguyên là một sĩ quan bộ binh cao cấp trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang
**Hoài Linh** (1920 – 1995) tên thật **Lê Văn Linh** là một nhạc sĩ nhạc vàng nổi tiếng. Trước 1975, ông hoạt động trong đoàn văn nghệ **Vì Dân** (thuộc Nha Cảnh sát Quốc gia)

, là một nhạc sĩ, nghệ sĩ Visual Kei/J-Rock Nhật Bản nổi tiếng. Thường được gọi bởi nghệ danh **hide** (phát âm theo tiếng Nhật , viết hoa toàn bộ khi hoạt động trong

**Hồng Đăng**, tên thật **Phan Đăng Hồng**, (1 tháng 1 năm 1936 – 21 tháng 3 năm 2022) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
nhỏ|Bộ đôi nhạc sĩ sáng tác bài hát [[Rodgers và Hart đang sáng tác ca khúc vào năm 1936]] **Nhạc sĩ sáng tác bài hát** (hay còn gọi là **nhạc sĩ sáng tác ca khúc**,
**Trần Thanh Phương** (hay **Thanh Phương**, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1969) là một nam nhạc công, kĩ sư âm thanh, giám đốc âm nhạc, nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất thu âm người
**Phaolô Nguyễn Văn Hòa** (1931 – 2017) là một Giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma, đồng thời là một nhạc sĩ nhạc Công giáo. Ông từng giữ các vị trí giám
**Trần Hoàn** (tên thật là **Nguyễn Tăng Hích**, còn có bút danh **Hồ Thuận An;** – ) là một nhạc sĩ và chính khách Việt Nam, với phần lớn các ca khúc thuộc dòng nhạc
**Hồng Vân** (tên thật **Trần Công Quý**, sinh năm 1938) là một nhạc sĩ nhạc vàng Việt Nam. Ông là tác giả ca khúc nổi tiếng “Đồi thông hai mộ” và nhiều bài hát khác
**La Thăng** sinh năm 1930, quê tại Từ Liêm, Hà Nội là nhạc sĩ, nhà quản lý văn hóa Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012. ##
**Bùi Đức Hạnh** sinh ngày 8 tháng 8 năm 1931 tại Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, là nhạc sĩ, nhà nghiên cứu chèo Việt Nam. Ông được phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú và sau
**Ngọc Bích** (tên đầy đủ: **Nguyễn Ngọc Bích**, 1924 - 2001) là một nhạc sĩ tiền chiến Việt Nam, được biết đến nhiều qua các ca khúc như "Đôi chim giang hồ", "Trở về bến
**Nguyễn Văn Cổn** ( 1911-1992), là một nhà thơ Việt Nam. Năm 1960, ông được nhận vào làm việc tại Bộ Quốc gia Giáo dục Pháp và đã định cư ở nước ấy. ## Tiểu
**Ngọc Khuê** (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1947), là một nhạc sĩ người Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với ca khúc "Mùa xuân làng lúa làng hoa". Ngoài ra, ông cũng
**Xuân Lôi** (17 tháng 10 năm 1917 - 29 tháng 8 năm 2006) là một nhạc sĩ Việt Nam có khả năng chơi 27 loại nhạc cụ. Ông là anh trai của nhạc sĩ Xuân
**Minh Châu** (tên thật **Trần Minh Châu**), sinh ngày 15 tháng 8 năm 1960 tại Đà Nẵng và lớn lên tại Sài Gòn, là một nhạc sĩ người Việt Nam, hội viên Hội Nhạc sĩ
**Ngọc Sơn** (tên đầy đủ: **Thái Ngọc Sơn**, sinh năm 1934) là một nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam trước năm 1975 tại Sài Gòn. Ông còn có bút danh là **Lệ Uyên**, **Tú
**Hoài Nam** (sinh 1942) là một nhạc sĩ nhạc vàng trước năm 1975. Ông là tác giả một số ca khúc như "Ba tháng quân trường", "Chín tháng quân trường", "Tình bạn Quang Trung". ##
**Trần Mạnh Hùng** (sinh năm 1973) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là một trong những nhạc sĩ đáng chú ý tại Việt Nam trong chuyển soạn, phối khí nhạc giao hưởng. Trần
**Thanh Sơn** (1 tháng 5 năm 1940 – 4 tháng 4 năm 2012) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông được biết đến từ thập niên 1960 với những ca khúc trữ tình nói về
**Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh** (2 tháng 10 năm 1912 – 8 tháng 2 năm 1971) là một linh mục, tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo và là một nhạc sĩ Công giáo
**Nguyễn Văn Hiên** (sinh ngày 3 tháng 6 năm 1953), quê ở Bình Định, là một nhạc sĩ Việt Nam, từng hoạt động trong phong trào thanh niên từ sau năm 1975 và tốt nghiệp
là một nhạc sĩ, người viết ca khúc, và nhà sản xuất âm nhạc nổi tiếng của Nhật Bản. Anh là được biết đến như một trong những thành viên nổi tiếng nhất đồng sáng
**Vũ Đinh Trọng Thắng** (sinh ngày 6 tháng 11 năm 1995), hay ngắn gọn là **Thắng** hoặc **Thắng Ngọt** là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát, nhà sản xuất âm nhạc
**Hoàng Cương** là một phó giáo sư, nhạc sĩ, nhà giáo nhân dân người Việt Nam. Ông từng là Giám đóc Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Với vai trò là nhạc sĩ, ông
**Nguyễn Thanh Tùng** (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1979 ) là một nhạc sĩ, nghệ sĩ đàn bầu Việt Nam. Anh nổi tiếng với tiếng đàn truyền cảm và nhiều sáng tác cho các
**Prince Rogers Nelson** (7 tháng 6 năm 1958 – 21 tháng 4 năm 2016), được biết đến bởi nghệ danh **Prince**, là một ca sĩ, người viết bài hát, nhạc công đa nhạc cụ, nhà
**Diên An** (sinh năm 1934) là một nhạc sĩ, nhà quay phim và đạo diễn tại miền Nam Việt Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 với một loạt tác phẩm chủ đề _"Người
**Lâm Tuyền** (1922 – 1997) là một nhạc sĩ nhạc tiền chiến và tình khúc 1954-1975 trước năm 1975. ## Cuộc đời Không rõ tên thật của ông, nhưng ông sinh năm 1922 tại Huế,