✨Tống Lý Tông

Tống Lý Tông

Tống Lý Tông (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh An Hiếu hoàng đế (建道備德大功復興烈文仁武聖明安孝皇帝), tên thật là Triệu Dữ Cử (趙與莒), Triệu Quý Thành (趙貴誠) hay Triệu Quân (趙昀), là vị hoàng đế thứ 14 của vương triều nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời cũng là vị hoàng đế thứ năm của thời đại Nam Tống (1127 - 1279).

Tống Lý Tông xuất thân là bà con xa với dòng hoàng tộc đang nắm giữ ngôi vua khi trước, nên lúc nhỏ phải sống trong nhân gian mặc dù có thân phận hoàng tộc. Đến năm 1221, ông được phong làm thừa tự trong phủ Nghi vương. Khi Tống Ninh Tông qua đời năm 1224, Hữu Thừa tướng Sử Di Viễn giả di chiếu phế truất hoàng tử và đưa Triệu Quân lên ngôi hoàng đế, trở thành Tống Lý Tông.

Mười năm đầu tiên thời Lý Tông chứng kiến sự chuyên quyền của Sử Di Viễn, Lý Tông chỉ có hư vị, không có thực quyền. Chỉ đến sau khi Di Viễn chết rồi (1233) thì ông mới có thể thân chính, trong một thời gian ngắn trọng dụng trở lại một số vị quan liêm khiết, chấn chỉnh triều cương; tuy nhiên chẳng bao lâu bọn gian thần lại nổi lên khiến triều chánh đại hoại. Về đối ngoại, năm 1233 Lý Tông vì muốn trả thù cho mối nhục Tĩnh Khang xưa kia, đã quyết định liên quân với Mông Cổ mà tiêu diệt nước Kim. Kim quốc bại vong thì Tống lại phải đối mặt với quân Mông Cổ hùng mạnh đã ở sát biên giới. Tháng 6 năm 1234, Lý Tông phát động Đoan Bình nhập Lạc hòng khôi phục miền Bắc Tống nhưng bị quân Mông Cổ đánh cho tan tác, kể từ đó bắt đầu chiến tranh Mông-Tống hơn 40 năm mà kết quả cuối cùng là Tống bị Mông Cổ tiêu diệt.

Sau khi tướng giỏi Mạnh Củng qua đời (1246), quốc lực Nam Tống ngày một suy yếu. Năm 1259, quân Mông Cổ huy động lực lượng lớn đánh Tống, nhưng bị tướng Vương Kiên đánh bại ở Điếu Ngư dẫn đến Mông Kha hãn tử trận; Hốt Tất Liệt phải quay về miền bắc tranh ngôi Đại Hãn. Sau chiến thắng đó, quyền hành trong triều rơi cả vào tay gian thần Giả Tự Đạo. Tự Đạo được phong Hữu Thừa tướng năm 1262, loại bỏ những người chống đối, nắm cả quốc sự sau khi Lý Tông qua đời.

Do các con của Tống Lý Tông đều chết sớm, nên ông phải lấy người con của em trai mình là Triệu Mạnh Khải làm người kế vị, tức là Tống Độ Tông về sau. Trong 40 năm trị vì, Tống Lý Tông ham mê sắc dục, không quan tâm triều chính, bên trong để gian thần Sử Di Viễn, Đinh Đại Toàn, Giả Tự Đạo lộng hành, bên ngoài sử dụng chính sách ngoại giao sai lầm; chính ông đã đẩy triều Nam Tống vào con đường diệt vong 15 năm sau ngày ông qua đời.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Thuở thiếu thời

Tống Lý Tông có tên lúc khai sinh là Triệu Dữ Cử, là cháu đời thứ 10 của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận, chào đời vào ngày Quý Hợi tháng giêng (26 tháng 1) năm nguyên niên Khai Hi (1205) thời Tống Ninh Tông tại ấp Trung Hồng, huyện Sơn Âm, phủ Thiệu Hưng. Ninh Tông căn cứ theo chuyện Cao Tông chọn Hiếu Tông xưa kia, cho tuyển khoảng 10 trẻ trong tông thất, tuổi khoảng 15 vào cung để chọn. Cuối cùng thì quyết định lập Quý Hòa làm hoàng tử vào ngày Bính Dần tháng 6 năm 1221, tiến phong Kì Quốc công. Nhưng như thế thì Nghi vương không có người kế vị. Bấy giờ trong triều, đại quyền nằm trong tay Hữu thừa tướng Sử Di Viễn. Khi đó có Dư Thiên Tích là môn khách trong nhà Di Viễn, tính tình cẩn trọng, được Di Viễn trọng dụng. Di Viễn không hài lòng với ngôi vị của hoàng tử Hoành, muốn dựng người khác lên, nên giả tiếng tìm hậu tự cho Nghi vương để thực hiện ý đồ của mình. Di Viễn sai Thiên Tích qua Thiệu Hưng nên tìm người nào hiền tài trong tông thất để làm người nối dõi cho Nghi vương.

Thiên Tích qua Việt Tây Môn thì trời đổ mưa, phải trú ở nhà ông ngoại Dữ Cử là Toàn Bảo Trường. Bảo Trường biết đó là môn khách của Sử thừa tướng nên phải hậu đãi. Thiên Tích thấy có hai đứa trẻ đứng hầu bên Bảo Trường, mới hỏi là ai, Bảo Trường đáp là hai đứa cháu ngoại Dữ Cử, Dữ Nhuế và kể về sự lạ trong lúc Dữ Cử chào đời. Thiên Tích về Lâm An, báo với Di Viễn. Di Viễn bảo Thiên Tích đem hai trẻ về kinh. Bảo Trường biết là phú quý đã đến, nên bán ruộng để sắm sửa hành lý và mướn người hộ tống hai cháu về kinh. Di Viễn thấy anh em Dữ Cử thì rất mừng nhưng sợ việc bị lộ ra nên mới cho về nhà Bảo Trường. Di Viễn kinh hoàng và từ đó muốn phế hoàng tử Hoành. Một dịp nhân ngày Di Viễn lên chùa cầu siêu cho phụ thân, có Quốc tử học lục Trịnh Thanh Chi là thầy của Quý Thành đến dự. Di Viễn mời Thanh Chi đến phủ, tiết lộ ý định phế lập của mình. Hằng ngày Thanh Chi dạy Quý Thành làm văn, học tập ngự thư của Cao Tông. Quý Thành tư chất vốn thông minh nên học một hiểu mười. Thanh Chi đưa những bài văn của Quý Thành cho Di Viễn xem. Di Viễn ca ngợi tài năng của Quý Thành và chê bai hoàng tử Hồng trước mặt Ninh Tông.

Từ ngày Bính Tuất tháng 8 năm thứ 17 (1224), Ninh Tông bị bệnh và từ đó không lên triều. Sử Di Viễn sai Trịnh Thanh Chi đến phủ Nghi vương báo về việc phế lập, Quý Thành im lặng không đáp. Thanh Chi nói :Sử Thừa tướng thấy Thanh Chi là bạn nhiều năm nên mới nói lời tận đáy lòng. Mà nay không nói lời nào thì Thanh Chi biết ăn nói thế nào với thừa tướng.

Quý Thành mới nói :Thiệu Hưng vẫn còn lão mẫu.

Thanh Chi đem việc đó nói với Di Viễn, cả hai hết lời khâm phục. Các đại thần Ngụy Liễu Ông, Hồng Tư Quỳ, Chân Đức Tú lên tiếng kêu oan cho Tế vương. Di Viễn đùng đùng nổi giận, liền tiến cử bọn Lương Thành Đại, Lý Tri Hiếu, Mạc Trạch vào Gián viện để chuyên lo việc áp chế các đại thần, người đương thời gọi chúng là tam hung.

Mùa hạ tháng 4 năm 1225, hoàng thái hậu có chỉ hết buông rèm. Lý Tông thân chính, truy tôn hoàng huynh Triệu Hoành làm thiếu sư, tiết độ sứ hai trấn; tiến phong Sử Di Viễn làm Thái sư Ngụy quốc công, Di Viễn từ chức Thái sư, không nhận. Tháng 8 năm đó, Di Viễn giật dây cho bọn tam hung bài xích Chân Đức Tú, Hồng Tư Quỳ, Ngụy Liễu Ông và Tế vương. Triều đình bãi chức ba đại thần, đuổi ra ngoài; giáng Tế vương làm Ba Lăng quận công, rồi huyện công (1226). Năm 1226, được bái làm Thiếu sư, ban cho ngọc đái. Năm 1228, được bái làm Thái phó nhưng Di Viễn tám lần từ không nhận.

Năm 1231 lập cháu gái của tiền thừa tướng Tạ Thâm Phủ là Tạ Đạo Thanh làm hoàng hậu. Hậu từ nhỏ mắt có màng, da ngăm đen. Đến lúc vào cung bỗng mắc bệnh sởi, sau khi khỏi bệnh thì trở nên xinh đẹp khác thường. Ban đầu Lý Tông có ý chọn Giả thị con gái của Giả Thiệp làm hậu, nhưng Dương thái hậu lại muốn lập Tạ thị, Lý Tông đành phải nghe theo, lập Tạ thị làm hậu; Giả thị làm quý phi. Năm 1232, Dương thái hậu qua đời, thọ 71 tuổi, thụy là Cung Thánh Nhân Liệt.

Năm 1232, Sử Di Viễn được tấn phong làm thái sư, Tả thừa tướng; Trịnh Thanh Chi làm Hữu thừa tướng. Không lâu sau Di Viễn có bệnh xin nghỉ, được phong Chiêu Tín quân tiết độ sứ, sung Lễ Tuyền quan sứ, gia phong Cối Kê quận vương. Năm 1233, Sử Di Viễn qua đời, thọ 70 tuổi. Lý Tông nghỉ triều ba ngày, truy tặng Trung thư lệnh, tước Vệ vương, thụy hiệu là Trung Hiến. Sau khi Di Viễn chết, Lý Tông mới có thể nắm quyền, liền cho đuổi bọn tam hung và tứ mộc, trọng dụng chính sĩ, triều chính một thời khởi sắc, sử xưng là Đoan Bình canh hóa. Lý Tông lại theo lời của Từ Kiều Thường, xuống chiếu rửa oan cho Tế vương Hoành, phục tước hiệu, cấp tiền nong cho vợ Tế vương là Ngô thị.

Đầu năm 1234, theo lời của Ngô Tiềm, Lý Tông cho triệu Chân Đức Tú và Ngụy Liễu Ông về triều làm ở viện Hàn lâm. Hai đại thần khuyên vua bỏ bớt yến tiệc và những thú vô bổ, chiêu nạp hiền sĩ. Lý Tông chăm chú lắng nghe lời nói thẳng. Lại triều Hồng Tư Quỳ, Vương Toại làm Giám sát ngự sử. Về sau còn cử Chân Đức Tú làm Tham tri chính sự, nhưng không lâu sau ông lâm bệnh qua đời. Lý Tông muốn dùng Ngụy Liễu Ông nhưng bị nhiều người phản đối, đành thôi.

Biến loạn ở Hoài Đông

Từ thời Ninh Tông, tướng Lý Toàn ở Hoài Đông dần xây dựng lực lượng, trở thành mối đe dọa với triều đình. Lý Toàn nguyên là thủ lĩnh đội quân Hồng áo tặc nhiều năm tung hoành ở Kim quốc, đến khi thất bại chạy sang hàng Tống, được Tống đình thu nạp. Về sau Toàn nhiều lần lập công đánh bại quân Kim, thế lực ngày một lớn, các chế trí sứ do triều đình bổ nhiệm đều chỉ là bù nhìn trong tay Toàn. Lúc này Hứa Quốc là chế trí sứ Hoài Đông, bất hòa với Lý Toàn. Lưu Khánh Phúc là tướng dưới quyền của Toàn, cũng ghét Hứa Quốc. Tháng 2 năm 1225, Lý Toàn giả cách xn đi Thanh châu, rồi bí mật sai Khánh Phúc làm loạn ở Sở châu. Khánh Phúc chỉ huy loạn quân đánh vào phủ của Hứa Quốc, giết hết gia thuộc ông ta, Quốc liền tự sát.

Tin biến loạn ở Sở châu bay về Lâm An. Sử Di Viễn không muốn động đến Lý Toàn nên sai Từ Hi Tắc đến làm chế trí sứ Hoài Đông. Lý Toàn vờ trách Khánh Phúc không quản tướng sĩ, rồi giết mấy người làm loạn. Bản thần Từ Hi Tắc sợ Lý Toàn như sợ cọp, không dám làm trái ý, còn gọi Toàn là ân phủ, vợ Toàn là Dương thị là ân đường. Khi đó Lý Toàn bị quân Mông Cổ đánh bại và hàng giặc, tại Sở châu Lưu Khánh Phúc và Lý Phúc không ưa nhau. Tháng 6 ÂL, Lý Phúc đặt phục binh trong phủ để giết Khánh Phúc, sau đó vay lương của Diêu Trưng, Trưng không nghe, Lý Phúc bèn làm phản tống cố Diêu Dũng khỏi Sở châu. Triều đình Tống dùng Dương Thiệu Vân kiêm chức chế trí sứ và từ đó không dám trọng Giang khinh Hoài nữa. Bộ hạ của Lý Toàn là Quốc An Dụng, Diêm Thông, Vương Nghĩa Thâm, Hình Đức cùng nhau giết Lý Phúc và con thứ của Lý Toàn là Thông, Dương thị phải chạy ra Hải châu. Triều đình cử Bành Thác đến Hoài Đông, bọn bốn tên kia liền bắt Bành Thác rồi hàng Mông Cổ. Tháng 9 năm đó, Lý Toàn nhận được tin dữ, liền xin với tướng Mông cho về nam trả thù. Quốc An Dụng giết bọn Trương, Hình, đầu hàng Toàn. Sử Di Viễn sai sứ đến nói nếu Toàn không đánh Hoài Nam thì sẽ ban tiết việt. Toàn vờ nghe theo, từ đó chiếm biên cương vùng Hoài, xưng thần với cả Tống và Mông Cổ. Quần thần biết Lý Toàn là người phản loạn, nhưng ngại Sử Di Viễn nên không dám nói. Về sau do thiếu lương thực, Toàn còn cả gan đến cướp lúa ở Lâm An. Do tri Dương châu Thạch Triều Tông cướp lúa, Toàn cho quân đánh Dương châu. Di Viễn thấy nguy nên xin phong Lý Toàn làm Tiết độ sứ hai trấn Chương Hóa, Bảo Khang kiêm Kinh Đông phủ sứ, bãi miễn Thạch Triều Tông, đưa Triệu Phu lên thay. Lý Toàn thừa dịp lấn tới, cho đòi tăng lương tiền cho quân sĩ.

Triệu Phạm, Triệu Quỳ cùng Triệu Thiện Tương căm ghét Lý Toàn. Từ màu hạ năm 1228, Sử Di Viễn bị bệnh nghỉ phép, Trịnh Thanh Chi chủ trương tiêu diệt phản loạn, triều đình liền kết tội Lý Toàn. Toàn giận lắm, đem quân đánh Dương châu. Sử Di Viễn lúc này đã khỏi bệnh, gửi thư cho Toàn đồng ý tăng lương tiền cho 5000 quân, khuyên Toàn về hàng nhưng Toàn không theo. Toàn đưa quân đánh hai châu Thông, Thái rồi đánh tiếp Dương châu. Bấy giờ là mùa đông năm thứ ba Thiệu Định (1230), Lý Toàn vây Dương châu đến tận mùa xuân năm 1231. Sau đó đến tết Thượng Nguyên, nhân khi Lý Toàn bày tiệc vui chơi, Triệu Phạm liền cho quân tấn công bất ngờ. Lý Toàn bại trận và bị giết chết. Triều đình phong Triệu Phạm làm Giang Hoài chế trí đại sứ, Triệu Phạm làm Hoài Đông An phủ sứ, Triệu Quỳ làm Đề hình Hoài Tây, ban thưởng cho tướng sĩ. Dương thị biết thời thế đã hết liền bỏ đi biệt tích. Về sau Phùng Ký đem ấn ra hàng, loạn binh ở Hoài Tây đến đó đã bình định xong.

Phá Thái diệt Kim

Kể từ năm 1215, do bị quân Mông Cổ uy hiếp, triều đình Kim phải dời đô về Biện Kinh. Không bao lâu sau, Yên Kinh và hầu hết những vùng đất phía bắc sông Hoàng Hà đều rơi vào tay Mông Cổ, nước Kim ngày càng suy nhược, nguy cơ diệt vong đã gần kề.

Năm 1227, Mông Thái Tổ Thành Cát Tư Hãn xuất chinh Tây Hạ và giành chiến thắng, tiêu diệt nước Hạ. Sau trận này, quân Mông Cổ dồn toàn lực tiêu diệt nước Kim. Năm 1230, Mông Thái Tông Oa Khoát Đài cùng em là Đà Lôi đem quân đánh Đồng Quan nhưng không được, nên sai người đến Tống mượn đường, kết quả sứ Mông bị người Tống giết chết. Oa Khoát Đài đùng đùng nổi giận, sai Đà Lôi đem 30.000 quân kị tiến đánh Bảo Kê, hạ Đại Tản quan, phá Phượng châu và Hưng Nguyên; vượt sông Gia Lăng tiến vào đất Thục. Chế trí sứ Tứ Xuyên Quế Như Uyên bỏ trốn. Tuy nhiên về sau thì Oa Khoát Đài (do chỉ muốn ra oai chứ không định đánh Tống khi nước Kim vẫn còn) đã triệu Đà Lôi về để tập trung diệt nước Kim.

Năm 1232 và 1233, nước Kim liên tiếp bại trận. Mùa đông năm 1232, Kim Ai Tông bỏ trốn khỏi Biện Kinh. Trong khi đó Mông Cổ sai Vương Tiếp đến Tống xin hợp quân đánh Kim. Chế trí sứ Kinh Hồ Sử Tung Chi báo về triều đình. An phủ sứ Hoài Đông Triệu Phạm xin giữ minh ước, vì nếu Kim vong thì Mông Cổ tất sẽ dòm ngó đến Tống, nhưng Lý Tông không nghe, quyết định liên Mông kháng Kim. Oa Khoát Đài hứa hẹn rằng sau khi việc thành sẽ "trả lại" Hà Nam cho Tống, từ đó hai bên lập ra thệ ước bằng miệng.

Mùa hạ năm 1233, Tống đình cử Mạnh Củng ra quân từ Tảo Dương đánh Đường châu, giết tướng Kim chiếm Đường châu và đánh sang Thuận Dương, tướng Kim Vũ Tiên bỏ trốn, hơn bảy vạn quân Kim đầu hàng người Tống. Sau khi hạ được Đường châu, Mạnh Củng sai người liên hệ với Mông Cổ đánh Thái châu là sào huyệt cuối cùng của nước Kim. Tháng 12 ÂL, quân Tống chiếm Sài Đàm Lâu. Ngày 10 tháng 1 năm 1234, chiếm được thành ngoài. Đêm 8 tháng 2 năm 1234, trước tình thế nguy cấp, Kim Ai Tông nhường ngôi cho Hoàn Nhan Thừa Lân. Mạnh Củng cho quân tiến vào thành, bắt được Tham chính nước Kim Trương Thiên Cương và hài cốt của Kim chủ. Mạnh Củng cùng tướng Mông Cổ Tháp Sất Nhi chia số hài cốt và của cải trong thành làm đôi mỗi bên một phần. Lại lấy tây bắc Trần, Thái làm giới hạn, bắc thuộc Mông nam thuộc Tống; sau đó cùng rút về nước. Triều Kim kể từ Thái Tổ A Cốt Đả đến Ai Tông Ninh Giáp Tốc là được 6 đời 9 chủ, 120 năm.

Sử Tung Chi đưa Trương Thiên Cương, Hoàn Nhan Hảo cùng vàng bạc châu báu cướp được, có cả hài cốt của Kim Ai Tông về Lâm An. Hình quan bắt Thiên Cương viết tờ biểu thú tội, coi Ai Tông như một chủ rợ, Thiên Cương không nghe và ghi vào hộp đúng hài cốt bốn chữ cố chủ tuẫn quốc. Thi hài Ai Tông bị đưa vào kho ngục Đại lý tự triệp tập binh mã; tri Lư châu Toàn Tử Tài đem vạn quân từ Hoài Tây đến Biện Kinh, ít lâu sau Ngụy Liễu Ông qua đời.

Tháng 3 ÂL năm 1236, bọn Nam quân dưới trướng Triệu Phạm gồm Vương Mẫn, Lý Bá Uyên liên thủ đốt phá và cướp bóc Tương Dương rồi đầu hàng Mông Cổ. Tháng 5 ÂL, Tống đình bãi chức Triệu Phạm, dùng Triệu Quỳ làm chế trí sứ Hoài Đông lo chống giữ với người Mông. Ở Tương Hán, phủ Đức An, Tùy châu và Kim Môn quân bị mất. Ở phía tây, Tào Hữu Văn tử trận tại Lợi châu, toàn Tây Thục kể như mất chỉ trong chưa đến một tháng. Tướng Mông Khoát Đoan vào Thành Đô và đánh lên Văn châu. Tin bại trận lũ lượt bay về Lâm An. Hai vị thừa tướng đều phải bãi chức, lấy Thôi Dữ Chi làm Hữu thừa tướng, Sử Tung Chi làm chế trí sứ Hoài Tây chi viện cho Quang Châu, Triệu Quỳ cứu Hợp Phì. Đầu năm 1237, Mạnh Củng cùng Trương Thuận phá 24 trại Mông Cổ, giải vây cho Giang Lăng. Quân Tống cũng thắng lớn ở Chân châu, giết được nhiều quân Mông, tình hình bắt đầu chuyển biến có lợi cho quân Tống.

Năm 1237, Lý Tông cải nguyên là Gia Hi, lại dùng Kiều Hành Giản làm Tả thừa tướng, Trịnh Thanh Chi tri Xu mật kiêm Tham chính. Trong khi đó quân Mông Cổ đại thắng ở Tây Vực và châu Âu thanh thế lại lớn mạnh, Oa Khoát Đài liền chuẩn bị đánh xuống phía nam lần nữa. Mạnh Củng từ Giang Lăng về cứu Hoàng châu. Đỗ Cảo Kiên đánh lui quân Mông tại An Phong quân. Sử Trung Chi lúc đó nghe tin Sát Hãn đánh Lư châu nên điều Đỗ Cảo quân đến cứu. Quân Mông Cổ bị Đỗ Cảo dùng cách đánh hỏa thiêu rụi hết giàn giáo, bèn dùng pháo đánh thành. Pháo bắn tới gặp mái vẩy của quân Tống thì bật ngược lại chỗ quân Mông. Đỗ Cảo thừa cơ truy kích và đẩy lui được chúng. Triều đình phong Cảo làm chế trí sứ Hoài Tây, Mạnh Củng làm chế trí sứ Kinh Hồ, chuẩn bị lấy lại Kinh Tương.

Năm 1238, Mạnh Củng xuất quân khôi phục Dĩnh châu, Kinh Môn. Mùa xuân năm 1239 thu phục Tín Dương, Tương Dương và Phàn Thành, ổn định vùng Hoài Nam. Mạnh Củng giữ nghiêm quân kỉ, thưởng phạt công minh, trừng trị tham quan ô lại, khuyến khích sản xuất, tình hình đất Thục nhanh chóng ổn định trở lại.

Năm Gia Hi thứ năm (1241), Lý Tông cải nguyên là Thuần Hựu. Trước kia sứ thần Mông Cổ là Vương Tiếp đến Tống lần thứ năm và qua đời ở miền nam (1240), Tống đình chuyển hài cốt về giao cho Mông Cổ. Đầu năm 1242, Mông Thái Tông Oa Khoát Đài qua đời, hậu thứ sáu là Nãi Mã Chân thị lâm triều xưng chế. Trong khi đó quân Mông do Uông Thế Hiển chỉ huy lại vào Thục vây Thành Đô, bắt chế trí sứ Trần Long Chi rồi đánh bại Vương Quỳ ở Hán châu, đất Thục lại nguy cấp. Mông Cổ sai Nguyệt Lý Ma Tư thay Vương Tiếp làm sứ giả đến Tống, nhưng bị tướng giữ Hoài Thượng giam giữ. Người Mông lại cử quân nam hạ. Mạnh Củng được tin báo, chia quân hai cánh bố trí phòng giữ. Quân Mông Cổ e dè không dám tiến đánh. Tháng 12 năm 1242 lấy Dư Giới làm An phủ chế trí sứ Tứ Xuyên, tri Trùng Khánh. Nam Tống mất đi một tướng tài, từ đó trở nên yếu thế so với Mông Cổ. Giả Tự Đạo lên thay Mạnh Củng, Giang Hán khó lòng mà còn giữ được.

Năm 1244, Dư Giới giết chết Lợi châu đô thống Vương Quỳ. Giới quản lĩnh việc quân ở Thục đến tháng 6 năm 1253 thì bị Tả Thừa tướng Tạ Phương Thúc triệu về kinh giữ chức Học sĩ điện Tư Chánh. Dư Giới được tin thì buồn rầu sinh bệnh rồi qua đời. Tống đình bổ dụng Dư Hối lên thay Dư Giới. Năm 1254, thị ngự sử Ngô Toại dâng sớ kể bảy tội của Dư Giới, Lý Tông liền tịch gia sản của ông. Tại Thục, Dư Hối bị người Mông Cổ đánh bại ở Cam Nhuận, hiểm địa Tử Kim Sơn bị mất. Tham chính Từ Thanh Tẩu (được Tạ Phương Thúc giật dây) dâng sớ hặc tội Dư Hối, Lý Tông triệu Dư Hối trở về, lấy Lý Tăng Bá làm chế trí sứ Kinh Hồ kiêm tuyên phủ sứ Tứ Xuyên.

Triều chính đại hoại

Năm 1239, Lý Tông bổ nhiệm Kiều Hành Giản làm Thiếu phó Bình chương quân quốc trọng sự; Lý Tông Miễn, Sử Tung Chi làm Tả, Hữu thừa tướng. Bấy giờ Kiều Hành Giản thiếu quyết đoán, Lý Tông Miễn quá nghiêm khắc còn Sử Tung Chi thừa cơ lấn át. Về sau Kiều Hành Giản và Lý Tông Miễn xin trí sĩ rồi lần lượt qua đời, triều chính rơi vào tay Sử Tung Chi. Nhiều đại thần như Đỗ Phạm, Lưu Ứng Khởi, Lý Thiều, Từ Vinh Tẩu,... không được lòng Tung Chi nên đều bị bài xích.

Tháng 9 năm 1244, phụ thân Sử Tung Chi là Sử Di Thành có bệnh nặng và qua đời, Tung Chi phải xin nghỉ. Nhưng mấy hôm sau Lý Tông lại bổ dụng trở lại. Thái học sinh Hoàng Khải Bá cùng 144 người dâng sớ hặc tội Tung Chi bất trung, bất hiếu. Lại có Ông Nhật Thiện và 67 người, Lưu Thời Phượng và 94 người dâng thơ đả kích Tung Chi. Từ Nguyên Kiệt vào cung gặp Lý Tông bàn về việc này nhưng Lý Tông cũng không nghe. Lại có Lưu Hán Bật cũng dâng sớ với nội dung tương tự. Đầu năm 1245, Lý Tông mới để Tung Chi về chịu tang; bổ dụng Phạm Chung, Đỗ Phạm là Tả, Hữu thừa tướng. Đỗ Phạm dâng sớ xin thi hành năm điều cần thiết và 12 điều nên làm, khuyên vua chăm lo việc nước; lại dùng Từ Nguyên Kiệt làm Thị lang bộ Công. Hai vị đại thần dốc lòng phò chính, ai nấy đều hi vọng về một thời kì thái binh. Nhưng Đỗ Phạm chỉ tại vị được 80 ngày rồi sớm qua đời. Một tháng sau Từ Nguyên Kiệt đột nhiên qua đời, có lời đồn là bị Phạm Chung đầu độc. Triều đình hạ lệnh tra xét nhưng không có chứng cứ. Tiếp đó là Lưu Hán Bật, Sử Cảnh Khanh lần lượt đột tử. Ai nấy đều biết họ bị hãm hại nhưng không có chứng cứ thì làm được gì, Lý Tông chỉ còn biết hậu táng mấy vị đại thần và chu cấp cho gia quyến của họ, lại thăng Giả Tự Đạo làm chế trí sứ Lưỡng Hoài kiêm tri Dương châu, Lý Tăng Bá làm chế trí sứ Kinh Hồ kiêm tri Giang Lăng. Lúc đó trong cung quý phi Giả thị lâm bệnh qua đời, Lý Tông phong cho Uyển dung Diêm thị làm quý phi. Từ cuối năm 1248, Trịnh Thanh Chi nhiều lần xin bãi miễn nhưng không được chấp thuận. Mùa đông năm 1251, Trịnh Thanh Chi qua đời. Cũng năm đó, Sử Tung Chi hoăng. Năm 1258, Trình Nguyên Phượng bị bãi chức. Lấy Đinh Đại Toàn làm Hữu Thừa tướng kiêm Xu mật, Lâm Tồn Đồng làm Đồng tri Xu mật viện.

Trận Điếu Ngư

Hiến Tông Mông Kha lên ngôi Đại Hãn, cử em là Hốt Tất Liệt đến quản lý Trung Nguyên. Hốt Tất Liệt trọng nhân tài, khuyến khích sản xuất, đề cao nho học, đưa vùng Kinh Triệu trở nên hưng thịnh. Ổn định đâu đó xong xuôi lại tính đến việc nam xâm. Năm 1252, quân Mông Cổ lại công đánh các châu Tùy, Dĩnh, An nhưng bị tướng Mã Vinh đẩy lui. Năm sau, Mông Cổ đánh bại tướng Tống Vương Quốc Xương ở Hải châu. Năm 1254, quân Mông Cổ chiếm được yếu địa Tử Kim Sơn trong đất Thục. Lại đánh sang Hợp châu, Quảng An quân nhưng bị tướng giữ thành Vương Kiên đánh bại.

Đầu năm 1257, tướng Mông Cổ điều binh công phá Tương Dương, bị Cao Đạt đánh bại. Năm 1258, Mông Cổ tiến đánh Đại Việt, bị quân dân nhà Trần đánh bại tại Đông Bộ Đầu. Trong lúc này, nghe tin Nguyệt Lý Ma Tư bị cấm cố đến chết, Mông Hiến Tông Mông Kha chia quân làm ba đường tiến xuống phía nam, đích thân Mông Kha đánh Tây Thục còn Hốt Tất Liệt đánh Ngạc châu. Tướng giữ thành Vương Kiên ra sức cố thủ, buộc quân Mông Cổ rút ra ngoài 50 dặm. Tống đình điều Lã Văn Đức đến làm chế trí sứ Tứ Xuyên. Văn Đức tiến quân đến Trùng Khánh, bị quân Mông Cổ đánh bại. Tuy nhiên ở Điếu Ngư, Vương Kiên kiên trì cố thủ, giữ vững thành trì. Bắc quân không hợp thủy thổ, sinh bệnh và chết rất nhiều. Mông Kha tức quá thành bệnh rồi qua đời vào ngày 11 tháng 8 năm 1259. Quân Mông Cổ đành phải rút lui. Có chiếu phong Vương Kiên làm tiết độ sứ Ninh Viễn.

Ở Giang Hán, Hốt Tất Liệt xuất chiến thuận lợi, nhanh chóng áp sát Trường Giang. Thấy quân Tống dàn thuyền tề chỉnh, khí thế mạnh mẽ mới than :Người bắc giỏi ngựa, người nam giỏi thuyền, lời đồn thực không sai. Sau chiến thắng quân Mông, Lý Tông muốn lập Trung vương làm thái tử. Ngô Tiềm tấu rằng :Thần không có tài nhìn xa, nhưng biết Trung vương không phải là phúc của bệ hạ.

Lý Tông rất giận và Giả Tự Đạo rất mừng. Tự Đạo bèn gièm pha cho Lý Tông bãi chức Ngô Tiềm vào tháng 4 ÂL năm 1260. Tháng 6 ÂL năm Cảnh Định nguyên niên (1260), lập Trung vương Kì làm hoàng thái tử. Lý Tông giáo dục thái tử rất nghiêm, đặt lệ tờ mờ sáng phải tới vấn an các cung, một giờ sau hồi cung, lúc trời sáng hẳn thì ra triều nghe bàn luận về chính sự. Lúc thối triều lại phải vào giảng đường, nghe giảng quan giảng kinh nghĩa, rồi giảng sử sách, mỗi ngày ông bị ép phải đọc không biết bao nhiêu là sách. Có hôm Lý Tông còn triệu ông vào hỏi hôm sau học sách gì, nếu trả lời được thì ban tọa, ban trà; trả lời khôngg được thì phải dứng trận lôi đình và bắt phải học lại. Tháng 7 ÂL, quý phi Diêm thị qua đời, thụy là Huệ Chiêu; từ đó bọn nội thị mất chỗ dựa và không thể lộng hành được nữa.

Mông Cổ sai sứ đến hỏi về minh ước, Giả Tự Đạo bắt giữ sứ thần Mông Cổ để giấu kín việc nghị hòa. Sợ trong nội đình tiết lộ việc đó ra nên đày Đổng Tống Thần ra Cát châu; quy định con em quan lại không can dự triều chính, ngoại thích không vào giám ti. Một mình Tự Đạo nắm hết quyền hành. Về sau Tự Đạo còn hặc tội Cao Đạt, Tào Thế Hùng; làm khó chư tướng bắt họ nộp biên phí, Triệu Quỳ và Sử Nham Chi phải bãi quan để bồi thường; Hướng Sĩ Bích đày ra Chương châu sau uất mà chết, Vương Kiên giáng làm tri Hòa châu. Năm 1261, Lưu Chỉnh bị Tự Đạo ghét nên dâng Lư châu hàng Mông Cổ. Đế ở ngôi 40 năm, sắc dục quá độ, không lo chính sự. Để cho gian thần Sử Di Viễn, Đinh Đại Toàn, Giả Tự Đạo thao túng; bên ngoài thì Mông Cổ uy hiếp; Tống triều diệt vong đến đó chỉ còn là trong sớm tối. Hoàng thái tử Triệu Kì nối ngôi, tức là Tống Độ Tông.

Danh sách Tể tướng thời Lý Tông:

Sử Di Viễn, Trịnh Thanh Chi: 1224 - 1232

Trịnh Thanh Chi: 1232 - 1236

Thôi Dữ Chi: 1236 - 1237

Kiều Hành Giản: 1237 - 1239

Lý Tông Miễn, Sử Tung Chi: 1239 - 1247

Trịnh Thanh Chi: 1247 - 1251

Tạ Phương Thúc: 1251 - 1255

Đổng Hòe: 1255 - 1256

Trình Nguyên Phượng: 1256 - 1257

Đinh Đại Toàn: 1257 - 1259

Ngô Tiềm, Giả Tự Đạo: 1259 - 1262

Giả Tự Đạo: 1262 - 1264

Niên hiệu

Tống Lý Tông sử dụng tám niên hiệu như sau:

  • Bảo Khánh (宝庆, 1225 - 1227)
  • Thiệu Định (绍定, 1228 - 1233)
  • Đoan Bình (端平, 1234 - 1236)
  • Gia Hy (嘉熙, 1237 - 1240)
  • Thuần Hữu (淳祐, 1241 - 1252)
  • Bảo Hữu (宝祐, 1253 - 1258)
  • Khai Khánh (开庆, 1259)
  • Cảnh Định (景定, 1260 - 1264)

Gia đình

Hậu phi

  • Thọ Hoà Hoàng Hậu Tạ Đạo Thanh(謝道清; 1210 - 1283), thời Tống Độ Tông tấn tôn là Thọ Hòa Thánh Phúc (寿和圣福)
  • Giả Quý phi (賈貴妃; 1213 - 1246), con gái Giả Thiệp (贾涉), mẹ là Hồ thị (胡氏), chị của Giả Tự Đạo, dung nhan mỹ miều, rất được sủng ái, sơ phong Văn Yên Quận phu nhân (文安郡夫人). Lý Tông có ý lập làm Hậu nhưng bị Dương Thái hậu ngăn cản nên ông phải cho Tạ thị làm hậu. Năm 1231, thăng Tài nhân, 7 năm sau tấn phong lên Quý phi. Thụy là Huệ Thuận (時就)
  • Diễm Quý phi (閻貴妃; ? - 1260), tư sắc diễm lệ, sơ phong Nghi Xuân Quận phu nhân (宜春郡夫人), sau phong Mỹ nhân rồi Uyển dung (婉容). Năm 1249, tấn thăng Quý phi. Giả Quý phi qua đời khi Chu Hán Quốc Công chúa mới lên 5, vì không có con cái nên bà nhận nuôi công chúa. Thụy là Huệ Chiêu (惠昭)

Hậu duệ

  • Triệu Tập (赵缉), chết yểu, truy phong Vinh vương (永王), thuỵ là Xung An (冲安), không rõ mẹ
  • Triệu Dịch (赵绎), chết yểu, truy phong Chiêu vương (昭王), thuỵ là Xung Thuần (冲纯), không rõ mẹ
  • Triệu Duy (赵维; 1238), chết yểu, truy phong Kỳ vương (祁王), thuỵ là Xung Chiêu (冲昭), mẹ là Tạ Hoàng hậu
  • Chu Hán Quốc Công chúa (瑞国公主; 1241-1262), mẹ là Giả Quý phi, được Diễm Quý phi nuôi dưỡng, được Lý Tông hết sức yêu quý, ban đầu phong Thụy Quốc Công chúa (瑞国公主), sau cải thành Thăng Quốc Công chúa (升国公主). Lấy Dương Trấn - chất tôn của Ninh Tông Cung Thánh hoàng hậu, được cải hiệu thành Châu Quốc Công chúa (周国公主), được ban cho cung điện gần với vua cha Lý Tông. Trước khi mất vài tháng được tặng thêm phong hiệu Chu Quốc Hán Quốc Công chúa (周国汉国公主). Không lâu sau, công chúa đổ bệnh nặng mà mất khi còn khá trẻ, không con cái. Lý Tông đau buồn thương xót khôn nguôi, ban thụy là Đoan Hiếu (端孝)
  • Triệu Trân Châu Công chúa (趙珍珠公主), lấy Tạ Bích (謝壁), không rõ mẹ
  • Triệu thị Công chúa, không rõ phong hiệu, lấy Chu Tuấn (朱浚), không rõ mẹ

Con nuôi

  • Triệu Mạnh Khải (趙孟启), con của Phúc vương Triệu Dữ Nhuế (福王赵与芮) và Tề Quốc phu nhân Hoàng Định Hỉ (齊國夫人黄定喜), sau khi lên tức Tống Độ Tông.

Đánh giá

Tống Lý Tông là một vị vua háo sắc, hoang dâm giống Tống Nhân Tông trước đây. Nhưng không giống Nhân Tông, những năm cuối đời ông bỏ bê việc triều chính. Ngoài ra, trong các lĩnh vực, ông đều phạm nhiều sai lầm như liên Mông diệt Kim, Đoan Bình nhập Lạc, để Triệu Mạnh Khải làm con nuôi và để Giả Bình Chương khống chế triều chính. Triệu Mạnh Khải sau khi lên ngôi cũng giống bác mình, ham mê nữ sắc, xa xỉ lãng phí và không để ý tới triều chính. Chính Tống Lý Tông là người đã đẩy Nam Tống vào con đường diệt vong 15 năm sau đó. (15 năm sau khi ông mất)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Trần Dần** (chữ Hán: 陈寅, ? – 1227), không rõ tên tự, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống. ## Cuộc đời Cha là Bảo Mô các đãi chế Trần Hàm. Dần hai
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Cao Ly** (), tên đầy đủ là **Vương quốc Cao Ly**, là một vương quốc có chủ quyền ở bán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởi vua Thái Tổ sau khi
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Nam Đường Hậu Chủ** (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là **Lý Dục** (李煜), thông gọi **Lý Hậu Chủ** (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Cao Ly Mục Tông** (Hangeul: 고려 목종, chữ Hán: 高麗 穆宗; 5 tháng 7 năm 980 – 2 tháng 3 năm 1009, trị vì 997 – 1009) là quốc vương thứ 7 của vương triều
**Cao Ly Thành Tông** (Hangul: 고려 성종, chữ Hán: 高麗 成宗; 15 tháng 1 năm 961 – 29 tháng 11 năm 997; trị vì 981 – 997) là vị quốc vương thứ sáu của vương
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
**Quân đội nhà Lý** là tổ chức quân đội của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, từ đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 13. Hoạt động quân sự nhà Lý diễn ra
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Lý Quỳ** (chữ Hán: 李逵; bính âm: _Lǐ Kuí_) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết Thủy hử của Thi Nại Am. Lý Quỳ là một trong những người khỏe nhất của 108
**Lý Thánh Tông** hay **Lý Thánh Tôn** (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Lý Cương** (, 1083 - 1140), tên tự là **Bá Kỷ**, người Thiệu Vũ quân, tể tướng nhà Tống, lãnh tụ phái kháng Kim, anh hùng dân tộc Trung Quốc. Cùng với Nhạc Phi, Triệu
**Cao Ly Văn Tông** (Hangul: 고려 문종, chữ Hán: 高麗 文宗; 29 tháng 12 năm 1019 – 2 tháng 9 năm 1083, trị vì 1046 – 1083) là quốc vương thứ 11 của vương triều
**Bang giao Đại Việt thời Lý** phản ánh các hoạt động ngoại giao của chính quyền nhà Lý từ năm 1009 đến năm 1225 trong lịch sử Việt Nam. ## Hoàn cảnh Năm 1009, Lý
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Chương Ý Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 章懿李皇后; 987 - 1032), nhưng rất hay được gọi là **Lý Thần phi** (李宸妃), nguyên là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng. Về sau, do
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Lý Thanh Chiếu** (chữ Hán: 李清照, 13 tháng 3, 1084 - 12 tháng 5, 1155), hiệu **Dị An cư sĩ** (易安居士), là nữ tác gia chuyên sáng tác từ nổi tiếng thời nhà Tống, cùng
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Lý Nghĩa Mẫn** () là tể tướng nước Cao Ly dưới triều vua Minh Tông (1170 – 1179). Lý Nghĩa Mẫn là một trong các võ quan chi phối chính quyền Cao Ly giai đoạn
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Quang Tông** (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu **Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế**
**Lý Sư Sư** (chữ Hán: 李師師, bính âm: _Li Shishi_) là một nhân vật truyền kỳ cuối thời Bắc Tống, tuy không được ghi chép trong chính sử nhưng được biết đến nhiều trong giai
**Cao Ly Duệ Tông** (Hangul: 고려 예종, chữ Hán: 高麗 睿宗; 11 tháng 2 năm 1079 – 15 tháng 5 năm 1122, trị vì 1105 – 1122) là quốc vương thứ 16 của Cao Ly.
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
**Cao Ly Quang Tông** (Hangul: 고려 광종, chữ Hán: 高麗 光宗; 925 – 4 tháng 7 năm 975, trị vì 949 – 975) là vị quốc vương thứ tư của Cao Ly. Ông là con
**Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** () là người đứng đầu Nhà nước của Trung Hoa Dân Quốc. Chức vụ tổng thống được thành lập vào năm 1948 thay thế chủ tịch Chính phủ Quốc
**Lý Kế Nguyên** (chữ Nho: 李繼元) là một nhà ngoại giao, tướng lĩnh nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Không rõ thân thế cũng như quê quán của Lý Kế Nguyên.