✨Lý Dục

Lý Dục

Nam Đường Hậu Chủ (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là Lý Dục (李煜), thông gọi Lý Hậu Chủ (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 961 đến năm 976, khi bị bắt giữ bởi quân đội nhà Tống hùng dũng tấn công vào đất nước của mình. Ông bị đầu độc bởi lệnh của Tống Thái Tông sau 2 năm bị giam lỏng.

Dù là một vị vua được cho là thiếu bản lĩnh và kém cỏi, nhưng ông được biết đến rộng rãi là một nhà thơ, từ, họa sĩ và nhà thư pháp lỗi lạc nổi tiếng của Trung Quốc trong thế kỷ 10.. Ông được xem là một người uyên thâm thể loại từ vào hàng bậc nhất, do đó được xưng tụng là Thiên cổ từ đế (千古词帝)

Thân thế

Lý Dục vốn có tên là Lý Tùng Gia (李從嘉), biểu tự là Trùng Quang (重光), hiệu là Chung Sơn Ẩn sĩ (鍾山隱士), Chung Phong Ẩn giả (鍾峰隠者), Bạch Liên cư sĩ (白蓮居士) và Liên Phong cư sĩ (蓮峰居士). Ông là con trai thứ sáu của Nam Đường Nguyên Tông Lý Cảnh. Trong 5 người anh của Lý Tòng Gia thì 4 người mất rất sớm, chỉ có Lý Hoằng Ký sống đến 19 tuổi, do đó ông trở thành người con thứ hai của Nguyên Tông.

Chịu ảnh hưởng từ cha, từ nhỏ Lý Tòng Gia là người nhân hậu và khá nhu nhược. Ông thường bị anh Lý Hoằng Ký đố kỵ truy sát, phải trốn chạy nhiều lần, do đó ông tỏ ra không quan tâm đến chính trị, không muốn tranh chấp.

Hằng ngày, Tòng Gia dành phần lớn thời gian ngao du sơn thủy và hoạt động nghệ thuật.

Hậu Chủ hết sức cung kính với nhà Bắc Tống. Khi vừa thay cha, ông sai Phùng Diên Lỗ mang nhiều sản vật và biểu chương do đích thân ông chấp bút trình báo việc lên ngôi, với lời lẽ cung kính khiêm nhường. Để vua Tống thực sự yên tâm, Hậu Chủ chuẩn bị sẵn 2 bộ lễ phục: một bộ màu vàng để thiết triều và một bộ màu tía để tiếp sứ Tống. Khi sứ giả nhà Tống đến cầm chiếu phong của Tống Thái Tổ đến Nam Đường, Hậu Chủ mặc bộ áo màu tía ra tiếp theo đúng thân phận phiên vương.

Ngoài ra ông còn không dùng đến cung điện rất tráng lệ của ông và cha để lại nhằm tỏ ý không muốn hưởng thụ như một hoàng đế, tự giáng tước của những người trong hoàng tộc từ "vương" xuống "công" và "hầu". nên phong em là Lý Tòng Thiện làm Tư đồ kiêm thị trung, Phó nguyên soái các đạo binh mã, tổ chức huấn luyện quân đội.

Đồng thời ông đặt ra Long tường quân phụ trách thủy quân. Để chuẩn bị đường rút lui, ông sai người em khác là Lý Tòng Ích làm Tư không kiêm Lưu thủ Nam Đô, giao cho Tòng Ích việc xây dựng Nam Xương để nếu không giữ được Kim Lăng thì lui về giữ Giang Tây.

Hưởng lạc

Tạm yên tâm với tình hình biên giới nhà Tống, Lý Dục sa vào hưởng lạc. Ông rất giỏi cầm kỳ thi họa, thích làm thơ ca, và có tài sáng tác lời hát, rất tâm đầu ý hợp với hoàng hậu Chu Hiến, tức là Đại Chu hậu.

Vì ông ít quan tâm tới chính sự, Giám sát ngự sử Trương Hiến can ngăn, nhưng Lý Dục bỏ qua không nghe theo. Nhưng chỉ tới năm 964, Chu hoàng hậu qua đời khi mới 29 tuổi. Lý Dục rất thương xót, tự tay viết "Chiêu Huệ Hậu lỗi" (Văn tế hoàng hậu Chiêu Huệ) dài vài ngàn chữ để truy điệu. Sau đó ông còn làm nhiều thơ tỏ ý thương tiếc người vợ quá cố.

Ít lâu sau, Lý Dục sủng ái em gái Chu Hiến và đến năm 968 lập bà làm hoàng hậu, tức là Tiểu Chu hậu. Cả hai chị em Chu hậu đều nổi tiếng đương thời về tài năng ca múa, thơ văn và đức độ.

Ngoài hưởng lạc, Lý Dục còn sùng tín đạo Phật và cho xây cất nhiều chùa làm số lượng sư trong nước tăng lên, giảm sức sản xuất ở đồng ruộng; chính sự bị sao nhãng. :"Tôi với túc hạ là láng giềng. Tiếp tục minh ước của cha ông ta, tình chúng ta như anh em. Vinh nhục có nhau, sướng khổ cùng chịu. Vừa qua tôi nhập cống Tống, vua Tống bảo tôi nói với túc hạ không được động can qua nữa. Nếu từ bỏ ý đồ thì sứ giả đi xe hoa, mà hàng trăm vạn quân không phải điều động nữa. Nếu không, sẽ xảy ra bất trắc. Tôi thấy vua Tống không phải tham đất, mà là oán giận túc hạ không giữ cái lễ của kẻ bề tôi".

Lưu Sưởng đọc thư, cho rằng Tống Thái Tổ nói suông 100 vạn quân để dụ hàng, nên viết thư trả lời Lý Dục tỏ ý không đầu hàng Tống. Lý Dục báo lại cho nhà Tống. Tống Thái Tổ lại viết thư cho vua ông, sai lựa lời nói với Nam Hán lần nữa. Lý Dục lại viết thư cho Lưu Sưởng: :"Hoàng đế nhà Tống lại bảo tôi chuyển lời cho túc hạ, hôm nay nạp lễ vẫn chưa muộn. Nếu không hiểu ra, mùa thu này binh lính dưới thành, hậu quả không thể lường được. Tống đã cho phép thông hiếu, vậy thượng sách là hòa không đánh, hà tất phải tranh hùng. Khuyên túc hạ nghĩ lại mà cẩn thận"

Lưu Sưởng không nghe, bèn viết thư trả lời Lý Dục với lời lẽ kiêu ngạo và bắt giam luôn sứ giả Nam Đường. Thấy Lưu Sưởng kiêu ngạo, Lý Dục một mặt sai sứ báo cho Tống Thái Tông, mặt khác vẫn tự mình viết thư phân tích lợi hại một lần nữa nhưng không kết quả. Vua Tống thấy sứ Nam Đường lại tới, biết rằng Lưu Sưởng không khuất phục, bèn quyết định khởi đại binh đánh Nam Hán.

Thất thế trước Bắc Tống

Quân Tống đánh Nam Hán từ năm 970 sang năm 971 thì diệt Nam Hán. Lý Dục lo lắng khi Nam Hán đã mất, phía nam chỉ còn lại Nam Đường và Ngô Việt nhỏ bé, trước sau cũng bị Bắc Tống đánh. Vì vậy năm 971 ông sai em là Lý Tòng Thiện đi sứ sang Biện Kinh, nhưng Triệu Khuông Dẫn lập tức bắt giữ Tòng Thiện làm con tin, không cho về nước.

Lý Dục bèn dâng biểu lên Tống Thái Tổ xin cho em về nhưng vua Tống không chấp nhận. Vì vậy ông rất buồn, ra lệnh bãi bỏ yến hội trong nước.

Trước việc Bắc Tống ngày càng chèn ép Nam Đường, Lý Dục không có biện pháp nào cứu vãn tình thế. Một số lái buôn thấy thuyền nhà Tống đậu ở Kinh Nam, kiến nghị Lý Dục sai người đốt cháy, nhưng ông không làm theo.

Hại trung thần

Năm 973, Nội sử xá nhân Phàn Hựu dâng thư kiến nghị Lý Dục dùng các biện pháp chấn hưng đất nước để thoát khỏi tình trạng sắp mất về tay Bắc Tống. Lý Dục tuy khen thưởng cho lòng trung của Phàn Hựu nhưng bỏ qua các kiến nghị đó. Phàn Hựu bất mãn bỏ về quê, để lại bức thư dài hơn 1 vạn chữ để can ngăn. Lý Dục cho rằng Phàn Hựu làm theo lời xui giục của Thị lang bộ Hộ là Lý Bình, bèn bắt Lý Bình hạ ngục rồi sai người đi bắt Phàn Hựu. Kết quả Lý Bình và Phàn Hựu đều bị giết trong ngục.

Ngoài ra, tướng Lâm Nhân Khánh, một người nổi tiếng về sự trung thành và tính cương trực, cũng bị nghi ngờ bất trung và bị đầu độc chết.

Mất nước

Năm 974, Triệu Khuông Dận sai sứ đến Kim Lăng yêu cầu Lý Dục đến chầu vua Tống. Lý Dục biết rằng nếu đến sẽ bị giữ lại nên ông mượn cớ đang có bệnh để thoái thác. Ít lâu sau vua Tống lại sai sứ đến lần thứ 2 giục ông vào Biện Kinh, nhưng ông vẫn cáo bệnh không đi.

Biết nhà Tống sẽ khởi binh đến đánh, Lý Dục cự tuyệt đầu hàng và quyết định phản kháng. Ông ra lệnh giới nghiêm Kim Lăng và vùng ven sông, tuyên bố bãi bỏ niên hiệu Khai Bảo nhà Tống, tự xưng niên hiệu Can Chi nguyên niên để tỏ ý đoạn tuyệt với nhà Tống. Tuy nhiên, ngoài những biện pháp chính trị, ông không thực hiện một chủ trương thiết thực nào, vẫn tin dùng những người chỉ mưu lợi riêng. Do đó thực lực Nam Đường đã suy yếu trong nhiều năm không thể vực dậy được.

Tháng 9 năm 974, Triệu Khuông Dận viện cớ Lý Dục không chịu đến Biện Kinh, bèn cử các tướng Tào Hàn, Phan Mỹ, Tào Bân dẫn đại quân thủy lục cùng tiến đánh Nam Đường.

Quân Tống rất mạnh, quân Đường liên tiếp thất bại, nhưng bản thân Lý Dục vẫn không lo lắng về tình hình mặt trận mà chỉ vui thú trong cung. Tới tháng 6 năm 975, quân Tống vượt sông Trường Giang áp sát Kim Lăng. Lúc đó Lý Dục vẫn đang ở trong cung cấm cùng các phi tần, không biết tới chiến sự bên ngoài. Hôm sau, ông cùng 300 người trong hoàng tộc và quan lại bị giải lên thuyền đi Biện Kinh.

Bị giết

Tháng 1 năm 976, Lý Dục đến Biện Kinh. Triệu Khuông Dận ra tiếp nhận tù binh, nói với bá quan nhà Tống rằng Lý Dục chỉ đáng là Hàn lâm học sĩ, rồi phong ông làm Vị Mệnh hầu (hay An Mệnh hầu).

Sống trong cảnh bị tù, ông luôn bị giám sát chặt chẽ. Cùng trong năm đó Tống Thái Tổ qua đời, em là Tống Thái Tông lên nối ngôi. Từ thời Thái Tông, việc cung ứng đồ dùng cho Lý Dục ngày càng kém. Lý Dục làm thơ gửi cung nhân cũ ở Kim Lăng, ông mô tả cảnh ngộ "sớm tối lấy nước mắt rửa mặt". Trong khi nói chuyện, Lý Dục tỏ ý hối tiếc vì đã giết hại Phàn Hựu và Lý Bình.

Từ Hoằng vội cáo từ trở về. Khi Tống Thái Tông hỏi chuyện Lý Dục, Từ Hoằng thuật lại không dám giấu. Cùng lúc đó, lại có người mang những câu thơ tưởng nhớ cung điện, đất nước Nam Đường của Lý Dục tâu lên, Tống Thái Tông càng lo ngại về ông và nảy ý định giết ông.

Ngày 7 tháng 7 âm lịch năm 978, vua Tống sai người mang thuốc độc đến cho Lý Dục, là loại thuốc "khiên cơ dược" đã được thí nghiệm nhiều lần, ai uống vào sẽ bị co giật, co quắp tứ chi, đầu gập vào chân không thể cưỡng lại cho đến khi chết hẳn. Lý Dục không dám trái lệnh, uống thuốc xong và chết đau đớn. Khi đó ông 42 tuổi, làm vua Nam Đường 15 năm và bị giam ở Biện Kinh 3 năm.

Đời sống tín ngưỡng và nghệ thuật

Với Phật giáo

Lý Dục là ông vua rất sùng đạo Phật. Ngay từ khi là hoàng tử, ông đã dành nhiều thời gian tụng kinh niệm Phật, đàm đạo với các tăng ni. Ông đã ra lệnh xây cất nhiều chùa chiền trong nước. Mỗi khi bãi triều, ông cùng Tiểu Chu hậu mặc áo cà sa, đội mũ tăng già đến chùa lễ Phật.

Với việc sản xuất giấy và nghiên mực

Ông thích thu thập tứ bảo, hoàn thiện khâu chế tác. Tự Lý Dục đích thân đôn đốc việc sản xuất mực Huy, giấy Tuyên, nghiên Xá – đặc sản nổi tiếng của vùng An Huy.

Tại Tuyên châu có người thợ biết làm giấy từ tre nứa. Ông cho mời vào cung, sai mở xưởng giấy ở Trừng Lâm Đường là nơi gần rừng trúc làm nguyên liệu. Khi đến xem thợ sản xuất thấy họ bận rộn, ông cũng chen vào làm giúp. Loại giấy do Trừng Tâm Đường làm ra trở thành nổi tiếng với chất lượng rất cao.

Thư pháp của ông rất đặc biệt, được mọi người gọi là "Kim thác đao". nhưng chỉ có bản tính văn nhân, không thể làm bậc đế vương. Nếu Lý Dục làm vua thời thái bình, có thể ông sẽ là một vị vua tốt, nhưng ông không gặp may, sinh không gặp thời nên không giữ được xã tắc.

Về tổng thể cuộc đời ông, trong giới sử học thường so sánh với Tống Huy Tông, cháu 5 đời của Tống Thái Tổ sau này, coi Huy Tông là một phiên bản của Lý Dục:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Đây là danh sách các nhà vật lý Đức: ## A phải|nhỏ|134x134px|Ernst Abbe phải|nhỏ|139x139px|Manfred von Ardenne * Ernst Abbe * Max Abraham * Gerhard Abstreiter * Michael Adelbulner * Martin Aeschlimann * Georg von Arco
**Cao Ly Đức Tông** (Hangeul: 고려 덕종, chữ Hán: 高麗 德宗, 9 tháng 6 năm 1016 – 31 tháng 10 năm 1034, trị vì 1031 – 1034) là quốc vương thứ 9 của vương triều
phải|Vị trí của Đức phải|Bản đồ tổng thể Đức **Đức** là một quốc gia tại Trung Âu, trải dài từ dãy Alpen, qua đồng bằng Bắc Âu đến biển Bắc và biển Baltic. Đức là
**Bộ Giáo lý Đức tin** (Latinh: **Congregatio pro Doctrina Fidei** viết tắt **C.D.F.**, trước đây gọi là _Thánh Bộ Tòa án Dị giáo Tối cao của Rôma và Hoàn vũ_, gọi ngắn gọn là _Tòa
**Lý Đức** (sinh ngày 19 tháng 10 năm 1965) là một cựu vận động viên thể dục thể hình người Việt Nam. Ông khởi đầu sự nghiệp năm 1984. Thành tích cao nhất của ông
**Nam Đường Hậu Chủ** (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là **Lý Dục** (李煜), thông gọi **Lý Hậu Chủ** (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Lý Đức Minh** (chữ Hán: 李德明; 981–1032) hay **Thác Bạt Đức Minh** (拓跋德明) là thủ lĩnh của bộ tộc Đảng Hạng và là một trong những người sáng lập ra triều đại Tây Hạ. Theo
**Lý Đức** (tên thường gọi **Thượng tọa Lý Minh Đức**, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1970) là một tu sĩ Phật giáo, chính trị gia người Việt Nam, dân tộc Khmer. Ông hiện là
**Lý Đức Lâm** (; 531 – 591), tự **Công Phụ**, thụy là **Văn**, người An Bình, Bác Lăng (nay thuộc huyện Ích Đô, tỉnh Sơn Đông), là nhà sử học kiêm quan lại cuối thời
**Lý Đức Quân** (1930-1973), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Võ
**Lý Đức Thù** ( sinh tháng 11 năm 1943) là một viên chức người Trung Quốc gốc Triều Tiên. Ông là cựu Ủy ban Dân tộc giao Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
**Lý Tử Xuân** (Hangul: 이자춘; 1315 – 1360) là một quan lại của Nhà Nguyên (sau đó ông chuyển sang phục vụ cho Cao Ly) và cha của Lý Thành Quế, người thành lập nhà
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Đức Hòa** là một huyện nằm ở tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Đức Hòa nằm ở phía đông bắc tỉnh Long An, nằm cách thành phố
**Tiền tệ Đại Việt thời Lý** phản ánh những vấn đề liên quan tới tiền tệ lưu thông vào thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. ## Tiền trong đời sống kinh tế
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Cao Ly Tĩnh Tông** (Hangeul: 고려 정종, chữ Hán: 高麗 靖宗; 31 tháng 8 năm 1018 – 24 tháng 6 năm 1046, trị vì 1034 – 1046) là vua thứ 10 của vương triều Cao
Nước Đức được thành lập từ **16 bang** (tiếng Đức: _Land_ (số ít) hoặc _Länder_ (số nhiều)), vì thế có quốc hiệu đầy đủ là Cộng hòa Liên bang Đức. Mỗi bang là một thực
**Kinh tế Việt Nam thời Lý** phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế vào thời nhà Lý (1009-1225) trong lịch sử Việt Nam. ## Nông nghiệp ### Chế độ ruộng
thumb|Quốc huy của các nhà nước trong Đế chế Đức (5 hàng trên) và huy hiệu của các tỉnh trong [[Vương quốc Phổ (2 hàng dưới), năm 1900]] thumb|Bản đồ các Nhà nước cấu thành
**Thiên Lý Trường Thành** trong lịch sử Triều Tiên thường được dùng để đề cập đến kết cấu phòng thủ phương bắc thế kỷ thứ 11 dưới thời Cao Ly, ngoài ra, nó cũng được
[[Tập tin:Germany Name European Languages.svg|thumb|Các ngôn ngữ châu Âu – tên có nguồn gốc từ: ]] Do vị trí địa lý của nước Đức ở trung tâm châu Âu, cũng như lịch sử lâu dài
thumb|Đức Mẹ Akita là một tước hiệu của Đức Maria. Tước hiệu này bắt nguồn từ báo cáo về các cuộc hiện ra của Đức Mẹ vào năm 1973 bởi chị **Agnes Katsuko Sasagawa** ở
**Vùng hành chính Đức** (Regierungsbezirk) là cấp bậc hành chính trên các huyện, thành phố độc lập và dưới bang. Đứng đầu một cơ quan vùng hành chính là Regierungspräsident (chủ tịch chính quyền). Cơ
**Núi tuyết Mai Lý** (梅里雪山 - Mai Lý tuyết sơn / Meili Xue Shan) là một dãy núi ở Khu tự trị dân tộc Tạng Địch Khánh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đỉnh núi cao
thumb **Vườn quốc gia Đức** bao gồm 14 vườn quốc gia: Ngoài ra, Đức còn có 14 Khu dự trữ sinh quyển và 98 công viên tự nhiên.
**Thương mại Đại Việt thời Lý** phản ánh chính sách phát triển thương mại và hoạt động thương mại thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Đối tác Thương cảng quan trọng nhất
Lĩnh vực tâm lý học đã nghiên cứu sâu rộng về đồng tính luyến ái như một xu hướng tính dục của con người. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã đưa đồng tính luyến
thumb|Học sinh ngồi dưới bóng râm ở Bamozai, gần Gardez, tỉnh [[Paktya, Afghanistan.]] thumb|Việc giảng dạy trong lớp học, đưa nội dung chính trị vào tài liệu học tập hoặc giáo viên lạm dụng vai
thumb|right|Giới tính và xu hướng tính dục khác nhau của mỗi người **Tính dục ở loài người** là năng lực giới tính, thể chất, tâm lý, và sinh dục, bao gồm mọi khía cạnh đặc
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
phải|Aristotle là một trong những triết gia có ảnh hưởng đến phát triển của đạo đức học. **Luân lý học** hay **triết học đạo đức** là một nhánh của triết học "liên quan đến việc
**Giáo dục Việt Nam** dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) là một sự tiếp nối của giáo dục thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi
**Ngưu - Lý đảng tranh** (chữ Hán: 牛李黨爭, bính âm: Níu Lǐ dǎngzhēng), là một cuộc xung đột giữa các phe phái vào cuối đời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Giữa các đại
**Tâm lý học giáo dục** là một nhánh của tâm lý học liên quan đến việc nghiên cứu khoa học của việc học tập của con người. Nghiên cứu về các quá trình học tập,
**Tính dục nữ của con người** bao gồm một loạt các hành vi và quá trình, trong đó có: xu hướng tính dục và hành vi tình dục của nữ, các khía cạnh sinh lý,
**Xu hướng tính dục bất tương hợp bản ngã** là một chẩn đoán sức khỏe tâm thần gây nhiều tranh cãi, được đưa vào _Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần_
Hai con sư tử đang giao cấu ở [[Maasai Mara, Kenya]] phải|nhỏ| "Sự giao hợp giữa nam và nữ" (tranh [[Leonardo da Vinci vẽ khoảng 1492), mô tả những gì xảy ra bên trong cơ
**Xu hướng tính dục** là một loại hấp dẫn về mặt tình cảm hoặc tình dục (hoặc cả hai) một cách lâu dài đối với những người thuộc giới tính hoặc giới khác, thuộc cùng
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
Các chức sắc và tín đồ ăn mặc lễ phục theo giáo lý của tôn giáo **Giáo lý Cao Đài** là những lý thuyết của đạo Cao Đài ## Mục đích Mục đích của đạo
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Baby.jpg|nhỏ|223x223px|Các phương pháp đặc biệt được sử dụng trong nghiên cứu tâm lý của trẻ sơ sinh. liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Conservation2.jpeg|nhỏ|Thử nghiệm của Piaget về [[Bảo tồn (tâm lý học)|Bảo tồn. Một trong những thí nghiệm được sử
**Cấu trúc Đảng Quốc xã Đức** (NSDAP) mang tính chất trung ương tập quyền và có hệ thống phân cấp chặt chẽ. Trong vai trò là đảng quần chúng và lãnh đạo, Đảng Công nhân
**Chương trình giáo dục phổ thông 2018** (gọi tắt là **Chương trình 2018**, hay CTGDPT **2018**) là chương trình định hướng giáo dục và đào tạo cho mọi cấp học phổ thông do Bộ Giáo
**Max Karl Ernst Ludwig Planck** (23 tháng 4 năm 1858 – 4 tháng 10 năm 1947) là một nhà vật lý người Đức, được xem là người sáng lập cơ học lượng tử và do
nhỏ|Cáo buộc với bức chân dung của một thượng nghị sĩ Venice (Allegory về đạo đức của những thứ trên trần gian) do [[Tintoretto vẽ năm 1585.]] **Đạo đức** là một từ Hán-Việt, được dùng