✨Tống Khâm Tông

Tống Khâm Tông

Tống Khâm Tông (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là Triệu Đản (赵亶), Triệu Huyên (赵烜) hay Triệu Hoàn (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và cũng là hoàng đế cuối cùng của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc.

Triệu Hoàn là con trai trưởng của Tống Huy Tông Triệu Cát với bà Hiển Cung hoàng hậu. Ông lên ngôi năm 1126 sau khi vua cha là Tống Huy Tông thoái vị vì sợ hãi lực lượng mạnh mẽ của nhà Kim. Khâm Tông lãnh đạo quân dân Tống đẩy lui quân Kim trong một thời gian ngắn, và loại bỏ các gian thần thời vua cha, làm trong sạch triều chính. Tuy nhiên vào cuối năm này, khi quân Kim đánh vào Biện Kinh lần thứ hai, quân Tống đã thất bại, Thái thượng hoàng và Hoàng đế cùng phần lớn hoàng tộc nhà Bắc Tống bị Kim bắt làm tù binh, chỉ có Khang vương Triệu Cấu là thoát được, về sau lập ra vương triều Nam Tống.

Tống Khâm Tông trở thành tù binh của Kim và phải sống trong hoàn cảnh cơ cực và bị hành hạ. Ông qua đời vào năm 1161, thi hài được chôn cất ở Kim chứ không được triều đình Nam Tống đón về.

Làm hoàng thái tử

Hoàng tử Triệu Đản là con trai trưởng của Huy Tông hoàng đế với hoàng hậu đầu tiên là Vương thị; chào đời vào ngày 23 tháng 5 năm 1100, tức ngày Ất Dậu tháng 4 ÂL năm Nguyên Phù thứ ba đời Tống Huy Tông tại điện Khôi Ninh. Khi đó cha ông vừa lên ngôi chưa đầy nửa năm. Ban đầu ông được đặt tên là Đản, nhận phong tước Hàn quốc công. Đến tháng 6 ÂL cùng năm, được tiến phong Kinh Triệu quận vương.

Năm 1102, Huy Tông đổi tên Triệu Đản thành Triệu Huyên, cuối năm đó chính thức cải thành Hoàn. Năm 1103, ông được tấn phong làm Định vương. Năm 1111, được vào học ở Tư Thiện đường và 6 châu. Do Tống thu nhận hàng tướng Trương Giác ở Bình châu, Kim lấy việc đó mà gây chiến. Tháng 11 năm 1125, Kim Thái Tông lệnh cho Tà Dã, Niêm Một Hát chia quân làm hai cánh tấn công Thái Nguyên, Yên Sơn. Bấy giờ quân Kim đã áp sát sông Hoàng Hà, Huy Tông hoảng hốt muốn bỏ trốn khỏi kinh đô. Thái thường thiếu khanh Lý Cương bàn với cấp sự trung Ngô Mẫn xin vua nhường ngôi cho thái tử, Ngô Mẫn thấy việc ấy không tiện, chỉ xin thái tử giám quốc. Lý Cương chích máu mà viết tấu trình lên, xin theo lệ Đường Túc Tông ở Linh Vũ xưa kia, xin nhà vua nhường ngôi cho thái tử.

Ngày 15 tháng 1 năm 1126, Huy Tông phong thái tử làm Khai Phong Mục. Ngày 17 tháng 1, Huy Tông xuống chiếu cho thái tử tức vị hoàng đế, bản thân tự xưng Giáo chủ Đạo Quân thái thượng hoàng đế dời sang cung Long Đức, hoàng hậu Trịnh thị là Thái thượng hoàng hậu. Thái tử vào cung cấm, khóc lóc từ chối, Huy Tông không theo. Ngày 18 tháng 1, Triệu Hoàn lên ngôi hoàng đế, tức là Tống Khâm Tông. Lại ra chiếu đại xá, thưởng chư quân; lập thái tử phi Chu thị làm hoàng hậu. Tiến phong Lý Cương làm thị lang bộ Binh, Cảnh Nam Trọng làm Thiêm thư Khu mật viện sự,

Lúc bấy giờ người Kim tấn công rất gấp: Oát Li Bất vây hãm phủ Đức Tín, Niêm Một Hát vây Thái Nguyên, Khâm Tông hạ chiếu cho Kinh Đông, Hoài Tây các nơi đưa quân về hộ vệ. Đầu năm 1126, Oát Li Bất từ Thang Âm tấn công Tuấn châu. Nội thị Lương Phương Bình dẫn quân ra chống, toàn quân tan rã, Phương Bình bỏ chạy tháo thân. Khâm Tông hạ chiếu thân chinh, theo cố sự Chân Tông đến Thiền Uyên trước kia, cử Ngô Mẫn, Lý Cương đi theo, nhưng thực chất thì chỉ là nói miệng mà thôi. Cũng trong ngày hôm đó, dùng Ngô Mẫn làm tri Xu mật, Thượng thư bộ Lại Lý Chuyết làm Đồng tri. Ngay khi được tin Tuấn châu thất thủ, Thượng hoàng thu dọn hành trang, chạy về phía đông theo hướng cửa Thông Tân.

Khâm Tông lại dùng Lý Cương lưu thủ Đông Kinh. Lúc bấy giờ Bạch Thời Trung, Lý Bang Ngạn đề nghị xa giá lui về Tương, Đặng; Lý Cương kiên quyết phản đối, xin quyết cố thủ. Khâm Tông có vẻ vững tâm hơn, quyết định ở lại và thăng Cương làm Thượng thư hữu thừa. Ông bãi chức Thái tể của Bạch Thời Trung, cất nhắc Lý Bang Ngạn lên thay, dùng Trương Bang Xương làm Thiếu tể.

Chống Kim lần thứ hai

Quân Kim lại vây Thái Nguyên. Tháng 5 ÂL, Chủng Sư Trung giao chiến với người Kim ở huyện Du Thứ và tử trận, Khâm Tông cho Diêu Cổ và Lý Cương đến giải vây Thái Nguyên. Người Kim thừa thắng tấn công Bình Đà, Diêu Cổ lui về Long Đức. Lý Cương được tin, giáng chức Diêu Cổ, phong Giải Tiền làm chế trí sứ, đóng quân ở Hà Dương, chuẩn bị xe chiến, ngựa chiến rồi tiến ra Hà châu chống giặc. Tuy nhiên do các tướng dưới quyền chậm chạp lười biếng, nên các cánh quân đầu thất bại dưới tay người Kim. Nhà tống được tin thua trận, bèn bãi chức Lý Cương, dùng Chủng Sư Đạo thay thế, đó là vào tháng 8 ÂL. Phe chủ hòa lại nổi lên, xin cắt ba trấn cho người Kim.

Sứ nước Kim là Tiêu Trọng Cung Triệu Luận bị Tống bắt giữ, bèn bày kế cho nhà Tống hãy liên lạc với Da Luật Dư Đồ khởi binh kháng Kim, khôi phục nước Liêu, hứa sẽ trợ giúp. Ngô Mẫn tin là thực, liền xin Khâm Tông thả sứ Kim trở về, lại còn liên kết với người Liêu là Nhã Lý. Sứ về báo tin lên Niêm Một Hát về kế hoạch của người Tống. Một Hát báo lên Kim Thái Tông. Vua Kim tức giận, lệnh Niêm Một Hát, Oát Li Bất chia quân làm hai đường đánh Tống. Trong triều, Từ Xử Nhân và Ngô Mẫn bất hòa, đánh nhau giữa triều; Khâm Tông bèn bãi chức Từ Xử Nhân, Ngô Mẫn, Hứa Hàn; trọng dụng phe chủ hòa: Đường Khắc làm Thiếu tể kiêm Trung thư thị lang, Trần Quá Đình làm Thượng thư Hữu thừa, Nhiếp Xương Đồng tri Xu mật.... Tháng 9 ÂL, Niêm Một Hát đánh mạnh vào phủ Thái Nguyên. Tri phủ Trương Hiếu Thuần không chống nổi và bị bắt. Lý Cương bị ngôn luận đàn hặc vì gây oán với Kim liền bị đẩy làm tri Dương châu. Các đại thần Lưu Giác, Hồ An Quốc kêu xin cho Cương cũng bị giáng chức.

Bấy giờ các đạo quân do Trương Thức Dạ, Tiền Cái đều định vào chi viện cho kinh sự. Nhưng Cảnh Nam Trọng và Đường Khắc chủ hòa, nên lại lệnh quân tướng các nơi không được khinh động, còn sai sứ tới trại Kim xin được hòa nghị. Tháng 10 ÂL, quân Kim lại phá phủ Chân Định, Chủng Sư Đạo giao chiến ở Tỉnh Hình cũng bị thua. Người Kim sai Vương Nhuế đến Biện Kinh trách việc Tống triều thất tín. Lúc này người Kim đánh sang Trung Sơn, hạ Phần châu, Lân châu Bình Định quân chuẩn bị vượt sông. Khâm Tông kinh hãi, lại theo lời Đường Khắc, triệu Chủng Sư Đạo về kinh, ít lâu sau Sư Đạo qua đời. Lại dùng Phạm Nột lên thay coi giữ Lưỡng Hà, sai Vương Vân đi sứ đồng ý cắt đất, Hoàng Ngạc đi thuyền đến kinh đô nước Kim để xin hòa, Niêm Một Hát đòi Tống phải cử Khang vương Cấu tới làm con tin. Quân Kim biết nhà Tống bạc nhược nên vẫn cứ tấn công. Họ vào phủ Bình Dương, Hoài Đức quân. Niêm Một Hát áp sát Hoàng Hà, tuyên phủ sứ Triết Ngạn Cầu dẫn 10.000 binh ra chống. Một Hát dùng kế khua chiêng múa trống, quân Tống hoảng sợ chạy hết đi. Quân Kim bèn vượt sông. Các tướng Dương Án Anh, Tông Đạo, Vương Tương... bỏ thành mà chạy; Vĩnh An quân và Trịnh châu đều hàng Kim. Vương Vân đi sứ trở về, báo rằng người Kim không nói gì đến tam trấn mà bảo cắt Lưỡng Hà, chia sông để trị. Đình thần tranh cãi một trận, cuối cùng Khâm Tông theo lời Vương Vân, cử Khang vương Cấu đi sứ, hứa cắt đất, dâng tôn hiệu cho vua Kim có 18 chữ, gọi bác xưng cháu. Tháng 7 ÂL năm 1130, bị dời sang thành Ngũ Quốc.

Trong khi đó tại miền nam, em ông là Khang vương Triệu Cấu dưới sự ủng hộ của các đại thần đã lên ngôi hoàng đế vào ngày 12 tháng 5, tức là Cao Tông của Nam Tống, diêu tôn Khâm Tông là Hiếu Từ Uyên Thánh hoàng đế. Ngày 4 tháng 6 năm 1135, Hôn Đức công bệnh mất ở thành Ngũ Quốc. Tháng 2 ÂL năm 1141, khi Tống - Kim xúc tiến nghị hòa, Kim Hi Tông hạ lệnh thăng Hôn Đức công làm Thiên Thủy quận vương, Trọng Hôn hầu làm Thiên Thủy quận công. Mùa xuân năm 1142, hai nước ký Thiệu Hưng hòa nghị, lấy Hoài Hà làm ranh giới, giang sơn triều Tống đến đó chỉ còn 15 lộ. Ngày 1 tháng 5 năm 1142, Kim cho mẹ Cao Tông là Vi thái hậu đem thi hài Huy Tông về nước an táng. Khi thái hậu khởi hành, Thiên Thủy quận công chạy theo xe, xin về nói hộ với Cao Tông để cho mình về, hứa chỉ cần ngôi Thái Ất cung sứ, không đòi hỏi gì hơn, thái hậu đồng ý. Tuy nhiên Cao Tông nghe việc này, tỏ ra không vui, và đến cuối đời Khâm Tông cũng không được về nước.

Theo quyển Đại Tống Tuyên Hòa di sự, tháng 6 ÂL năm 1156, vua Kim lúc đó là Hải Lăng vương Hoàn Nhan Lượng ép ông cùng vua Liêu cũ là Da Luật Diên Hi phải cưỡi ngựa. Thiên Thủy quận công thân thể vốn suy nhược, vừa lên ngựa thì không trụ nổi, bị ngã ngựa; còn Da Luật Diên Hi quen cưỡi ngựa, đến đó nhân cơ hội tìm đường bỏ trốn, liền bị kị binh Kim bắn chết. Năm 1161 tin tức này mới được báo cho triều đình Nam Tống. Triều đình Nam Tống làm lễ tang, truy miếu hiệu cho ông là Khâm Tông, thụy hiệu là Cung Văn Thuận Đức Nhân Hiếu hoàng đế (恭文順德仁孝皇帝).

Tuy nhiên di hài của Khâm Tông vẫn còn ở nước Kim. Sang thời Kim Thế Tông - Tống Hiếu Tông. Năm 1171, nhân việc Tống sứ sang, vua Kim hỏi về việc rước di thể về, Tống sứ xin về nước báo lại. Kim chờ thêm một thời gian, thấy Tống không có hồi âm, bèn cho táng Khâm Tông ở Củng Lạc theo lễ quan nhất phẩm.

Danh sách các Tể tướng thời Khâm Tông

Lý Bang Ngạn: 1126

Trương Bang Xương: 1126 - 1127

Nhận định

Trong giai đoạn trị vị ngắn ngủi Khâm Tông tỏ ra là người chịu khó siêng năng, sống cần kiệm. Tuy vậy ông tỏ ra yếu đuối trong cuộc chiến chống Kim và phải trả giá bằng việc mất nước và cái chết nơi đất khách quê người.

Gia quyến

Hậu phi

thumb|Chân dung Nhân Hoài hoàng hậu Chu thị

  • Nhân Hoài hoàng hậu Chu thị (仁懷皇后 朱氏, 1102 - 1127), người Biện Kinh, con gái của Chí vũ khang quân Tiết độ sứ Chu Bá Tài (朱伯材). Khi Khâm Tông còn là Thái tử thì Chu thị đã được lập làm Đông cung Hoàng thái tử phi chính vị Trữ phi. Năm 1125, Khâm Tông hoàng đế đăng cơ, kế thừa đại thống liền sắc phong Chu thị làm Chính cung Hoàng hậu, truy phong Chu Bá Tài làm Ân Bình quận vương (恩平郡王). Bà dung mạo xinh đẹp, thiên tư mỹ miều, tính tình lại vô cùng hiền lương, ôn nhu hoà nhã nên rất được Tống Khâm Tông sủng hạnh. Ngoài ra, bà còn có tài hội họa, thi ca, thật hiếm có vị Hoàng hậu nào được như bà. Trong loạn Tĩnh Khang, Chu hoàng hậu bị bắt lên phương Bắc, quân Kim ép bà phải mặc trang phục của người Kim và ra lệnh cho bà phải đi tắm. Nhục nhã uất hận, bà nhảy xuống nước mà tự sát. Bà được Kim Thế Tông khen ngợi là "hoài thanh lý khiết, đắc nhất dĩ trinh, chúng tuý độc tinh, bất khuất kỳ tiết", tức là biết giữ tiết trinh, bất khuất trước giặc, ban thụy Tĩnh Khang quận Trinh Tiết phu nhân (靖康郡贞节夫人). Sau khi lên ngôi, Tống Ninh Tông truy tôn Chu hoàng hậu là Nhân Hoài hoàng hậu (仁懷皇后), hợp thờ với Tống Khâm Tông ở Thái miếu, sau đó dời vào Cảnh Linh cung (景靈宮).
  • Chu Thận Đức phi (朱慎德妃; 1110 - 1142), em gái của Nhân Hoài hoàng hậu, sử sách không ghi chép gì về bà, chỉ biết bà cũng bị bắt trong loạn Tĩnh Khang, sinh một trai một gái , kết cục không rõ
  • Tài nhân Trịnh Khánh Vân (才人鄭慶雲) , sinh Triệu Huấn.
  • Tài nhân Hàn Tĩnh Quan (才人韓靜观), sinh một người con trai nhưng mất sớm, không rõ cha đứa bé, bị bắt làm thiếp cho Thân vương Hoàn Nhan Gia Bảo (完颜斜保).
  • Tài nhân Lưu Nguyệt Nga (才人劉月娥)
  • Tài nhân Lô Thuận Thục (才人盧順淑) , bị bắt làm thiếp cho Thân vương Hoàn Nhan Gia Bảo (完颜斜保).
  • Tài nhân Hà Phượng Linh (才人何鳳齡)
  • Tài nhân Địch Ngọc Huy (才人狄玉輝; 1114 - ?), nhỏ tuổi nhất trong hậu cung Khâm Tông , bị làm nhục mà mang thai, sinh được một con gái
  • Phu nhân Thích Tiểu Ngọc (夫人戚小玉)
  • Phu nhân Trịnh Nguyệt Cung (夫人鄭月宮)
  • Phu nhân Tưởng Trường Kim (夫人蔣長金)
  • Phu nhân Bào Xuân Điệp (夫人鮑春蝶)
  • Cung nữ Vệ Miêu Nhi (宮女衛貓兒), Tào Diệu Uyển (曹妙婉), Bặc Nhữ Mạnh (卜女孟), Tịch Tấn Sĩ (席進士), Trình Xảo (程巧), Dũ Ngoạn Nguyệt (俞玩月), Hoàng Cẩn (黄勤) đều đâm đầu xuống nước mà tự sát để tránh bị làm nhục, mất cùng năm với Chu hoàng hậu

Con cái

Hoàng tử

Hoàng thái tử Triệu Kham (赵谌; 1117 - 1128?), mẹ là Chu hoàng hậu, được phong Sùng quốc công bởi ông nội là Tống Huy Tông, Khâm Tông lên ngôi phong làm Thái tử, bị quân Kim giết

Triệu Cẩn (赵谨; 1127 - ?), mẹ là Chu Đức phi, sinh ở phương Bắc, về sau không rõ

Triệu Huấn (赵训; 1129 - ?), mẹ là Trịnh Tài nhân, sinh ở phương Bắc, về sau không rõ

Công chúa

  • Nhu Gia Công chúa (柔嘉公主; 1121 - ?), mẹ là Chu hoàng hậu, về sau bị bắt đến Ngũ Quốc thành , kết cục không rõ
  • Triệu thị Công chúa (趙氏公主), không rõ tên, mẹ là Chu Đức phi
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
thumb|alt=A painting of a man with a black goatee looking to the left of the viewer while wearing a red shirt and a black hat, all in front of a grey background|[[Tống Khâm Tông đã
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Vương Phủ (王黼)** (Năm 1079~năm 1126), tự **Thương Minh(將明)**, quê ở Tường Phù ở Khai Phong (nay là Khai Phong, Hà Nam ) thời Bắc Tống, một nhân vật chính trị cuối thời Bắc Tống,
[[Tập_tin:Periodic_table,_good_SVG.svg|phải|nhỏ|432x432px| ]] **Nguyên tố tổng hợp** bao gồm 24 nguyên tố hóa học không xuất hiện tự nhiên trên Trái Đất: chúng được tạo ra bởi sự điều khiển của con người đối với các
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
alt=Painted image of a portly man sitting in a red throne-chair with dragon-head decorations, wearing white silk robes, black shoes, and a black hat, and sporting a black mustache and goatee|Chân dung [[Tống Thái Tổ
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
nhỏ|Sơ tổ [[Pháp Nhãn Văn Ích.|225x225px]] **Pháp Nhãn tông** (zh. _fǎyǎn-zōng_ 法眼宗, ja. _hōgen-shū_) là một trường phái của Thiền tông Trung Quốc, được xếp vào Ngũ gia thất tông (zh. 五家七宗). Tông này bắt
nhỏ|250x250px|Cuộc hội vấn giữa [[Đạo Tín|Tứ Tổ Đạo Tín và Thiền sư Pháp Dung tại động núi Ngưu Đầu.]]**Ngưu Đầu tông** (zh. 牛頭宗), cũng được gọi là **Ngưu Đầu Thiền** (zh. 牛頭禪), là một dòng
**Khâm Từ Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽慈皇后; 1053 hoặc 1058 - 1089), còn được gọi là **Trần Mỹ nhân** (陳美人) hoặc **Trần Quý nghi** (陳貴儀), là một phi tần của Tống Thần Tông Triệu Húc
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Thăm khám trực tràng** là một phương pháp thăm khám bên trong trực tràng thực hiện bởi một bác sĩ hay những người có chuyên môn trong y khoa khác. ## Thủ thuật tuốc-xê trực
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Tống** (Phồn thể: 宋國; giản thể: 宋国) là một quốc gia chư hầu của nhà Chu thời Xuân Thu và Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, lãnh thổ quốc gia này bao gồm phần
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
**Phạt Tống lộ bố văn** (chữ Hán: 伐宋露布文 Bài tuyên bố về việc đánh Tống) là bài hịch văn do Lý Thường Kiệt, tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, viết và cho yết
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Trần Tĩnh** (chữ Hán: 陳靖, 948 – 1025), tên tự là **Đạo Khanh**, người huyện Phủ Điền, quân Hưng Hóa , là quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử
**Trần Dịch** (chữ Hán: 陈绎, ? – ?), tự **Hòa Thúc**, người Khai Phong , quan viên nhà Bắc Tống. ## Thời Tống Anh Tông Dịch đỗ tiến sĩ, được làm Quán các hiệu khám,
**Trần Hòa** (chữ Hán: 陈禾, ? – ?), tên tự là **Tú Thực**, người huyện Ngân, phủ Minh Châu , là quan viên cuối đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Gia nhập
**Viên Chiếu Tông Bản** (圓照宗本; ?-1099) là thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Vân Môn, môn đệ đắc pháp của thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Nối pháp của ông có bốn vị danh tiếng
**Tống sử** (chữ Hán: 宋史) là một bộ sách lịch sử trong Nhị thập tứ sử của Trung Hoa. Sách này kể lịch sử thời nhà Tống, tức là Bắc Tống và Nam Tống; được
**Nhân Hoài Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁懷皇后; 1102 - 1127), nguyên phối và là Hoàng hậu duy nhất của Tống Khâm Tông Triệu Hoàn. ## Tiểu sử thumb|Nhân Hoài Hoàng hậu **Nhân Hoài Hoàng hậu**
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Minh Anh Tông** (chữ Hán: 明英宗, 29 tháng 11, 1427 – 23 tháng 2, 1464), là vị Hoàng đế thứ 6 và thứ 8 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm** (1902–1976) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn kiêm
CarePlus luôn cập nhật trang bị thiết bị mới nhất, cơ sở vật chất hiện đại cùng đội ngũ bác sĩ và nhân viên chuyên môn giỏi, tận tâm. Phòng khám đạt tiêu chuẩn quốc
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Khâm Từ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:欽慈皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử chế độ phong kiến ở khu vực Á Đông. ## Danh sách *Tống Thần Tông Khâm Từ
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
nhỏ|phải|Tượng Tần Cối và Vương Thị quỳ trước Nhạc Miếu ở Hàng Châu, hai tượng này dùng để người Trung Quốc đến thăm nhằm mục đích phỉ nhổ tội trạng của hai người **Tần Cối**