✨Đường Huyền Tông

Đường Huyền Tông

Đường Huyền Tông (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là Lý Long Cơ, có thời điểm gọi là Võ Long Cơ () trong giai đoạn 690 - 705, là vị Hoàng đế thứ 7 hoặc thứ 9 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Đường Minh Hoàng được đánh giá là một trong những vị Hoàng đế đáng chú ý nhất của nhà Đường, danh tiếng không thua kém ông cố nội của ông là Đường Thái Tông Lý Thế Dân, tạo nên giai đoạn thịnh trị tột bậc cho triều đại này.

Thời niên thiếu của ông chứng kiến những biến động to lớn của dòng họ, từ việc tổ mẫu Võ thái hậu soán ngôi xưng đế cho đến Vi hoàng hậu mưu đoạt ngai vàng. Năm 710, sau khi bác ruột là Đường Trung Tông bị mẹ con Vi hoàng hậu và Công chúa An Lạc ám hại, ông liên kết với cô mẫu là Trưởng công chúa Thái Bình, tiến hành chính biến Đường Long, tiêu diệt bè đảng Vi thị, tôn hoàng phụ tức Duệ Tông Lý Đán trở lại ngôi hoàng đế. Sau đó, Lý Long Cơ được phong làm Hoàng thái tử. Năm 712, Long Cơ được vua cha nhường ngôi. Sau khi đăng cơ, Đường Minh Hoàng thanh trừng các phe cánh chống đối do công chúa Thái Bình lãnh đạo, chấm dứt gần 30 năm đầy biến động của nhà Đường với liên tiếp những người phụ nữ nối nhau bước lên vũ đài chánh trị. Sau đó, ông bắt tay vào việc xây dựng đất nước, trọng dụng các tể quan tài ba như Diêu Sùng, Tống Cảnh, Trương Thuyết và Trương Cửu Linh, đề xướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trọng dụng nhân tài, ngăn chặn quan liêu lãng phí, tăng cường uy tín của Trung Quốc với lân bang, mở ra thời kì Khai Nguyên thịnh thế (開元盛世) kéo dài hơn 30 năm.

Tuy nhiên về cuối đời, Đường Minh Hoàng sinh ra u mê xa xỉ, mê đắm trong tửu sắc, không chú ý đến nền chính trị ngày càng bại hoại suy vi, bên trong sủng ái Dương Quý Phi, bỏ bê việc nước, bên ngoài trọng dụng gian thần Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung khiến cho nền thống trị ngày càng xuống dốc. Các phiên trấn do người dân tộc thiểu số cai quản được trọng dụng quá mức, trong đó có mạnh nhất là An Lộc Sơn ở đất Yên. Năm 755, An Lộc Sơn chính thức phát động loạn An Sử sau đó nhanh chóng tiến về kinh đô Trường An. Sự kiện này cũng mở đầu cho giai đoạn suy tàn của triều đại nhà Đường. Trước bờ vực của sự diệt vong, Minh Hoàng và triều đình phải bỏ chạy khỏi kinh thành Trường An, đi đến Thành Đô. Cùng năm 756, con trai ông là thái tử Lý Hanh xưng đế, tức là Đường Túc Tông, Minh Hoàng buộc phải thừa nhận ngôi vị của Túc Tông, lên làm Thái thượng hoàng.

Cuối năm 757, khi quân Đường giành lại được kinh đô Trường An, Thái thượng hoàng đế được đón về kinh đô nhưng không còn quyền lực và bị hoạn quan Lý Phụ Quốc ức hiếp. Những ngày cuối cùng của ông sống trong u uất và thất vọng cho đến lúc qua đời vào ngày 3 tháng 5 năm 762, ở tuổi 78.

Thời niên thiếu

Đường Minh Hoàng tên thật là Lý Long Cơ (李隆基), là con trai thứ ba của Đường Duệ Tông Lý Đán, vua thứ 5 hay thứ 7 của Triều đại nhà Đường, chào đời vào ngày Mậu Dần tháng 8 năm nguyên niên Thùy Củng (tức ngày 8 tháng 9 năm 685) ở kinh đô Trường An, ông ra đời dưới thời gian trị vì đầu tiên của vua cha Đường Duệ Tông, mẹ của ông là Đậu thị, người vợ thứ hai của Duệ Tông, khi ấy đang được phong là Đức phi. Lúc đó tuy Duệ Tông nắm ngôi vua, nhưng mọi quyền hành đều bị chi phối bởi mẹ Duệ Tông là Võ thái hậu, bà nắm mọi quyền hành trong triều, có âm mưu soán ngôi mà xưng đế.

Tháng 8 năm 687, hoàng tử Lý Long Cơ 3 tuổi, cùng các anh em trai đều được phong tước Vương, ông được phong làm Sở vương (楚王). Tân Đường thư mô tả Lý Long Cơ "từ nhỏ đã anh minh đa nghệ, hiểu biết âm luật, thiện bát phân thư, dung mạo vĩ lệ, có tư chất phi thường". Trong số các con của Duệ Tông, xếp trên Long Cơ là hai người anh trai Lý Thành Khí (con người vợ chánh của vua cha là Lưu hoàng hậu) và Lý Thành Nghĩa, các em trai ông gồm Lý Long Phạm, Lý Long Nghiệp và Lý Long Đệ. Ông có hai người chị em cùng cha mẹ là công chúa Kim Tiên và công chúa Ngọc Chân (Lý Trì Doanh), cả hai người sau đều xuất gia làm nữ đạo sĩ.

Thời Võ Tắc Thiên

Năm 689, Lý Long Cơ được Võ Thái hậu mệnh làm con thừa tự của bác ruột là Lý Hoằng, thái tử dưới thời Đường Cao Tông, song yểu mệnh mất sớm đi (có lời đồn là do Võ thái hậu hạ độc mà chết). Sang năm 690, Thái hậu ép Duệ Tông nhường ngôi cho mình, làm gián đoạn nhà Đường, lập ra nhà Võ Chu. Bà ta cũng buộc Duệ Tông cùng các hoàng tử đổi sang họ của mình là Võ. Khi đó Long Cơ chỉ mới 8 tuổi, ông được một thị thiếp khác của Duệ Tông là Đậu Lư thị cùng 2 người dì nuôi dưỡng. Vì việc này, Võ Tắc Thiên giáng phong vị Sở vương của ông thành Lâm Tri vương (臨淄王), chuyển vào trong cung quản thúc cùng với các anh họ là Lạc An vương Lý Quang Thuận, Ung vương Lý Thủ Lễ và Vĩnh An vương Lý Thủ Nghĩa, ba người con của cố thái tử Lý Hiền (thái tử dưới thời Đường Cao Tông, con người chị của Võ Tắc Thiên tức Hàn Quốc phu nhân Võ Thuận, sau bị Tắc Thiên giết). Tất cả họ đều bị cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài. Cho đến năm 699, khi Duệ Tông không còn được giữ ngôi Thái tử, trở lại làm Tương vương, thì Long Cơ mới được phép ra khỏi cung, và được lập phủ đệ ở phường Tích Thiện, thành Lạc Dương. Mấy năm sau, ông được cùng Võ Tắc Thiên đến Trường An, sau đó được ban phủ đệ ở Khánh phường (nơi ở của hoàng thân nhà Đường ở Trường An).

Thời Đường Trung Tông

Năm 705, trong triều đình, tể tướng Trương Giản Chi làm binh biến ép Võ thái hậu phải thoái vị. Bác ruột Long Cơ là Đường Trung Tông Võ Hiển, bị phế truất năm 684, được trở lại ngôi vị, tái lập nhà Đường. Những hoàng thân bị Võ Tắc Thiên đổi họ trước đây đều được đổi sang họ Lý như cũ, do đó Võ Long Cơ được đổi là Lý Long Cơ, sau nhận chức phong là Vệ úy thiếu khanh.

Giữa năm 708, Lý Long Cơ được phong làm biệt giá Lộ châu. Đầu năm 709, ông được đổi phong làm Ngân Thanh Quang Lộc đại phu. Sang năm 710, Long Cơ bị điều Lộ châu trở về Trường An. Lúc này bọn pháp sư ở trong cung phao tin rằng có khí thiên tử ở khu vực quanh nơi ở của Lý Long Cơ, nên Trung Tông tìm cách trấn an dư luận bằng việc đến thăm phủ đệ của Long Cơ và dùng tiệc rượu tại đây. Do đó ông thường hay giao du nhiều văn võ sĩ, trong đội Thân quân Vạn kị của Trung Tông phát triển thế lực. Từ thời Đường Thái Tông, đội kị binh đã được hàng trăm, sang thời Võ Tắc Thiên được nâng lên hàng nghìn, và đến thời Trung Tông đã hàng vạn.

Thời Đường Duệ Tông

Chính biến chống Vi hậu

Ngày 3 tháng 7 năm 710, Đường Trung Tông qua đời một cách đột ngột, mà các sử gia thời xưa phần nhiều cho rằng là do mẹ con Vi hoàng hậu hạ sát. Vi hậu tính việc dùng binh biến xưng Đế, trở thành Võ Tắc Thiên thứ hai, và sẽ cho công chúa An Lạc làm Thái nữ kế thừa ngôi vị. Giữa lúc đó, em gái Trung Tông công chúa Thái Bình Lý Lệnh Nguyệt và Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi can thiệp vào, lập di chiếu buộc Vi hoàng hậu lập Ôn vương Lý Trọng Mậu làm hoàng đế, nhưng Vi thị vẫn là Thái hậu lâm triều nhiếp chính, còn Tương vương Lý Đán được quyền nghe chính sự, thế cuộc tạm thời yên ổn. Phe cánh của Vi Thái hậu là Vi Ôn (韋溫) và Tông Sở Khách (宗楚客) thấy Lý Đán và Lý Lệnh Nguyệt là mối đe dọa lớn đối với Vi hậu, nên định diệt trừ. Tương vương Lý Đán đối với việc cung đình không hề có hứng thú, nên việc khuếch trương bàn bày thế lực đều do Lý Long Cơ tự mình làm chủ.

Bấy giờ trong triều, Thị lang bộ Binh Thôi Nhật Dụng (崔日用) vốn thân thiện với gian thần Tông Sở Khách, biết Sở Khách và Vi Thái hậu có ý làm bậy, sợ bị liên lụy, bèn sai người báo với Lý Long Cơ. Bấy giờ, Long Cơ bị bãi chức Lộ châu biệt giá, ở trong kinh thành chiêu kết được nhiều dũng sĩ, nghe được tin này, bèn liên lạc với cô ruột tức công chúa Thái Bình mưu trừ Vi Thái hậu. Bấy giờ, Vi thái hậu đối với sự can thiệp của công chúa trong việc lập Ôn vương vô cùng bất mãn, nên càng gây hiềm khích hơn. Long Cơ mật bàn kế hoạch cùng Thái Bình và con trai bà ta Tiết Sùng Giản (薛崇簡) cùng bọn Chung Thiệu Kinh (鍾紹京), Ma Tự Tông, Lưu U Cầu... tính bề lật đổ họ Vi. Lúc này, quân cấm vệ do Vi Bá (cháu Vi thái hậu) cùng Cao Tung nắm giữ. Những người này cố gắng thể hiện quyền lực của mình, đối xử với quân sĩ rất hà khắc, do vậy tướng sĩ đều phẫn nộ. Bọn Cát Phúc Thuận, Trần Huyền Lễ, Lý Tiên Phù liền rủ nhau theo về phe Long Cơ. Cuộc chính biến được sử sách gọi là Sự biến Đường Long (唐隆之變) kết thúc thắng lợi, toàn bộ bè đảng họ Vi bị diệt trừ. Lý Long Cơ sai giết hại thân tộc họ Vi và các quan lại trong phe của Vi Thái hậu, và đem thi thể Vi hậu ra giữa chợ để khoe chiến thắng với người dân.

Ngày 24 tháng 7, ông đích thân đến yết kiến cha là Tương vương Lý Đán, khấu đầu tạ tội. Sau đó, ông đón cha vào cung làm chú chánh cho Đường Thương Đế Lý Trọng Mậu. Lý Long Cơ ép Thương Đế lập mình làm Bình vương (平王). Ngày 25 tháng 7, dưới sự sắp đặt của công chúa Thái Bình, Đường Thương Đế hạ chiếu truyền ngôi cho Tương vương Lý Đán. Lý Long Cơ được cân nhắc làm Điện trung giám (殿中監).

Sau khi phục vị, Đường Duệ Tông cân nhắc việc lập Thái tử, giữa con đích trưởng là Tống vương Lý Thành Khí (李成器), người kế thừa hợp pháp theo những nguyên tắc của Nho giáo, với con thứ là Bình vương Lý Long Cơ, nhưng lập được nhiều công trạng. Nhưng Thành Khí lại xin nhường ngôi cho Long Cơ, còn mình an phận chịu làm một thân Vương hưởng phú quý, ông nói

Lý Thành Khí khóc lóc trong nhiều ngày, và sau cùng Duệ Tông theo lời khuyên của Lưu U Cầu - một trong số những đại thần tham gia sự biến Đường Long đã chấp thuận thỉnh cầu này, quyết định lập Long Cơ làm Thái tử. Long Cơ cố từ, lại dâng sớ nhượng vị lại cho anh là Thành Khí, song Duệ Tông không chấp nhận.

Đầu năm 711, Thái Bình công chúa nhiều lần tố cáo Long Cơ mưu phản, lại mua chuộc đại thần Vi An Thạch. Duệ Tông bắt đầu nghi ngờ thái tử, triệu An Thạch vào hỏi ý, nhưng An Thạch cố gắng khuyên can và bênh vực cho thái tử, nên bị Thái Bình ghét bỏ. Thái Bình tố cáo An Thạch, nhưng An Thạch được Quách Nguyên Chấn xin giúp nên không bị trị tội. Tống Cảnh cùng quan tể thần khác là Diêu Nguyên Chi cũng ủng hộ thái tử, tâu với Duệ Tông nên đưa các hoàng tử có khả năng tranh chấp ngai vàng, cùng Bân vương Lý Thủ Lễ - con Chương Hoài thái tử Lý Hiền ra làm Thứ sử các châu và an trí công chúa Thái Bình cùng các con ở Đông Kinh Lạc Dương, đồng thời trao quyền hành cho thái tử. Duệ Tông chấp nhận cho các hoàng tử ra khỏi kinh thành, song cho rằng Lạc Dương quá xa, nên dời công chúa cùng phu quân Võ Du Kị đến Bồ châu

Công chúa Thái Bình đang ở Sơn Tây, nghe vậy tức giận, uy hiếp Lý Long Cơ phải tố cáo Tống Cảnh và Diêu Nguyên Chi mưu phản. Biết mình thế yếu, Long Cơ phải chấp nhận, dâng tấu nói Tống, Diêu hai tướng có ý chia cắt tình anh em giữa Long Cơ với Thành Khí và Thủ Lễ (họ từng có thời gian lớn lên cùng nhau), xin xử tử hai người. Duệ Tông cuối cùng giáng chức Tống, Diêu, triệu hồi lại các thân vương bị đày cùng Thái Bình trở về kinh đô. Bấy giờ, bảy vị tể tướng trong triều có tới bốn là tay chân của Thái Bình (Đậu Hoài Trinh, Tiêu Chí Trung, Sầm Hi, Lục Tượng Tiên, Trừng Lan), chỉ còn hai người theo phe Long Cơ, thế lực của ông thua kém hẳn Thái Bình. Tháng 7 cùng năm, Long Cơ xin nhường ngôi thái tử cho anh là Thành Khí, Duệ Tông không chấp nhận. Long Cơ nhân đó xin cho Thái Bình về kinh, Duệ Tông vì muốn trấn an ông, đành phải chấp thuận. Sau đó Duệ Tông bắt đầu giao các việc nhỏ trong triều cho Lý Long Cơ giải quyết. Thái Bình muốn kiềm chế Long Cơ, bèn xin Thượng hoàng Duệ Tông tiếp tục nắm quyền lực, cứ năm ngày ra triều một lần. Còn Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ đang đứng trước hai sự lựa chọn: một là đứng yên chờ đến khi Công chúa ra tay với mình và đối phó một cách thụ động, hai là ra tay trước, trừ khử người cô ruột để thực sự trở thành "hoàng đế" và thực hiện những hoài bão chánh trị của mình. Tuy nhiên Thái Bình là người em gái ruột duy nhất của phụ thân ông, nếu như ông hành động lỗ mãng thì sẽ mang tai tiếng bất hiếu:

Mùa hạ năm 713, có tin đồn rằng công chúa Thái Bình, Đậu Hoài Trinh, Sầm Hi, Tiêu Chí Trung, Trừng Lan cùng bọn văn thần Tiết Tắc, Lý Tấn (hậu duệ Lý Đức Lương, em trong họ của Đường Cao Tổ Lý Uyên), Lý Du, Cổ Ưng Phúc, Đường Tẩn, võ tướng Thường Nguyên Giai, Lý Từ, Lý Khâm và nhà sư Huifan, đang âm mưu lật đổ Minh Hoàng. Người ta còn cho rằng họ đã mưu tính với thị tì của Minh Hoàng là Nguyên thị để hạ chất độc Gastrodia elata (một loại chất kích dục) vào trong đồ ngự dùng của Minh Hoàng. Khi âm mưu này được Ngụy Tri Cổ tấu lên Minh Hoàng, Minh Hoàng theo lời khuyên của Vương Cư, Trương Thuyết và Thôi Nhật Dụng, quyết định hành động trước. Ông triệu các huynh đệ là Kỳ vương Lý Phạm và Tiết vương Lý Nghiệp, Quách Nguyên Chấn, Vương Mao Trọng, Khương Kiểu, Lý Lệnh Vấn, Vương Thủ Nhất (hoàng tỉ phu), thái giám Cao Lực Sĩ, hoạn quan Dương Tư Húc, tướng quân Lý Thủ Đức, bàn kế sách hành động. Ngày 29 tháng 7, hoàng đế giao cho Vương Mao Trọng 300 quân từ điện Võ Đức tiến vào cửa Kiềm Hóa, giết Triệu Nguyên Giai và Lý Từ, bắt giam Giả Ưng Phúc, Tiêu Chí Trung, Sầm Hi, Lý Du rồi chém ở giữa triều. Đậu Hoài Trinh bỏ trốn sau đó treo cổ tự tử. Minh Hoàng sai đổi họ của Hoài Trinh thành Độc và giết chết bè đảng của Hoài Trinh. Ông ra lệnh xá thiên hạ, trừ những đồng mưu của công chúa. Tiết Tắc bị bức tử trong ngục.

Thượng hoàng Duệ Tông nghe tin biến động, lên cửa Thừa Thiên để quan sát điều gì đang xảy ra. Quách Nguyên Chấn tâu với Thượng hoàng về hành động của Minh Hoàng, và Thượng hoàng bắt buộc phải ra chiếu lệnh kể tội những người kể trên, hợp pháp hóa cuộc chánh biến. Ngày 30 tháng 7, Thượng hoàng ra lệnh giao lại quyền hành trong triều cho Minh Hoàng, chuyển sang sống ở điện Bách Phúc cho đến khi qua đời ngày 13 tháng 7 năm 716. Từ đó ông hoàn toàn nắm giữ quyền lực trong triều. Công chúa Thái Bình trốn vào một ngôi chùa, sau bị phát hiện và bị Minh Hoàng ban cho được tự sát. Tuy nhiên, ông tha cho con trai công chúa là Tiết Sùng Giản, nhưng buộc đổi sang họ Lý. Toàn bộ tài sản của công chúa bị tịch thu.

Minh Hoàng ban đầu dùng Trương Thuyết và Lưu U Cầu vào chức tể tướng, nhưng sớm thay thế họ bằng Diêu Nguyên Chi cùng Lư Hoài Thận. Diêu Nguyên Chi được sử sách đánh giá là một vị quan có năng lực và đầy chính trực, sau này khi làm tể tướng, ông đổi tên thành Diêu Sùng do kỵ tên vào niên hiệu Khai Nguyên đang dùng khi đó. Đại thần Khương Kiểu có xích mích với Diêu Sùng, bị Minh Hoàng trách phạt nặng nề, sau đó ông bái Nguyên Chi làm Binh bộ thượng thư, Đồng trung thư môn hạ tam phẩm. Dưới thời Minh Hoàng, số lượng tể tướng trong triều được hạn chế ở số 2 (đôi khi là 3) thay vì 6, 7 người như thông lệ các triều vua trước. Ông lập vợ là Vương thị làm Hoàng hậu. Nhưng do Hoàng hậu không con, nên người con của Triệu Lệ phi - người được Minh Hoàng sủng ái - là Lý Tự Khiêm được phong làm Thái tử vào năm 714.

Ông muốn giao hết triều chính cho Diêu Sùng giải quyết, nhưng Diêu Sùng không hiểu ý khiến Minh Hoàng không hài lòng. May nhờ có Cao Lực Sĩ đứng ra giải hoà, cho Diêu Sùng hay ý vua, từ đó Diêu Sùng (với sự phụ tá của Lư Hoài Thận), chưởng quản triều định, tiến cử trung lương, trừng phạt gian thần, vỗ an bách tính, khiến triều chính trở nên ổn định và vững mạnh, bản thân Sùng trở thành vị tể tướng nổi tiếng thành công trong lịch sử Trung Quốc Nguyên Can Diệu cũng bị bãi chức, và Tô Đĩnh lên nắm giữ quyền tể tướng cùng với Tống Cảnh. Còn Diêu Sùng tuy không còn tham gia chính quyền, nhưng vẫn có ảnh hưởng tới hoàng đế, nhiều lần vẫn được ông hỏi ý kiến đến tận lúc mất (721). Chủ trương chính trị của Tống Cảnh là thượng tôn pháp luật, mọi việc đều làm theo luật và thường can gián thẳng thừng, trái với Diêu Sùng nhanh nhẹn và linh hoạt. Đơn cử như vào năm 719, đại thần Vương Nhân Kiểu mất, người nhà muốn làm mả cao năm trượng một thước, nhưng Tống Cảnh không đồng ý vì theo nghi lễ, phần mộ đại thần cao nhất chỉ tới ba trượng. Tuy không hợp ý với nhà vua nhưng nói chung thời Tống Cảnh làm tể tướng, quan hệ quân thần trong triều vẫn tốt đẹp. Sử sách nhấn mạnh rằng dù tính cách của hai tướng Diêu - Tống trái ngược nhau, nhưng khi nói tới thịnh trị thời Khai Nguyên thì không thể không kể đến tên của họ; và các tể tướng sau này luôn bị đánh giá thấp hơn họ - đề nghị xây dựng mộ phần Nhân Hiệu theo quy mô ngôi mộ của Đậu Hiếu Kham, ngoại tổ phụ của Minh Hoàng. Ban đầu nhà vua đồng ý, nhưng sau đó các tể tướng Tống Cảnh và Tô Đĩnh phản đối vì cớ mộ của Đậu Hiếu Kham quá tốn kém và không nên làm thêm một ngôi mộ như thế nữa. Minh Hoàng đồng ý với các tể tướng, và hạ lệnh chôn cất Vương Nhân Hiệu theo lễ quan nhất phẩm.

Từ cuối năm 719, trong nước phát sinh nạn tiền giả, Tống Cảnh và Tô Đĩnh xử lý sự việc khá nghiêm khắc, vô tình làm Minh Hoàng không vui Sang năm 720, ông bãi chức Tể tướng của Tống Cảnh và Tô Đĩnh, sau đó bổ nhiệm Trương Gia Trinh và Nguyên Can Diệu làm tể tướng.. Nguyên Can Diệu chủ trương không nên trọng dụng con cháu thế tộc mà không có công huân, nên tự mình xin Minh Hoàng cho bãi chức hai người con, cho ra làm việc ở các châu. Sau đó các quan khác cũng đành hưởng ứng xin theo, tổng cộng hơn 100 công tử quý tộc được hưởng phụ ấm bị chuyển sang các châu quận làm việc. Còn Trương Gia Trinh cũng là một nhà chính trị có khả năng, nhưng không bằng Diêu Sùng, Tống Cảnh. Lúc làm tể tướng, ông ta tiến cử bốn quan đại thần gồm Miêu Diên Tự, Lã Thái Nhất, Viên Gia Tĩnh, Thôi Huấn. Bốn người này được tham gia quyết định chính sự trong triều, cũng có nhiều quyền lực. Sang tháng 9 ÂL năm 721, Minh Hoàng lại bổ nhiệm Trương Thuyết làm Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, do đó trong triều đình có tới 3 tể tướng.

Trong khi đó, hoàng đế theo đề nghị của Trương Thuyết, đã giảm số quân phòng thủ ở biên cương từ 60 vạn xuống còn 20 vạn, để những người lính có thể trở về đoàn tụ với gia đình họ. Hơn nữa, nhận thấy rằng binh sĩ bất bình vì họ bị buộc phải ra trấn thủ biên cương dài hạn nhưng gia đình họ không được miễn thuế, nên Trương Thuyết đã đề nghị bãi bỏ chế độ cũ, ban lệnh cho quân sĩ trong quân đội được miễn thuế thân và lao dịch, do đó nhiều người xung phong nhập ngũ. Điều này giúp cho trong một thời gian, các binh sĩ được chu cấp đầy đủ hơn. Cuối năm, nhà Đường thu thập được 13 vạn tinh binh, bèn hạ lệnh luân phiên chia thời gian trong năm nhau thành các kì hạn; đến kì thì cho binh lính vào túc trực, hết hạn thì trả về quê làm ruộng. Một số sử gia sau này lên án Trương Thuyết, cho rằng quyết định của ông là mầm mống cho sự suy yếu của quân đội Đường sau này, song một số người khác, chẳng hạn như sử gia hiện đại Bá Dương, lập luận rằng hành động của Trương Thuyết không chỉ là cần thiết để đáp ứng binh lính mà còn cứu sống nhiều người.

Tết năm 723, Đường Minh Hoàng rời Trường An đến tuần du phương bắc, tháng 3 về kinh. Trong lúc đó tại triều, hai tể tướng Trương Gia Trinh, Trương Thuyết bất hòa với nhau, và Trương Thuyết bới móc việc em trai của Trương Gia Trinh là Trương Gia Hựu dính dáng tới một vụ tham nhũng mà gièm pha với hoàng đế, do đó Gia Trinh bị hoàng đế biếm làm Thứ sử U châu.. Sau đó Trương Thuyết được phong Trung thư lệnh, trở thành tể tướng nắm quyền lực cao nhất. Đến tháng 4, Minh Hoàng phong Vương Tuấn làm Binh bộ thượng thư, Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, thay thế vị trí của Trương Gia Trinh. Nhưng đến cuối năm đó, Tuấn bị tố cáo có ý tạo phản, nhưng do không đủ bằng chứng nên chỉ bị biếm chức làm Thứ sử Kì châu.

Cuối năm 723, quần thần đề nghị Minh Hoàng làm lễ phong thiền (tế trời). Về việc này, hai tể tướng Nguyên Can Diệu và Trương Thuyết trái quan điểm, trong khi Can Diệu khuyên vẫn chưa tới thời cơ thích hợp, nhưng Trương Thuyết thì ngược lại. Do đó giữa hai người sinh ra bất bình. Nghi lễ cuối cùng được tổ chức vào năm 725.

Năm 727, thấy Minh Hoàng lại nhớ đến Trương Thuyết; Võ Văn Dung và Thôi Ẩn Phủ lo sợ, bèn dâng sớ đàn hặc Thuyết. Nhà vua không tin, lại cho biếm Võ Văn Dung đến Ngụy châu, bắt Ẩn Phủ về nhà dưỡng bệnh cho mẹ. Tháng 11 năm 728, Minh Hoàng phong đại thần Tiêu Tung làm Đồng bình chương sự. cũng trong thời gian này, Minh Hoàng hạ lệnh cho xây Thập Vương viện (十王院) làm nơi ở cho các hoàng tử, thân vương. Kể từ đó, các thành viên nam trong hoàng tộc phần lớn sống trong Thập Vương viện này. Từ đó ông càng tin tưởng Cao Lực Sĩ, Lực Sĩ chính là người mở đầu cho nạn hoạn quan tham chính trong những năm nửa cuối triều Đường.

Mùa xuân năm 733, Bùi Đình Quang chết, Minh Hoàng theo ý kiến của Tiêu Tung, bổ nhiệm Vương Khâu thay làm tể tướng, nhưng Vương Khâu từ chối và đề cử đại thần Hàn Hưu. Do đó Hàn Hưu được phong Hoàng môn thị lang, Đồng bình chương sự. Ban đầu Hàn Hưu cùng Tiêu Tung hòa hợp, nhưng sau đó chuyển sang bất hòa. Nhà vua biết chuyện, mùa đông cùng năm đó bãi chức cả hai, lấy Bùi Diệu Khanh và Trương Cửu Linh cùng lên thay đảm nhận chức tể tướng.

Quân sự và ngoại giao

Về quân đội, Đường Minh Hoàng tiến hành cải cách phủ binh chế. Năm 723, ông thiết lập chế độ mướn quân. Chế độ này một mặt vừa có thể giải trừ được nổi khổ đi lính ở dân chúng ở các nơi, mặt khác lại có thể thu hút đội ngũ thất nghiệp, làm dịu mậu thuẫn xã hội. Minh Hoàng còn giải quyết về vấn đế lương thực cho quân đội. Năm 717, quân Đường đã thu tới 13 châu đã rơi vào tay giặc suốt 17 năm. Minh Hoàng còn muốn mở rộng đất đai nên đã đem quân sang xâm chiếm bán đảo Triều Tiên, củng cố nền thống trị ở An Nam. Danh tiếng của nhà Đường ngày càng lừng lẫy, những nước Ả rập và La Mã cử ngay người sang để đi sứ, giao hảo và học hỏi Đại Đường. Đất nước ngày càng cường thịnh.

Chiến tranh với lân bang

thumb|Bản đồ [[Hãn quốc Hậu Đột Quyết của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết và Bì Gia Khả hãn A Sử Na Mặc Cức Liên khi giao tranh với nhà Đường của Đường Minh Hoàng từ năm 713 đến năm 717]] Mùa xuân năm 713, Khã hãn Hãn quốc Hậu Đột Quyết là Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết sai con là A Sử Na Bặc Câu, Đồng Nga Đặc Lặc, em vợ Hỏa Bạt Hiệt Lợi cùng tướng Thạch A Thất công đánh Bắc Đình đô hộ phủ, nhưng bị quân Đường kích bại, Đồng Nga Đặc Lặc bị quân Đường chém chết, trong khi Hỏa Bạt Hiệt Lợi sợ hãi mà chạy đến nhà Đường (sau này Hỏa Bạt Hiệt Lợi đổi tên thành Hỏa Bạt Qúy Nhân 火拔歸仁 và được nhà Đường phong làm tướng nhà Đường). A Sử Na Mặc Xuyết đau đớn dẫn quân về. Sau trận này, hoàng đế lấy Hồng Lư thiếu khanh, Sóc Phương phó đại tổng quản Vương Khuê kiêm làm An Bắc đại đô hộ, Sóc Phương đạo hành quân đại tổng quản, cho cai trị thêm ba thành Phong An, Định Viễn, Hàng Thành... để phòng bị Đột Quyết xâm lấn. Tháng 5 năm 714, do nàng công chúa trước kia được Đường Duệ Tông gả cho A Sử Na Mặc Xuyết đã chết, A Sử Na Mặc Xuyết lại sai sứ giả đến nhà Đường xin cầu hôn với một nàng công chúa nữa, trong thư A Sử Na Mặc Xuyết xưng là phò mã, Thánh Thiên Cốt Độc Lộc Khã hãn. Minh Hoàng chấp nhận, gả công chúa sang Đột Quyết.. Từ đó mặc dù thỉnh thoảng vẫn xảy ra xung đột, nhưng nói chung quan hệ giữa hai bên vẫn tốt đẹp. Tuy nhiên sang năm 715, Minh Hoàng phong Tiết Nột làm Thứ sử Lương Châu để trông chừng Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết tấn công. Ở Hãn quốc Hậu Đột Quyết, khi Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết già cả thì sinh ra bạo ngược, tàn ác. Một số người của ông ta và một số bộ lạc, bao gồm cả con rể người Cao Câu Ly là Cao Văn Giản (高文簡) và con rể là A Sử Đức Hồ Lộc (阿史德胡禄) không còn quy phục A Sử Na Mặc Xuyết nữa, rủ nhau quy hàng nhà Đường. Các cuộc nổi dậy của các bộ lạc diễn ra ngay sau đó trong lãnh thổ Hãn quốc Hậu Đột Quyết.

Trước kia quân đội nước Khiết Đan và Khố Mạc Hề (Kumo Xi) nhân lúc vùng Doanh châu hỗn loạn đã xua quân chiếm lấy. Đầu năm 714, tướng quân Tiết Nột dâng sớ xin Minh Hoàng hỗ trợ quân khôi phục lại Doanh châu. Tuy Diêu Sùng nhiều lần can gián rằng chưa tới lúc để động binh, nhưng Minh Hoàng vẫn quyết định ra quân. Mấy tháng sau, Minh Hoàng sai Tiết Nột dẫn quân tiến công Khiết Đan. Bất chấp lời cảnh báo của Đỗ Tân Khách rằng cái nóng mùa hè khiến binh lính khó mặc áo giáp và gánh nặng lương thực, Tiết Nột vẫn ra quân trong mùa hè. Tiết Nột tiến quân thì bị quân Khiết Đan của Khả hãn Lý Thất Hoạt phục kích đánh tan, chết đến 8,9 phần. Tiết Nột đã có thể chạy trốn cùng với một số binh lính kỵ binh, và những người lính Khiết Đan đã chê cười Tiết Nột bằng cách gọi Tiết Nột là "Tiết Nãi" (“Bà nội họ Tiết”)..

Năm 716, Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết của Hãn quốc Hậu Đột Quyết đang trên đường trở về sau khi trấn áp các bộ lạc Thiết Lạc đang nổi dậy gồm Huihe, Tongluo, Baixi, Bạt Duệ Cố và Bộc Cố, đã bị phục kích bởi một người bộ lạc Bạt Duệ Cố tên là Hiệt Chí Lược (颉质略) vào ngày 22 tháng 7 năm 716 khi A Sử Na Mặc Xuyết đi qua một khu rừng. Cái đầu bị chặt của Thiên Thiện Khả hãn A Sử Na Mặc Xuyết được Hiệt Chí Lược phái người gửi đến Trường An và bộ lạc Bạt Duệ Cố đầu hàng nhà Đường. Con của A Sử Na Mặc Xuyết là A Sử Na Bặc Câu lên kế vị, xưng là Thác Tây Khả hãn. Từ đó, Hãn quốc Hậu Đột Quyết suy yếu dần và không còn đe dọa lớn tới nhà Đường nữa, đã đánh bại liên quân Đường và chư hầu Bạt Tất Mật. Triều đình nhà Đường kêu gọi Khiết Đan và Khố Mạc Hề (Kumo Xi) đem quân hỗ trợ, nhưng hai nước không cử quân, khiến quân Đường bị thua trận. Sang năm 721, hai nước mới giảng hòa. Đến giữa năm 726, Minh Hoàng cho bố trí quân ở năm châu Định, Hằng, Mạc, Dịch, Thương để phòng bị Hãn quốc Hậu Đột Quyết xâm lấn.

thumb|Bản đồ [[nhà Umayyad khi giao tranh với nhà Đường của Đường Minh Hoàng.]] Trong khoảng thời gian này, nhà Đường đang tranh giành ảnh hưởng ở Tây Vực với Thổ Phiên và nhà Umayyad. Vào năm 715, vua Bạt Hãn Na bị liên quân Thổ Phiên - Umayyad lật đổ và thay thế bằng một vị vua được họ ủng hộ, Minh Hoàng sai tướng Trương Hiếu Tung dẫn quân can thiệp, đuổi vị tân vương và khôi phục lại cựu vương. Cuộc chiến này có sự tham gia của Sulu (Tô Lộc Khả Hãn) của Đột Kị Thi (Turgesh). Quân Đột Kị Thi, Thổ Phiên và Umayyad tấn công Uch Turfan và Aksu - hai thành phố nằm dưới sự bảo hộ của nhà Đường - vào ngày 15 tháng 8 năm 717, nhưng bị thảm bại nặng nề và quân Ả Rập phải tháo chạy về Tashkent.

Năm 717, đại thần Tống Khánh lại dâng biểu xin thu phục lại Doanh châu. Đầu mùa hạ cùng năm cùng năm, Minh Hoàng cho xây thành trong địa phận gần Doanh châu để chuẩn bị việc tấn công, từ đó nhà Đường thu phục lại 13 quận Doanh châu. Thành xây xong trong ba tuần, nhiều người dân lưu tán trong vùng cũng nhân cơ hội được tụ họp trở về làm ăn. Mấy năm sau, vùng đất đó lại sung túc. Thấy nhà Đường giàu mạnh, Khả hãn Lý Thất Hoạt của Khiết Đan tạm thời xin quy phục nhà Đường, giao trả lại Liễu Thành (柳城, ở Triều Dương, Liêu Ninh ngày nay) và 13 quận Doanh Châu cho nhà Đường. Cuối năm 717, Khả hãn Khiết Đan là Lý Thất Hoạt đến triều kiến Minh Hoàng. Sang cuối năm 719, vua mới của Khiết Đan là Lý Sa Cố (李娑固) cùng công chúa được hoàng đế gả sang trước đó cũng đến triều kiến. Sang năm 721, hoàng đế lại phong cho Diêu huyện chúa Mộ Dung thị làm Yến Quận công chúa, gả cho Khả hãn Khiết Đan mới là Lý Úc Vu.

Ở Lĩnh Nam thuộc An Nam đô hộ phủ, vào năm 713, có Mai Thúc Loan (sử nhà Đường gọi là Mai Huyền Thành) dựng cờ khởi nghĩa ở Rú Đụn, tự xưng là Mai Hắc Đế. Năm 714, Mai Hắc Đế mang quân 32 châu chiếm được thủ phủ của An Nam đô hộ phủ là thành Tống Bình, phát triển lực lượng lên tới 40 vạn người, lại kết minh với Lâm Ấp (nay là miền Trung Việt Nam), Chân Lạp (nay là Campuchia) và Kim Lân (nay là Malaysia) làm ngoại viện, chiếm cứ Hải Nam. Quan đô hộ Quang Sở Khách hốt hoảng chạy về Trung Quốc. Tám năm sau (năm 722), nhà Đường ổn định được An Bắc đô hộ phủ, An Tây đô hộ phủ và An Đông đô hộ phủ thì huy động 10 vạn quân do Dương Tư Húc, Quang Sở Khách chỉ huy theo lộ trình xưa của Mã Viện mà tiến vào đất Việt để chiếm lại An Nam đô hộ phủ. Mai Hắc Đế bại trận, rút vào rừng, sinh bệnh rồi qua đời cùng năm 722. Năm 723, Mai Thúc Huy kế vị làm Mai Thiếu Đế tiếp tục chống lại quân Đường. Mai Thiếu Đế bị quân Đường giết thì Mai Kỳ Sơn kế vị làm Bạch Đầu Đế tiếp tục chống lại quân Đường. Cuối năm 723, Bạch Đầu Đế tử chiến khi đang chiến đấu với quân Đường, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt hoàn toàn.

Năm 725, quốc vương nước Vu Điền nổi dậy chống lại nhà Đường nhưng sau đó bị quân từ phủ đô hộ An Tây đánh bại, bản thân ông ta bị phế truất và thay thế bằng một vị vua khác

Đến khi củng cố xong lực lượng, Thổ Phiên lại bắt đầu xuất quân gây hấn, nhưng vẫn bị quân Đường áp đảo. Năm 727, theo thỉnh cầu của Vương Quân Xước (王君㚟), hoàng đế ủy nhiệm cho ông ta thống lĩnh đại quân giao tranh với Thổ Phiên. Trước đó vào cuối năm 726, Vương tiến hành phản kích cuộc tấn công của tướng Thổ Phiên là Xinuoluogonglu (Tất Nặc La Cung Lộc). Tuy nhiên vào cuối năm đó, Xinuoluogonglu và một tướng khác là Zhulongmangbuzhi (Chúc Long Mãng Bố Chi) tấn công lần nữa và chiếm được cố hương của Vương là Qua châu, bắt giam cha của ông này là Vương Thọ. Vì cớ này mà Vương không dám phản công, và sau đó đổ lỗi thất bại cho các tù trưởng dân tộc thiểu số dưới trướng rồi bắt họ đi lưu đày. Yaoluoge Hushu (Dược Cát La Hộ Thâu), cháu của một trong những tù trưởng kể trên - Yaoluoge Chengzong (Dược Cát La Thừa Tông) đã tiến hành phục kích và giết chết Vương; sau đó chạy trốn. Minh Hoàng lại cho bố trí từ các châu quận khác khoảng 56.000 quân đến Lũng Đạo, 40.000 quân ở Hà Tây, 10.000 quân đến âm Thao, 20.000 đến Hội châu để phòng thủ với người Thổ. Đến đầu mùa đông năm 727, thấy Thổ Phiên không đánh nữa, số quân này được lệnh về quê cũ.

Năm 728, tướng Tất Mạc Lang của Thổ Phiên xâm nhập Quá châu. Đô đốc Trương Thủ Khuê được lệnh xuất quân bình dẹp. Sau đó các tướng Tiêu Tung và Trương Trung Lượng tiếp tục đại phá Thổ Phiên ở Khát Ba Cốc rồi tiến sang đất Thổ Phiên, bắt nhiều người dân đem về. Về sau, quân Thổ Phiên lại bại trận ở Liên Thành. Khi Thổ Phiên lại sang cướp bóc, Tiêu Tung sai Tương Cương đem quân đánh dẹp, bắt 7 đại tướng của Thổ Phiên. Tháng 3 ÂL năm 729, quân Thổ Phiên tiếp tục bị đánh bại bởi các tướng Trương Thủ Khuê và Giả Sư Thuận ở đất Tây Ninh. Tháng sau, Thổ Phiên công đánh thành Thạch Bảo, nhưng cũng thua trận. Còn đối với các bộ tộc Nam Man, trong mùa xuân năm đó, tướng Đường là Trương Thủ Tố cũng chiếm được Côn Minh và Diêm Thành, giết và bắt hơn 10.000 người. Sang tháng 5 ÂL năm 730, Thổ Phiên gửi sứ giả sang cầu hòa. chiếm đóng Đăng Châu và tiếp tục đi đánh chiếm các thành trì nhà Đường khác ở Sơn Đông, bắt rất nhiều thủy thủ và thường dân nhà Đường giải về Bột Hải.. Đăng Châu là trung tâm của các tuyến thương mại hàng hải ở Đông Á, và là địa điểm mà cả sứ thần Tân La và vương quốc Bột Hải đã ở lại khi đến triều cống cho Hoàng đế nhà Đường. Kết quả là, cuộc tấn công của hải quân Bột Hải vào Đăng Châu không chỉ đơn thuần được thúc đẩy bởi sự trả đũa địa chính trị chống lại nhà Đường mà còn xuất phát từ mong muốn khẳng định sức mạnh hàng hải mới hình thành của mình cũng như ngăn cản Hắc Thủy Mạt Hạt thiết lập quan hệ thương mại với nhà Đường, vốn đã bị suy yếu. Bột Hải thống trị các tuyến đường thương mại phía bắc. Cuộc tấn công thành công của hải quân Bột Hải vào Đăng Châu cũng thể hiện sức mạnh hàng hải đáng kinh ngạc của một quốc gia ba mươi bốn năm tuổi, nơi có các tàu hải quân quân sự có thể vượt biển cũng như các tàu buôn có thể thực hiện các hoạt động thương mại. Lúc đầu Minh Hoàng cho rằng quân Bột Hải của Trương Văn Hưu chỉ là đám hải tặc hoành hành ở bờ biển Sơn Đông, đến khi thái thú Vĩ Tuấn bị giết hại, Minh Hoàng mới nhận thấy đây là hành động gây chiến tranh với nhà Đường của vương quốc Bột Hải. Một thời gian ngắn sau, Trương Văn Hưu cho rút quân chiến thuật ra khỏỉ thành Đăng Châu nhưng quân Bột Hải của Trương Văn Hưu vẫn còn chiếm đóng nhiều thành trì thuộc Sơn Đông nhà Đường. Để đối phó với các cuộc tấn công, nhà Đường đã ra lệnh cho Kim Chungsin, cháu trai của vua Tân La Thánh Đức vương và là cận thần trong triều đình nhà Đường, quay trở lại Tân La và tổ chức một cuộc tấn công vào vương quốc Bột Hải. Kim Chungsin bào chữa cho yêu cầu này bằng cách yêu cầu ở lại nhà Đường với tư cách là cận vệ của Minh Hoàng. Thay thế vị trí của Kim Chungsin, nhà Đường cử Kim Saran, một nhà ngoại giao cấp thấp của Tân La, và một hoạn quan của nhà Đường. Đại Môn Nghệ cũng được Minh Hoàng triệu hồi từ Trung Á về để tuyển binh ở U Châu nhà Đường. Bột Hải Vũ Vương thân chinh dẫn bộ binh Bột Hải tiến đến Mã Đô Sơn (馬都山) tại Du Quan của nhà Đường và tiến hành đánh chiếm nhiều quận huyện của nhà Đường gần đó. Bột Hải Vũ Vương cho quân đi cướp phá thị trấn Matoushan (phía tây bắc Sơn Hải quan ngày nay), và giết chết 10.000 binh lính nhà Đường. Quân Bột Hải còn đột kích và cướp bóc biên giới nhà Đường dọc theo Liêu Hà và bờ biển của Tiểu Cao Câu Ly ở bán đảo Liêu Đông cũng bị quân Bột Hải đột kích. Tháng 9 năm 732, quân Bột Hải do Trương Văn Hưu chỉ huy tấn công thành Đăng Châu ở Sơn Đông nhà Đường lần 2. Minh Hoàng cử quân đến phòng thủ và chi viện cho Đăng Châu. Cùng năm 732, tướng Đường là Cát Phúc Thuận đánh bại quân Bột Hải một trận lớn ở Sơn Đông khiến hải quân Bột Hải của Trương Văn Hưu phải rút khỏi Sơn Đông theo đường biển về nước.

Năm sau (733), Minh Hoàng phong cho Tân La Thánh Đức vương làm Ninh Hải quân sứ (Ninghai junshi 寧海軍使) với lệnh trừng phạt vương quốc Bột Hải. Sau đó, Minh Hoàng lệnh cho Đại Môn Nghệ (大門藝, Dae Mun-ye) dẫn quân Đường tấn công vương quốc Bột Hải cùng với các lực lượng của nước Tân La (đời vua Tân La Thánh Đức vương), song đã không thành công. Liên quân Đường - Tân La gặp tuyết lớn chặn mọi con đường. Bão tuyết đã giết chết một nửa trong số 100.000 quân Đường - Tân La nên buộc bọn họ phải lui quân. Bột Hải Vũ Vương chớp thời cơ xua quân đánh tan liên quân Đường - Tân La. Đại Môn Nghệ theo quân Đường rút về nhà Đường. Bột Hải Vũ Vương tiếp tục cố giết em trai Đại Môn Nghệ của mình. Ông ta cử một thích khách đến Lạc Dương nhà Đường để ám sát Đại Môn Nghệ. Đại Môn Nghệ bị tấn công vào ban ngày gần cầu Tianjin bên ngoài hoàng cung Lạc Dương nhưng không hề hấn gì.

Bột Hải Vũ Vương sau đó phái sứ giả mang thư đến nhà Đường có nội dung chỉ trích Minh Hoàng như sau:

Năm 733, Quách Anh Kiệt bị quân Khiết Đan giết ở Đô Sơn. Sau đó, Tiết độ sứ Tiết Sở Ngọc dẫn 10.000 quân hợp sức với Hề quốc cùng công đánh Khiết Đan, nhưng quân Hề sợ hãi bỏ trốn. Quân Đường gặp cảnh bất lợi, cuối cùng Anh Kiệt bị giết, hơn 6000 quân còn lại không đầu hàng đều bị Khả Đột Vu giết hại. Khoảng năm 735, Khả Đột Vu bị giết trong cuộc chiến tranh giành quyền lực. Khiết Đan lại xin quy phục nhà Đường, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, lại nổ ra chiến sự song thất bại và phải cầu hòa với nhà Đường.

Nội loạn

Năm 721, người châu Lan Trì ở biên cương là Hồ Khang Đãi chiêu tập dân chúng các bộ tộc ít người nổi lên kháng Đường. Tháng 4 ÂL cùng năm công đánh Lục Hồ châu rồi tập hợp 70.000 người đánh tới Hạ châu. Minh Hoàng sang Quách Tri Vận tiến đánh, đến tháng 7 ÂL thì bình định xong. Nhà Đường triệu tập tù trưởng các nơi đến xem tử hình Khang Đãi, để tỏ rõ uy thế. Sang năm 722, dư đảng của Hồ Khang Đãi là Khang Nguyện Tử lại nổi loạn, tự xưng Khã hãn. Minh Hoàng sai Trương Thuyết đi đánh, bình dẹp xong.

Cũng năm đó, Tả Lĩnh quân Quyền Sở Bích cùng Lý Tề Tổn lại nổi loạn chống triều đình, tôn Quyền Lương Sơn làm Quang đế, trá xưng là con trai của Thương Đế Lý Trọng Mậu. Quân nổi loạn hơn 100 người tiến vào cung thành, nhưng bị quân hộ vệ đánh tan, Sở Bích bị chém đầu.

Từ thời Võ Tắc Thiên và Đường Trung Tông, hoàng đế sùng đạo Phật, người trong nước rủ nhau xuất gia đi tu làm mất nhiều nhân lực cho sản xuất. Trong chùa nhiều nhà sư không biết giữ giới làm mất thanh uy nhà Phật. Tháng 2 năm 714, Minh Hoàng theo lời Diêu Sùng, cho trục xuất hơn 12000 nhà sư khỏi chùa. Ông cũng hạ lệnh cấm quan lại quan hệ mật thiết tăng ni để tránh chuyện nhà sư dính dáng vào triều chính, đồng thời cũng ra lệnh cấm nhân gian chú thích các kinh Phật.

Tể tướng Tống Cảnh dưới thời đảm nhiệm chức vụ cũng không thân thiện với những quan lại mê tín dị đoan, thích việc quỷ thần. Để giảm tình trạng này, ông ta cũng nhiều lần dâng sớ xin bãi miễn nhiều quan lại như vậy lên Minh Hoàng, điển hình là năm 718, Minh Hoàng theo lời Tống Cảnh, bãi chức của hai đại thần Lý Ung và Trịnh Miễn. Còn về dân chúng ở biên cương nhiều lần nổi loạn, nhà vua cho dời dân ở sáu châu Hà Khúc (hầu hết là người Hồ) đến các châu Hứa, Nhữ, Đường, Đặng, Tiên, Dự để dễ bề quản lý.

Ngoài ra ông cũng chú trọng tới việc sưu tầm sách vở. Lúc đầu, ông lập Thư viện Lệ Chánh, chiêu tập nhiều trí thức học giả trong nước đến đàm đạo. Năm 723, có xá nhân Lục Kiên xin miễn việc này vì không có ích gì, nhưng Minh Hoàng nghe theo Trương Thuyết rằng từ xưa khi quốc gia vô sự thì đế vương có thể chú tâm đến sách vở văn học, phát huy điển tịch. Cuối năm 723, Minh Hoàng tổ chức tế nam giao.

Về khoa học, Minh Hoàng cũng chú trọng đến ngành thiên văn. Đặc biệt là vào thời chấp chính của tể tướng Trương Thuyết - một đại thần có sự quan tâm đặc biệt đối với thiên văn học. Năm 724, ông bố trí cho Nam Cung Thuyết, một nhà thiên văn nổi tiếng, thực hiện một cuộc quan sát thiên tượng ở nhiều địa điểm khác nhau trong nước. Nông nghiệp nhân đó cũng phát triển mạnh với những bánh xe nước được phát minh, các công trình đập nước được tu bổ, diện tích khai hoang mở rộng... Thủ công nghiệp cũng có những bước nhảy vọt đáng kể, với những làng nghề dệt tơ ở Định Châu, Ích Châu, Dương Châu, nghề gồm ở Việt Châu, nghề làm giấy ở Tuyền Châu, Ích Châu....

Năm 722, ông cùng đại thần Khương Kiểu bàn kế hoạch phế hậu, tuy nhiên Khương Kiểu lại tiết lộ việc này tới tai Vương hậu. Trương Gia Trinh, người nắm tướng vị khi đó, là người thân thiết với Vương Thủ Nhất - em trai Vương hoàng hậu; cùng với Đằng vương Lý Kiểu (em rể của hậu) đều dâng thư hỏi lý do lên hoàng đế, ông sinh bực bội với Khương Kiểu, bèn cho đánh Kiểu 60 trượng, đày ra Khâm Châu, Khương Kiểu chết trên đường bị lưu đầy không phải con đẻ của Huệ phi, sợ về sau Huệ phi mà chính vị trung cung sẽ đe dọa đến ngôi thái tử của Lý Hồng, hơn nữa Võ Huệ phi cũng là cháu của Võ Tắc Thiên. Minh Hoàng không cưỡng lại được, đành chấp nhận, nhưng ông cũng dành cho Võ Huệ phi nghi trượng và đồ dùng giống hệt hoàng hậu để an ủi.

Cuối Khai Nguyên và Thiên Bảo: mầm mống loạn lạc

nhỏ|phải|Đường Minh Hoàng đến đất Thục, tranh vẽ vào thế kỉ VIII, được tái họa vào thế kỉ XI Từ cuối đời Khai Nguyên, Minh Hoàng lao vào ăn chơi xa xỉ, lại sủng ái Quý phi Dương Thái Chân mà bỏ bê chánh sự, mầm mống của sự diệt vong dần xuất hiện. Để có chi phí cho chiến tranh, nhà Đường lại tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp, lại thêm nạn tham quan, nên đời sống nhân dân khổ cực hơn. Chính trị xuống dốc, gian thần Lý Lâm Phủ được trọng dụng, ngăn chặn đường tiến thân của kẻ sĩ, ý đồ độc chiếm triều đình. Bên ngoài, chính sách trong nặng ngoài nhẹ của Lý Lâm Phủ góp phần giúp cho thế lực ngoại tộc phát triển, An Lộc Sơn (người Đột Quyết) có thế lực ở Đông Bắc, phát triển thế lực, đến năm 755 phản Đường, gây ra Loạn An Sử. Nhà Đường do đó mà suýt nữa bị diệt vong.

Đuổi trung thần, dùng gian thần

Thị lang bộ binh Lý Lâm Phủ là người giảo hoạt, xu nịnh. Hắn ta mua chuộc các hoạn quan và tì nữ thân cận của Minh Hoàng để biết được các hoạt động và sở thích của Minh Hoàng, lại kết giao với Võ Huệ phi, hứa giúp con bà ta là Thọ vương Lý Mạo làm Hoàng thái tử. Do đó Huệ phi tín nhiệm Lâm Phủ, nhiều lần tiến cử hắn lên Minh Hoàng. Tháng 4 năm 734, hắn được phong làm Lễ bộ thượng thư. Sang tháng 6, nhà vua phong Bùi Quang Đình làm Thị trung, Trương Cửu Linh làm Trung thư lệnh, Lâm Phủ làm Đồng trung thư môn hạ tam phẩm. Ba người trở thành ba tể tướng trong triều. Từ năm 736, nhà vua ngày càng tỏ ra không còn tha thiết với việc chánh sự, và bắt đầu trở nên lãng phí và thích tiêu khiển. Trương Cửu Linh nhiều lần khuyên gián, khiến ông không vừa ý và từ đó Cửu Linh dần bị thất sủng. Hơn nữa, Cửu Linh ủng hộ thái tử Lý Anh, trong khi Lý Lâm Phủ đứng về phe Thọ vương Lý Mạo (con trai của Võ Huệ phi). Năm 736, Lý Lâm Phủ bày mưu khiến Minh Hoàng tin rằng Trương Cửu Linh và Bùi Diên Linh kết bè kết đảng trong triều, khiến hai ông này bị bãi chức. Lâm Phủ đưa Ngưu Tiên Khách là người cùng phe cánh vào triều, để củng cố quyền lực. Mùa hạ năm năm 737, Giám sát ngự sử Chu Tử Lượng phát hiện Ngưu Tiên Khách là kẻ bất tài, đưa bằng chứng lên Minh Hoàng. Nhưng hoàng đế đã bị Lý Lâm Phủ làm mờ mắt, chẳng những không nghe mà còn biếm chức Tử Lương, đánh trượng và đày sang Nhương châu. Lý Lâm Phủ nhân đó tố cáo rằng Chu Tử Lượng là do Trương Cửu Linh tiến cử, do đó Cửu Linh bị bãi chức Tể tướng, đày sang Kinh châu. Trong khoảng 15 năm tiếp theo, Lý Lâm Phủ độc chưởng quyền hành, và dùng nhiều thủ đoạn để có thể giữ được quyền lực, bao gồm cả việc nói xấu những người tài năng có khả năng đe dọa vị trí của mình, và tìm cách ngăn chặn những công văn nói xấu mình tới tai hoàng đế. Không khí tự do trong triều đình những năm đầu Khai Nguyên đến đây đã không còn nữa. Điều này thường được các nhà sử học truyền thống xem là bước ngoặt trong thời đại của Minh Hoàng, chấm dứt một thời kỳ hoàng kim trong lịch sử, mở ra một thời kỳ suy thoái. Nhận xét của Tư Mã Quang trong Tư trị thông giám

Tháng 1 năm 738, Võ Huệ phi mất, Minh Hoàng vô cùng xót thương, bèn truy phong bà ta làm Trinh Thuận hoàng hậu. Sử sách ghi nhận rằng Đường Minh Hoàng đã buộc hơn 4 vạn người phụ nữ vào cung để phục vụ cho ông, nhiều hơn bất kỳ nhà Đường hoàng đế nào khác. Nhiều người trong số họ đến năm 60 tuổi vẫn không được cho phép xuất khỏi cung.

Lý Lâm Phủ lộng quyền

Tháng 2 năm 739, Lý Lâm Phủ được phong làm Thượng thư bộ Lại, Trung thư lệnh. Từ đó hắn trở thành người nắm quyền lực cao nhất trong triều. Có chức Tể tướng, Lý Lâm Phủ tìm mọi cách để củng cố chức vị của mình, dùng thủ đoạn ngăn chặn đường tiến thân của hiền sĩ. Năm 740, Minh Hoàng bất ngờ bãi Ngưu Tiên Khách khỏi triều đình, đày đến Sóc Phương mà không rõ lý do tại sao, nhưng sau lại sử dụng trở lại. Sang đầu năm 742, ông cho đổi niên hiệu Khai Nguyên thứ 30 thành Thiên Bảo nguyên niên.

Ngày 5 tháng 1 năm 742, trưởng huynh của Minh Hoàng là Ninh vương Lý Thành Khí (đổi tên thành Lý Hiến từ năm 716) qua đời. Minh Hoàng vì ngày xưa Ninh vương nhường lại đế vị cho mình, nên đối với Vương luôn dành nhiều sự tôn trọng; đến đây thì truy tôn là Nhượng hoàng đế, táng ở Huệ lăng theo nghi lễ dành cho thiên tử, vợ là Nguyên thị là Cung hoàng hậu. Mùa thu năm đó, Ngưu Tiên Khách chết, nhà vua dùng một thành viên trong tông thất Lý gia là Lý Thích Chi được đảm nhiệm ngôi Tả thừa tướng.

Năm 743, Minh Hoàng muốn phong cho Dương Thận Căng làm Ngự sử trung thừa, nhưng Dương Thận Căng sợ Lý Lâm Phủ sẽ hãm hại nên không dám nhận. Từ đó, các đại thần hầu hết sợ uy Lý Lâm Phủ, việc gì cũng nghe theo hắn, không còn ai dám can ngăn thẳng thắn nữa. Nền chính trị tốt đẹp thời Khai Nguyên đã trở thành quá khứ. Đầu năm 745, do thấy Minh Hoàng trọng dụng Thượng thư bộ Hộ Bùi Khoan Tố, Lý Lâm Phủ lo sợ chức Tể tướng bị lung lay, bèn gièm pha Khoan Tố. Do đó Khoan Tố bị đày đến Tuy Dương.

Tuy nhiên Lý Lâm Phủ cũng gặp phải sự chống đối từ Lý Thích Chi, một tể tướng khác. Đến giữa năm 746, anh của thái tử phi Vi thị là Vi Kiên bị Lý Lâm Phủ mưu hại. Tương tác thiếu tượng Vi Lâm cùng Binh bộ ngoại lang Vi Chi mượn lời của thái tử Lý Hanh xin tha cho Vi Kiên. Minh Hoàng rất tức giận còn Lý Hanh rất lo sợ, bèn xin ly hôn với Thái tử phi Vi thị. Sau đó nhiều thành viên trong gia tộc họ Vi bị lưu đày xuống phương nam. Nhân đó Lý Lâm Phủ tố cáo cả Lý Thích Chi có liên hệ với họ Vi. Do đó Lý Thích Chi bị bãi chức, giáng làm Thái thú Nghi Xuân. Khi đó Đường Minh Hoàng đã 60 tuổi, còn Dương Thái Chân chỉ mới có 27.

Mùa thu năm 746, Minh Hoàng phong Dương Thái Chân làm Quý phi, truy tặng cha Quý phi Dương Huyền Diễm làm Binh Bộ thượng thư, thúc phụ Huyền Khuê làm Quang Lộc Khanh, anh họ Quý phi là Dương Tiêm được phong làm Điện trung thiếu giám. Từ đó, Dương quý phi trở thành người được Minh Hoàng yêu quý nhất và nắm quyền trong hậu cung. Người hầu hạ trong viện của Quý phi có đến hơn 100. Các đại thần bên ngoài muốn được hoàng đế trọng dụng đều chủ động dâng lễ vật quý cho Quý phi. Nhiều người được thăng tiến bằng con đường này. Trong hậu cung, từ khi Dương Quý phi xuất hiện thì các phi tần khác đều rất khó được ân hạnh nữa. Hoàng đế gặp Dương Quý phi lúc tuổi đã ngoài 50, cơ thể suy nhược vì trải qua những thú vui sắc dục thái quá. Hoàng đế nhờ An Lộc Sơn dâng một thứ linh đan gọi là "Trợ tình hoa" giúp có nhiều sức khỏe để được hòa hợp vui say cùng Dương Quý phi. Để làm vui lòng quý phi, Minh Hoàng không tiếc tốn kém bao nhiêu tiền của. Bấy giờ núi Ly Sơn có cung Ôn Tuyền nằm gần một suối nước nóng. Năm 747, nhà vua cho sửa chữa cung Ôn Tuyền và đổi tên là Hoa Thanh cung. Mỗi năm, cứ đến mùa đông, ông lại cùng Quý phi đến đấy nghỉ và ngắm nàng tắm ở con suối này.

Mùa đông năm 748, ba người anh của Dương Quý phi là Dương Quốc Trung, Dương Tiêm, Dương Kĩ ngày càng trở nên giàu có; mà ba người chị của Quý phi làm Thôi thị, Bùi thị, Liễu thị cũng được phong làm Hàn quốc, Quắc quốc và Tần quốc phu nhân. Ba người này đều có nhan sắc, cũng được Minh Hoàng yêu mến, trở thành những người giàu có bậc nhất trong thành Trường An. Thấy chỉ nhờ một Dương quý phi mà khiến cả gia tộc được hậu ái đến cùng cực, người Trung Hoa thời kì đó lại thích sinh con gái hơn là con trai.

Dương Quý phi tuy có nhan sắc nhưng tính nết ương ngạnh, nhiều lần đắc tội và xung đột với Minh Hoàng. Tháng 3, năm 750, sau một lần xung đột, Quý phi bị đuổi khỏi cung. Nhưng có hoạn quan Cao Lực Sĩ cầu xin cho Quý phi, do đó nhà vua lại hối hận, sai Lực Sĩ đến thăm, Quý phi cắt tóc gửi về dâng vua. Vua trông thấy mà xúc động quá, lại vời Quý phi về và sủng ái hơn trước.

Quân sự và ngoại giao

nhỏ|trái|Lãnh thổ Đại Đường năm 742 Trong khi đó ở bán đảo Triều Tiên, nhà Đường dần để mất ưu thế vào tay Vương quốc Tân La. Trong nỗ lực kiềm chế tham vọng của vương quốc Bột Hải, nhà Đường đã chấp nhận yêu cầu của Tân La (đời Tân La Thánh Đức vương) là bố trí quân đội Tân La ở Hwanghae và sông Đại Đồng vào năm 735. Điều đó chứng tỏ rằng nhà Đường đã chính thức trao cho Tân La vùng lãnh thổ phía nam sông Đại Đồng, vùng đất được nhà Đường quản lý ít nhất là từ thế kỷ 7 trong các chiến dịch của họ với Tân La nhằm đánh bại Cao Câu Ly. Một biểu hiện cải thiện quan hệ giữa Tân La với nhà Đường.

Bối cảnh bất lợi về chiến lược bắt đầu chuyển sang vương quốc Bột Hải vào năm 734 – 735, khi thủ lĩnh người Khiết Đan là Khả hãn Khuất Liệt, Khả hãn Lý Qua Chiết và Khả Đột Vu và đồng minh Hãn quốc Hậu Đột Quyết (các đời Bì Gia Khả hãn A Sử Na Mặc Cức Liên, Y Nhiên Khả hãn A Sử Na Y Nhiên) của Khả Đột Vu bị quân đội nhà Đường đánh bại. Ngoài ra, một lực lượng gồm 5.000 kỵ binh Khố Mạc Hề (Kumo Xi) đã đầu hàng nhà Đường. Sự thất bại của người Khiết Đan và người Đột Quyết trước nhà Đường, và sự phục tùng của Khố Mạc Hề với nhà Đường đã loại bỏ vùng đệm đã hình thành giữa vương quốc Bột Hải và nhà Đường. Cảm nhận được sự thay đổi trong diễn biến chiến lược, Bột Hải Vũ Vương quyết định cầu hòa với nhà Đường. Hai nước Bột Hải và nhà Đường đã ký hòa ước, với điều kiện Bột Hải phải cống nạp cho nhà Đường.

Tháng 2 năm 737 một sứ thần nhà Đường đến Tân La để sắc phong cho người kế vị của vua Tân La Thánh Đức vương là vua Tân La Hiếu Thành vương) làm quốc vương Tân La, và được xác nhận rằng vua Tân La Thánh Đức vương thực tế đã mất vào năm 736.

Cùng năm 737, các thủy thủ và thường dân nhà Đường bị giam giữ ở Bột Hải từ năm 732 được Bột Hải Vũ Vương cho hồi hương về lại nhà Đường (đời vua Đường Huyền Tông). Trong năm 737 Bột Hải Vũ Vương (Đại Vũ Nghệ) qua đời. Con trai thứ ba của ông ta là Đại Khâm Mậu (Dae Heummu) lên kế vị, tức là vua Bột Hải Văn Vương. Vua Bột Hải Văn Vương của vương quốc Bột Hải cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Đường.

Cuối năm 737, ở nước Đột Kị Thi (vốn bị chia rẽ thành hai phái Hoàng và Hắc) tù trưởng Mạc Hạ Đạt Can giết Khã hãn Tô Lộc. Tướng Đô Ma Độ, đồng minh cũ của Mạc Hạ Đạt Can là Đô Ma Độ chống lại ông ta, lập Cốt Xuyết là Thổ Hỏa Tiên Khả hãn, phân tranh với Mạc Hạ Đạt Can. Mạc Hạ Đạt Can sai người đến cầu viện Thích Tây Tiết độ sử Cái Gia Vận. Minh Hoàng được tin, sai Gia Vận dẫn quân công đánh Đột Kị Thi. Thổ Hỏa Tiên và Đô Ma Đô chiếm cứ thành Toái Diệp, cùng Hắc Tính Khã hãn Nhĩ Vi Đặc Lặc cát cứ ở thành La Tư bèn liên kết với nhau kháng Đường.

Năm 738, một đoàn sứ giả từ vương quốc Bột Hải (đời vua Bột Hải Văn Vương) đã yêu cầu nhà Đường thực hiện các quy tắc nghi lễ và lịch sử triều đại trong một cử chỉ mang tính biểu tượng hướng tới hòa bình giữa Bột Hải và nhà Đường. Đồng thời, rắc rối với Thổ Phiên ở phía tây đã buộc nhà Đường phải rút toàn bộ lực lượng quân sự khỏi mảnh đất Cao Câu Ly cũ và áp dụng thế phòng thủ trước Bột Hải (trước đó nhà Đường luôn áp dụng thế tấn công trước Bột Hải). Vua Bột Hải Văn Vương cử nhiều du sinh sang nhà Đường để học tập (giống như nước Tân La đang làm) và nhiều người thậm chí đã vượt qua kỳ thi khoa cử của Trung Quốc. mở rộng ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo tại Bột Hải. Bột Hải đã tích cực tiếp nhận văn hóa và hệ thống chính trị của nhà Đường tại Trung Quốc. Các nghiên cứu khảo cổ về cách bố trí của các thành phố Bột Hải đã đưa ra kết luận rằng chúng có chức năng tương tự như các thành phố Cao Câu Ly, đồng thời cũng cho thấy Bột Hải có duy trì sự tương dồng văn hóa với nhà Đường sau khi được thành lập.

Giứa năm 738, tướng Đỗ Hi Vọng đem quân tiến công Thổ Phiên, đoạt được đất Hà Kiều. Thổ Phiên cử 30.000 quân chống trả. Đỗ Hi Vọng vì binh ít lương thiếu, không thể chống lại Thổ Phiên. Nhưng khi đó có tả Uy vệ lang tướng Vương Trung Tự tự đem quân ra ứng chiến trước, giết hơn 100 quân, Hi Vọng nhân đó thừa cơ tập kích, Thổ Phiên bị đại bại. Không bao lâu sau, Minh Hoàng phong cho vua Nam Chiếu Mông Bì La Các làm Vân Nam vương. Mông Bì La Các tuy nhận tước phong của nhà Đường, kỳ thực chính là một vương quốc độc lập. Nước Nam Chiếu sau đó thu phục nhiều bộ lạc Nam Man, dần trở nên lớn mạnh và trở thành mối đe dọa mới ở biên cương nhà Đường., đồng thời gọi An Đông phó Đại đô hộ Cổ Tuần (贾循) từ Bình Châu sang Liêu Tây Cổ Thành (đến khi An Lộc Sơn nổi dậy năm 756 thì An Đông đô hộ phủ chánh thức bị bãi bỏ).

Sang mùa hạ năm 744, Hà Tây Tiết độ sứ Mông Linh giết chết Mạc Hạ Đạt Can. Minh Hoàng bèn phong cho Cốt Đốt L

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Nguyên Hiến Dương hoàng hậu** (chữ Hán: 元獻楊皇后; 699 - 729), cũng thường gọi **Dương Quý tần** (楊貴嬪), là một phi tần của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ và là sinh mẫu của Đường
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Đường Ý Tông** (chữ Hán: 唐懿宗; 28 tháng 12 năm 833 - 15 tháng 8 năm 873), húy **Lý Thôi** (李漼), là vị hoàng đế thứ 18 hay 20 của triều đại nhà Đường trong
**Chương Kính Ngô hoàng hậu** (chữ Hán: 章敬吳皇后; ? - 730), thông xưng **Ngô phu nhân** (吳夫人), là cơ thiếp của Đường Túc Tông Lý Hanh khi ông còn là Thái tử. Bà được biết
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Tương Dương** là một huyện miền núi cũ nằm ở phía tây tỉnh Nghệ An và cũng là huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất Việt Nam. Đây là một huyện được UNESCO đưa
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
**Đường Hy Tông** (, 8 tháng 6 năm 862 – 20 tháng 4 năm 888), húy **Lý Huyên** (李儇), là Hoàng đế thứ 19 hay 21 của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung
**Duệ Chân Thẩm Hoàng hậu** (chữ Hán: 睿真沈皇后; _không rõ năm sinh năm mất_), là thiếp của Đường Đại Tông khi còn là Quảng Bình vương, đồng thời là sinh mẫu của Đường Đức Tông
**Đường Văn Tông Dương Hiền phi** (chữ Hán: 唐文宗楊賢妃, ? - 12 tháng 12 năm 840), là phi tần của Đường Văn Tông trong lịch sử Trung Quốc. Dương Hiền phi có ảnh hưởng lớn
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Huyền Tông** (chữ Hán: 玄宗) là miếu hiệu của một số vị quân chủ ở Trung Hoa và Việt Nam. ## Trung Quốc * Đường Huyền Tông ## Việt Nam * Lê Huyền Tông
Lần theo manh mối từ tập một, Không Hải bắt tay vào điều tra từ bài ca mà người vợ bị mèo ám của nhà họ Lưu hát. Biết được đó là bài thơ khoảng
Lần theo manh mối từ tập một, Không Hải bắt tay vào điều tra từ bài ca mà người vợ bị mèo ám của nhà họ Lưu hát. Biết được đó là bài thơ khoảng
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**Quế Dương** là một huyện cũ thuộc tỉnh Bắc Ninh. Huyện Quế Dương được thành lập trên cơ sở địa phận cũ của châu Vũ Ninh. * Phía Bắc giáp 2 huyện Việt Yên (nay
**Ngư Huyền Cơ** (chữ Hán: 魚玄機; 844 - 871), tự **Ấu Vi** (幼薇), lại có tự **Huệ Lan** (惠蘭), là một tài nữ trứ danh và là một kĩ nữ tuyệt sắc vào thời kì
**Dương Quốc Trung** (chữ Hán: 楊國忠; ? - 15 tháng 7, 756), tên cũ **Dương Chiêu** (楊釗), ngoại thích và quan viên nhà Đường, từng phục vụ với chức vị Tướng quốc dưới thời Đường
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Lý Bí** (; 722 – 1 tháng 4, 789), tự là **Trường Nguyên** (), tước phong **Nghiệp huyện hầu** (), là quan viên dưới thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người
**Lý Hiền** (chữ Hán: 李賢, 29 tháng 1, 655 - 13 tháng 3, 684), biểu tự **Minh Doãn** (明允), theo mộ chí thì biểu tự của ông là **Nhân** (仁), được biết đến với thụy
**Lý Hoàn** (chữ Hán: 李峘, ? – 763), tông thất, quan viên nhà Đường. ## Thân thế Ông cụ là Ngô vương Lý Khác – hoàng tử thứ ba của Đường Thái Tông. Ông nội
**Dương Bảo Tông** (chữ Hán: 杨保宗, ? – 443), tên khác là **Khương Nô** (羌奴), người dân tộc Đê, thủ lĩnh nước Cừu Trì vào đời Nam Bắc triều, kế vị vào năm 429 nhưng
**Tống** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á. Họ này phổ biến ở Trung Quốc (chữ Hán: 宋, Bính âm: _Song_ hoặc _Soong_, Wade-Giles: _Sung_), Việt Nam và Triều Tiên (Hangul:
**Lý Quỹ** (chữ Hán: 李揆, 711 – 784), tự **Đoan Khanh** (端卿), nguyên quán Thành Kỷ, Lũng Tây , tịch quán Huỳnh Dương, Trịnh Châu , tể tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
**Lê Huyền Tông** (chữ Hán: 黎玄宗 1654 – 16 tháng 11 năm 1671) tên thật là **Lê Duy Vũ** (黎維禑), tên khác là **Lê Duy Hi** (黎維禧), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà
**Vũ Thành** () là một huyện cấp thị thuộc địa cấp thị Đức Châu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Trong thời gian gần đây, với sự phát triển của ngành sản xuất đường tại địa
**Mã Lân** (chữ Hán: 马璘, 721 – 777), tự **Nhân Kiệt**, người Phù Phong, Kỳ Châu , tướng lãnh trung kỳ đời Đường. ## Thân thế Lân sinh ra trong gia đình nhiều đời làm
**Trần Dương** (chữ Hán: 陈旸, 1064 – 1128), tự Tấn Chi, người huyện Mân Thanh, địa cấp thị Phúc Châu, Phúc Kiến, quan viên, nhà lý luận âm nhạc cuối đời Bắc Tống. ## Sự
**Chiến tranh Đường – Kucha** là một chiến dịch quân sự dưới sự chỉ huy của tướng nhà Đường Ashina She'er chống lại vương quốc nhỏ Kucha ở lòng chảo Tarim thuộc Tây Vực, gần
**_Đại Đường du hiệp truyện_** (tiếng Trung: _大唐游俠傳_, tiếng Anh: _Paladins in Troubled Times_) là bộ phim truyền hình Trung Quốc do Trương Kỷ Trung sản xuất vào năm 2008, chuyển thể từ tiểu thuyết
**Dương Tư Húc** (chữ Hán: 楊思勗, 654 – 740) là hoạn quan và tướng lĩnh thời Đường. ## Tiểu sử ### Thân thế và binh nghiệp Dương Tư Húc quê ở Thạch Thành, La Châu,
**Vương Tuấn** (chữ Hán: 王晙; ?-732), là tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công đẩy lui quân Thổ Phiên xâm lấn biên giới phía tây nhà Đường. ## Thân thế Vương