✨Lý Thần phi

Lý Thần phi

Chương Ý Lý Hoàng hậu (chữ Hán: 章懿李皇后; 987 - 1032), nhưng rất hay được gọi là Lý Thần phi (李宸妃), nguyên là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng. Về sau, do được công nhận là sinh mẫu của Tống Nhân Tông Triệu Trinh, bà được con trai truy tặng thụy hiệu Hoàng hậu.

Cuộc đời của bà gắn liền với truyền thuyết rất nổi tiếng Ly miêu hoán thái tử (狸猫换太子) - huyền thoại về thân thế của Tống Nhân Tông. Bà chưa từng được làm Hoàng hậu khi còn sống, đến khi qua đời danh phận của bà chỉ là phi tần, sau khi Tống Nhân Tông biết rõ vụ việc giữa bà và Chương Hiến Minh Túc Hoàng hậu, bà mới được truy phong thụy hiệu Hoàng hậu.

Tiểu sử

Chương Ý Hoàng hậu Lý thị, nguyên quán ở Hàng Châu, tổ phụ là Lý Diên Tự (李延嗣), làm chức Chủ bộ (主簿) của huyện Kim Hoa. Cha là Lý Nhân Đức (李仁德), sau phong chức Tả ban điện trực (左班殿直). Khi còn nhỏ, Lý thị nhập cung, sau hầu hạ Lưu Mỹ nhân, tính tình cẩn trọng, được Tống Chân Tông cho làm Nữ quan, chức Ti tẩm (司寢).

Theo truyền thuyết, Tống Chân Tông đang sủng ái Lưu Mỹ nhân và muốn lập làm Hoàng hậu, nhưng quần thần nhận thấy Lưu Mỹ nhân xuất thân hàn vi, cật lực phản đối. Chân Tông lo lắng, ngày đêm không yên, gặp lúc đó Lý thị gặp được mộng tiên nhân, báo rằng sẽ sinh long thai kỳ tử. Chân Tông cùng Lưu Mỹ nhân bèn nghĩ ra kế sách Tá phúc sinh tử (借腹生子), nghĩa là "Mượn bụng sinh con trai", tuy nhiên Tống sử cùng nhiều sách khác lại nói đây là chủ ý của Lưu Mỹ nhân, không đề cập đến chủ ý từ Chân Tông. Sau một đêm hầu ngủ cho Chân Tông, Lý thị có thai, Chân Tông bèn ban cho bà một cây trâm thoa bằng ngọc. Có lần, Lý thị tùy Hoàng đế lên một lầu đài, ngọc thoa bị rơi, Chân Tông cầu rằng:「"Nếu thoa còn nguyên, tất sinh Quý tử"」, khi cho người xuống dâng lên lại thì cây thoa vẫn còn nguyên.

Năm Đại Trung Tường Phù thứ 3 (1010), ngày 14 tháng 4 (tức ngày 12 tháng 5 dương lịch), Lý thị sinh ra một Hoàng tử, đặt tên là Triệu Thụ Ích (赵受益), nhưng Tống Chân Tông tuyên bố là do Lưu Mỹ nhân sinh ra, Lý thị được phong Sùng Dương huyện quân (崇暘縣君). Sau đó bà mang thai được một công chúa, được phong lên Tài nhân, nhưng công chúa yểu mệnh qua đời, truy phong là Huệ Quốc công chúa (惠國公主). Về sau, Lưu Mỹ nhân được lập làm Hoàng hậu, Lý thị được nâng lên tước Uyển nghi (婉儀). Địa vị của bà lúc đó hơn Thẩm Tiệp dư (沈婕妤), ngang với Tào Sung viên (曹充媛) và dưới Dương Thục phi.

Thần phi

Năm Càn Hưng nguyên niên (1022), Tống Chân Tông băng hà, Thái tử Triệu Trinh kế vị, sử gọi Tống Nhân Tông. Lưu Hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu, Lý Uyển nghi của Chân Tông được phong làm Thuận dung (顺容), đưa đến trông nom lăng mộ Tiên đế là Vĩnh Định lăng.

Do khi xưa Lưu Thái hậu tuyên bố Nhân Tông là con mình sinh ra, nên bản thân Nhân Tông không biết Lý thị mới là mẹ ruột, trong cung những ai biết chuyện đều sợ Thái hậu mà cũng không dám nói ra. Tuy vậy, Lưu Thái hậu không để Lý thị quá thiệt thòi, bà sai Lưu Mỹ, Trương Hoài Đức tra tìm thân tộc của Lý Thuận dung và ban tiền bạc cho họ, phong em trai là Lý Dụng Hòa (李用和) làm Tam ban phụng chức (三班奉职), với lý do Lý Thuận dung đến trông coi lăng mộ Tiên đế, nên thường ban ơn trọng thưởng. Bên cạnh đó, tổ tiên 3 đời của bà cũng được Lưu Thái hậu đặc biệt truy phong.

Năm Minh Đạo nguyên niên (1032), Lý Thuận dung bệnh nặng. Lưu Thái hậu sách phong bà làm Thần phi (宸妃) hàm Chính nhất phẩm, đưa Thái y đến tận tình cứu chữa. Ngay khi vừa sách phong thì Lý Thần phi qua đời, hưởng dương 46 tuổi. Lưu Thái hậu cho khâm liệm qua loa, đưa quan tài ra khỏi cung. Thừa tướng Lã Di Giản (呂夷簡) hỏi vì sao không làm tang lễ, Lưu Thái hậu tìm cách để Tống Nhân Tông đi khỏi, rồi trách Lã Di Giản li gián hai cung. Lã Di Giản đe dọa rằng nếu không hậu táng cho Lý Thần phi thì Lưu Thái hậu chẳng còn được bao lâu nữa sẽ diệt môn. Lưu Thái hậu hiểu ra, cho khâm liệm Lý Thần phi dùng đồ của Hoàng hậu, trong quan tài có đầy thủy ngân.

Truy phong

Năm Minh Đạo thứ 2 (1033), tháng 3, ngày Giáp Ngọ, sau khi trở về từ Thái miếu, Hoàng thái hậu Lưu thị băng hà ở Bảo Từ điện (宝慈殿), thọ 65 tuổi. Sau khi Lưu Thái hậu băng, Dương Thái phi nói với Nhân Tông:「"Lưu hậu không phải sinh mẫu thật sự của Quan gia, mẫu thân của ngài là Lý Thần phi đã qua đời"」. Tống Nhân Tông lúc này mới biết Lưu Thái hậu không phải mẹ mình, lại càng là người mà mình xem như không thân thích gì trước khi chết là Lý Thần phi, nên sinh bệnh ốm nặng, mấy ngày không thể thượng triều, cũng hạ chiếu tự trách.

Lúc này, Yên vương Triệu Nguyên Nghiễm tiết lộ sự thật về thân thế của Lý Thần phi, nói rằng Lưu Thái hậu đã cướp Nhân Tông về làm con mình, bỏ rơi Lý Thần phi ở trong cung thất sủng, Yên vương còn nói rằng Lưu Thái hậu có thể đã hạ độc chết Lý Thần phi. Tống Nhân Tông kinh hoàng, sai quân lính bao vây phủ của nhà họ Lưu, còn mình đích thân tới nơi chôn của Lý Thần phi. Khi khai quật và bật nắp quan tài, phát hiện xác của Thần phi đã bao trùm bởi thủy ngân, dung nhan vẫn rất nguyên vẹn trước khi mất, lại mặc trang phục của bậc Hậu. Tống Nhân Tông bèn cảm thán:「"Chuyện thiên hạ nói, sao có thể đáng tin a!"」. Sau đó, Nhân Tông quỳ trước linh cữu Lưu Thái hậu, khóc nói:"Tự nay về sau, Đại nương nương cả đời trong sạch!". Đối với chuyện này, Tống Nhân Tông cả đời về sau đều không muốn nhắc lại, cũng không cho người khác thêu dệt về Lưu Thái hậu, còn ban cả chiếu chỉ chỉ điểm thiên hạ. Sự kiện này được gọi là Nhân Tông nhận mẫu (仁宗認母), về sau cứ lưu truyền trong dân gian, được thêu dệt đủ kiểu tình huống.

Về sau, Tống Nhân Tông truy phong Lý Thần phi làm Hoàng thái hậu, lấy thụy hiệu là Trang Ý (壯懿). Do Lưu Thái hậu chưa từng bạc đãi Lý Thái hậu, Nhân Tông không truy cứu bất kỳ điều gì về chuyện xảy ra năm xưa nữa, chỉ chú tâm an táng tử tế cho Lý Thái hậu và Lưu Thái hậu, hợp táng cùng Tống Chân Tông ở Vĩnh Định lăng. Thần chủ của bà là Phụng Từ miếu (奉慈廟), sau ở trong Cảnh Linh cung (景靈宮) xây một thần ngự điện, gọi là Quảng Hiếu điện (廣孝殿), thờ chuyên biệt linh vị của Lý Thái hậu. Những năm Khánh Lịch (1041 - 1048), thụy hiệu của Lý Thái hậu được cải thành Chương Ý (章懿), cùng Lưu Thái hậu thăng phụ thần vị lên Thái miếu. Để bày tỏ lòng hiếu đối với người mẹ quá cố, Nhân Tông còn trọng dụng em trai bà là Lý Dụng Hòa, phong làm Tiết độ sứ của Chương Tín quân (彰信軍), kiêm Kiểm giáo Thị trung (檢校侍中), muôn phần thiện đãi. Ông còn quyết định gả con gái lớn là Phúc Khang công chúa (福康公主) cho con trai của Lý Dụng Hòa là Lý Vĩ (李瑋).

Ly miêu hoán thái tử

Trong truyền thuyết dân gian của Trung Quốc, Lý Thần phi được biết đến là một nhân vật quan trọng trong điển tích Ly miêu hoán thái tử (狸猫换太子). Đây là một đoạn chương hồi trong Thất hiệp ngũ nghĩa của tác giả đời Thanh tên Thạch Ngọc Côn (石玉昆), sáng tác về Bao Chửng, còn gọi Bao Thanh Thiên (包青天).

Theo câu chuyện này, năm đó Lý Thần phi và Lưu Hoàng hậu cùng lúc có thai. Khi cả hai hạ sinh, Lưu Hoàng hậu sinh ra một Công chúa mà chết yểu, còn Lý Thần phi sinh ra được một Hoàng tử. Lưu Hoàng hậu sợ hãi, bèn cùng hoạn quan tráo con của Lý Thần phi bằng một con ["Ly miêu"; 貍貓], vu khống Lý Thần phi sinh hạ quái thai yêu nghiệt. Sau đó Lý Thần phi bị đuổi ra khỏi cung, lưu lạc dân gian, con trai bà trong cung đã được phong làm Thái tử kế vị, tức Tống Nhân Tông. Lưu lạc nhiều năm, thân thể tàn úa, đến gần cuối đời Lý Thần phi gặp được Bao Công, bèn xin vị Bao Thanh Thiên trứ danh này trợ giúp tìm được công lý. Dưới sự tài tình và thẳng thắn của mình, Bao Công minh oan cho Lý thị, được đón vào cung tôn làm Hoàng thái hậu, còn Lưu hậu sợ tội tự sát.

Tuy tiểu thuyết dựa vào sự thật lịch sử, song đã hư cấu hóa nhằm tăng thêm giai thoại và hành vi anh minh của Bao Công. Tuy vậy, cụm từ Ly miêu hoán Thái tử về sau lại rất thông dụng, trở thành một cách nói ẩn dụ về thủ pháp hoán đổi đầy tính âm mưu trong cuộc sống.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chương Ý Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 章懿李皇后; 987 - 1032), nhưng rất hay được gọi là **Lý Thần phi** (李宸妃), nguyên là một phi tần của Tống Chân Tông Triệu Hằng. Về sau, do
**Thần phi** (chữ Hán: 宸妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. Từ _Thần_ (宸) trong mỹ hiệu mang ý nghĩa là "nơi ở
**Khang phi Lý thị** (chữ Hán: 康妃李氏, 1594 – 1674), là một phi tần được đắc sủng của vua Minh Quang Tông thời nhà Minh. ## Cuộc đời Không rõ xuất thân của Lý Khang
**Cung Ý Trang phi Lý thị** (chữ Hán: 恭懿莊妃 李氏; 5 tháng 12 năm 1588 – 6 tháng 12 năm 1624), là một phi tần của vua Minh Quang Tông thời nhà Minh. ## Xuất
**Lý Thần Tông** (chữ Hán: 李神宗 1116 – 31 tháng 10 năm 1138) là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Lý nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1128 đến khi
**Lý Thần** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1978) là nam diễn viên, đạo diễn người Trung Quốc. ## Sự nghiệp Năm 1997, Lý Thần được chọn đóng vai chính trong phim truyền hình "17
Bản đồ khí hậu đơn giản hoá của châu Phi: Hạ Saharan gồm vùng [[Sahel và Sừng châu Phi khô cằn ở phía bắc (màu vàng), các savanna nhiệt đới (lục sáng) và các rừng
**Hiếu Ý Trang Hoàng hậu Lý thị** (孝懿莊皇后李氏; 1530 - 1558), nguyên là **Lý Vương phi** (李王妃), là Chính thất Vương phi của Minh Mục Tông Chu Tái Kỵ khi ông còn là _Dụ vương_
**Lý Ấp Phi** (tiếng Trung giản thể: 李邑飞; bính âm Hán ngữ: _Lǐ Yì Fēi_; sinh tháng 1 năm 1964, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là
**Lý Thân** (chữ Hán: 李绅, ? – 846), tên tự là **Công Thùy**, tịch quán ở Vô Tích, Nhuận Châu , nhà chính trị, nhà văn hóa hoạt động trong giai đoạn trung kỳ đời
Một [[bản đồ não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Phi** (chữ Hán: 妃; Kana: ひ; Hangul: 비) là một xưng hiệu thuộc Hoàng thất và Vương thất của khối quốc gia thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc
**Diana Spencer, Thân vương phi xứ Wales** (Diana Frances Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997), báo chí Việt Nam thường gọi là **Công nương** thay vì là **Vương phi**,
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Quần đảo Phi Phi** (, (phát âm là 'Pee Pee') là một nhóm đảo ở Thái Lan nằm giữa đảo lớn Phuket và eo biển Malacca của Thái Lan. Quần đảo này là một phần
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
_Cheonsan Daeryeopdo_, "Thiên Sơn đại liệp đồ" do Cung Mẫn Vương họa. **Cao Ly Cung Mẫn Vương** (Hangul: 고려 공민왕; chữ Hán: 高麗 恭愍王; 23 tháng 5 năm 1330 – 27 tháng 10 năm 1374,
**Hách Xá Lý** (; Pinyin: Hesheli; Manchu: _Hešeri_), là một họ người Mãn thuộc Kiến Châu Nữ Chân. Nguồn gốc họ này xuất phát từ bộ tộc Hách Xá Lý với địa bàn sinh sống
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Lâm Y Thần** (chữ Hán: 林依晨, tên tiếng Anh: Ariel Lin, sinh ngày 29 tháng 10 năm 1982) là nữ diễn viên, ca sĩ người Đài Loan. Cô đã tạo ấn tượng cho khán giả
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
liên_kết=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/59/112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg/170px-112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg|nhỏ|_[[Innocent Victims|Tượng Những Nạn nhân Vô tội_, một trong hai đài tưởng niệm trước đây được trưng bày ở Harrods]] Sau năm 1998, người ta cho rằng cái chết của Diana, Vương phi xứ Wales
phải|không_khung|400x400px| Biểu đồ chỉ số sản xuất ISM **Viện Quản lý cung ứng** (**ISM**) là hiệp hội quản lý cung ứng lâu đời nhất và lớn nhất trên thế giới. Được thành lập vào năm
**Cao Ly U Vương** (Hangul: 고려 우왕; chữ Hán: 高麗 禑王; 25 tháng 7 năm 1365 – 31 tháng 12 năm 1389, trị vì 1374 – 1388) là quốc vương thứ 32 của Cao Ly.
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Phí Công Tín** (; ? – ?) hay **Lý Công Tín** () là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Phí Công Tín, không rõ quê quán, giữ chức
**Hiếu Kính Thái hoàng thái hậu Lý thị** (chữ Hán: 孝敬太皇太后李氏, ? - 1597), thường gọi là **Cung Thuận Hoàng quý phi Lý thị** (恭顺皇贵妃李氏) hay **Lý Quý phi** (李李氏) là một phi tần của
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
nhỏ|Cơ chế khả biến thần kinh là cơ chế giúp thích nghi được với sự biến đổi của môi trường, là khả năng phục hồi và tái tạo, hay học một kỹ năng mới.|273x273px **Thích
**Kế toán chi phí** là quá trình ghi lại, phân loại, phân tích, tóm tắt và phân bổ chi phí liên quan đến một quy trình, sau đó phát triển các khóa hành động khác
phải|nhỏ|247x247px| Minh họa của [[René Descartes về thuyết nhị nguyên. Đầu vào được chuyển bởi các cơ quan giác quan đến tuyến tùng trong não và từ đó đến tinh thần phi vật chất. ]]
**Thần kinh học động vật** (_Neuroethology_) là phương pháp tiếp cận so sánh và tiến hóa để nghiên cứu hành vi của động vật cùng sự kiểm soát cơ học cơ bản của nó từ
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
**Cao Ly Hi Tông** (Hangul: 고려 희종; chữ Hán: 高麗 熙宗; 21 tháng 6 năm 1181 – 31 tháng 8 năm 1237, trị vì 1204 – 1211) là quốc vương thứ 21 của vương triều
**Cao Ly Nhân Tông** (Hangul: 고려 인종, chữ Hán: 高麗 睿宗; 29 tháng 10 năm 1109 – 10 tháng 4 năm 1146, trị vì 1122 – 1146) là quốc vương thứ 17 của Cao Ly.
**Hội nghị Nghị chính Vương Đại thần** (; ), còn được gọi tắt là **Nghị chính xứ** (), là một cơ quan cố vấn cho Hoàng đế (Đại hãn) thời kỳ đầu nhà Thanh. Nghị
**Lý Tiểu Lộ** (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1981) là nữ diễn viên Trung Quốc. Năm 17 tuổi, cô là diễn viên trẻ nhất từng nhận giải thưởng Kim Mã lần thứ 35 cho
**Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi** (chữ Hán: 敏惠恭和元妃; 1609 – 1641), được biết đến với tên gọi **Hải Lan Châu** (海蘭珠), là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thái Tông Hoàng
thumb|upright=1.5|Bức tranh sơn dầu miêu tả [[Claude Bernard, vị cha đẻ của sinh lý học hiện đại, bên cạnh các học trò của mình.]] **Sinh lý học** (, ; ) là một bộ môn khoa
**Lý Quốc Sư** (chữ Hán: 李國師 15 tháng 10 năm 1065 –19 tháng 11 năm 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp
**Hậu chấn tâm lý** hay **rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương** (tiếng Anh: **_p**ost-**t**raumatic **s**tress **d**isorder_ – PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp
**Ninh Khác phi** (chữ Hán: 寧愨妃; ? - 1694), Đổng Ngạc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Thân thế Ninh Khác phi xuất thân từ dòng họ
**Chi phí gián tiếp** là chi phí không liên quan trực tiếp đến một đối tượng chi phí (chẳng hạn như một dự án, cơ sở, chức năng hoặc sản phẩm cụ thể). Chi phí
**Nguyên Đức Lý Hoàng hậu** (chữ Hán: 元德李皇后; 943 - 977), còn gọi là **Lý Hiền phi** (李賢妃), là phi tần của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa và là sinh mẫu của Tống Chân
**Cung Túc Quý phi** (chữ Hán:恭肅貴妃; ? – 1425), họ Quách, là một phi tần rất được sủng ái của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà cũng nổi tiếng là vị phi tần dù
Vùng Sừng châu Phi chụp từ vệ tinh Vùng đất **Sừng châu Phi** (có tên gọi khác là vùng **Đông Bắc Phi** và đôi khi được gọi là **bán đảo Somalia**) là một bán đảo
Trong các **tôn giáo Đại Việt thời Lý**, Phật giáo về cơ bản là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều nhất, ngoài ra Nho giáo và Đạo giáo cũng có tác động đến đời sống