✨Tống Độ Tông
Tống Độ Tông (chữ Hán: 宋度宗, bính âm: Song Duzong, 2 tháng 5 năm 1240 - 12 tháng 8 năm 1274), thụy hiệu Đoan Văn Minh Vũ Cảnh Hiếu hoàng đế (端文明武景孝皇帝), tên thật là Triệu Mạnh Khải (趙孟启), Triệu Tư (趙孜) hay Triệu Kì (趙禥), tên tự Trường Nguyên (長源), là vị hoàng đế thứ 15 của vương triều nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc, và là hoàng đế thứ sáu của triều đại Nam Tống.
Tống Độ Tông là con trai của Vinh vương Triệu Dữ Nhuế, cháu gọi Tống Lý Tông, vua thứ 14 của triều Tống là bác. Do Lý Tông không có con nên đã phong cho ông làm Trung vương và nhận làm hoàng tử vào năm 1253 và hoàng thái tử (1260).
Năm 1264, Tống Lý Tông qua đời, Triệu Kì với thân phận hoàng tử lên kế vị. Trong thời gian nắm quyền, Độ Tông ham mê nữ sắc, xa xỉ lãng phí khiến đời sống nhân dân khốn khổ. Bên trong để thái sư Giả Tự Đạo khuynh đảo triều chính, nền chính trị ngày một đen tối; bên ngoài quân đội Nguyên-Mông ở phía bắc ra sức tấn công, nhất là ở khu vực Tương, Phàn, mà Độ Tông bị Tự Đạo lừa gạt đến nỗi không đưa quân cứu viện những nơi nguy cấp. Cho đến cuối đời Độ Tông thì Tương Dương, Phàn Thành đều rơi vào tay người Nguyên; triều đình bất lực không thể lấy lại. Việc mất đất lần này có liên quan mật thiết đến sự diệt vong của vương triều Nam Tống không lâu sau đó. Cuối cùng Độ Tông vì tửu sắc quá độ đã sớm qua đời vào năm 1274. Năm năm sau, triều Tống chính thức diệt vong.
Thân thế và cuộc sống ban đầu
Triệu Mạnh Khải chào đời vào ngày 2 tháng 5 năm 1240, tức ngày 9 tháng 4 ÂL năm Gia Hi thứ tư đời vua Lý Tông triều Nam Tống tại phủ Vinh vương, đất Thiệu Hưng. Lúc trước, Vinh Văn Cung vương phu nhân, tức mẫu thân ruột của Lý Tông (và Vinh vương Dữ Nhuế) là Toàn thị nằm mộng thấy có vị thần đến nói với mình :Đứa bé này có đế mệnh, nhưng không phải là do sở hữu của nhà nó.
Sau đó Vinh vương phu nhân Tiền thị (vợ cả của Dữ Nhuế) cũng mộng thấy ánh sáng chiếu vào nội thất ở phía đông. Vào đêm đó, mẫu thân Mạnh Khải, tức Hoàng thị cũng mộng thấy có thần nhân áp một con rồng vào bụng mình. Khi Đế chào đời, có ánh sáng màu đỏ chiếu xuống khắp nhà. Lý Tông giáo dục thái tử rất nghiêm, đặt lệ tờ mờ sáng phải tới vấn an các cung, một giờ sau hồi cung, lúc trời sáng hẳn thì ra triều nghe bàn luận về chính sự. Lúc thối triều lại phải vào giảng đường, nghe giảng quan giảng kinh nghĩa, rồi giảng sử sách, mỗi ngày ông bị ép phải đọc không biết bao nhiêu là sách. Có hôm Lý Tông còn triệu ông vào hỏi hôm sau học sách gì, nếu trả lời được thì ban tọa, ban trà; trả lời không được thì phải đứng trận lôi đình và bắt phải học lại. Ngày Quý Mão tháng 12 ÂL năm thứ 2 (1261), Vĩnh Gia quận phu nhân Toàn thị, vợ của Triệu Kì được sách phong làm thái tử phi. Phong cho Diệp Mộng Đỉnh làm Tham tri chính sự nhưng Diệp Mộng Đỉnh cố từ tạ chức vị, Độ Tông lại theo lời Giả Tự Đạo mà lưu lại. Tháng 12 ÂL năm đó, Độ Tông hạ chiếu cải nguyên, lấy năm tiếp theo (1265) là Hàm Thuần nguyên niên, đại xá thiên hạ. Tháng 2 ÂL năm 1165, Độ Tông dùng Diêu Hi làm Tham tri chính sự, Giang Vạn Lý và Lưu Mộng Viêm nắm giữ Xu mật viện.
Giả Tự Đạo ngay từ thời Lý Tông đã nắm quyền lớn, khuynh đảo triều chính. Khi Độ Tông lên ngôi, hắn càng ngang ngược phóng túng. Độ Tông nghĩ tình Tự Đạo có công đưa mình lên ngôi, tấn phong làm Thái sư, tước Ngụy quốc công (tháng 4 ÂL năm 1265); đặc cách mỗi lần vào triều được ngồi dâng tấu, khi đối đáp không phải xưng tên, Độ Tông lại gọi hắn là sư thần, triều thần xưng là Chu công. Đầu năm 1265, Tự Đạo đã xin đến trông nom sơn lăng, Độ Tông phải hết sức tìm cách lưu lại. Từ sau lễ tang Lý Tông, Tự Đạo làm mình làm mẩy, xin nghỉ quan về đất Việt; nhưng lại lệnh Lã Văn Đức giả báo quân Mông Cổ đã đánh tới Hạ Đà, khiến triều đình vô cùng hoang mang. Độ Tông hạ chiếu triệu Tự Đạo, Tự Đạo cứ kiếm cớ thoái thác. Mãi sau phải đích thân Tạ thái hậu viết chiếu mời về, Tự Đạo mời chịu vào cung. Lúc Tự Đạo tới, Độ Tông phong làm Trấn Đông quân tiết độ sứ. Tự Đạo tức giận nói chức tiết độ sứ để bọn thô bỉ làm đi. Rồi lại dùng dằng xin từ quan. Độ Tông cực chẳng đã phải quỳ lạy cầu xin Tự Đạo ở lại.
Đầu năm 1267, lấy Vương Dược làm Tri Xu mật viện sự, Diệp Mộng Đỉnh Tham tri chính sự, Thường Đĩnh Thiêm thư xu mật viện sự; sắc phong chính thê Toàn thị làm hoàng hậu. Lúc này Giả Tự Đạo lại làm mình làm mẩy, xin nghỉ, Độ Tông lệnh thị tòng truyền chỉ kiên quyết giữ lại. Sau đó Độ Tông còn phong cho Tự Đạo là Bình chương quân quốc trọng sự, một tháng ba lần đến Kinh diên, ba ngày vào triều một lần, ban cho phủ đệ ở Cát Lĩnh Tây Hồ. Nhưng Tự Đạo lại làm phách, phải năm ngày mới lên thuyền bơi vào triều, việc quan trọng các nơi gởi tới mà chỉ qua qua loa. Việc triều chính bất kể lớn nhỏ đều do Tự Đạo xem xét và giải quyết cả. Về sau thì mọi giấy tờ phải gửi qua phủ đệ của Tự Đạo, Tự Đạo không thèm vào triều nữa. Việc triều chính Tự Đạo giao kẻ khác xem xét, còn mình chỉ xem những tấu chương đàn hặc của Thai gian. Chính nhân quân tử dám nói thẳng đều bị Tự Đạo bài xích; còn Độ Tông thì chẳng dám trái ý Tự Đạo. Nhiều đại thần vì chống đối hắn ta mà mất chức như Trần Mông, Giang Vạn Lý...
Tháng 6 ÂL năm 1267, Độ Tông phong Lã Văn Đức là Thiếu phó, Mã Quang Tổ Tham tri chính sự, tiến phong phụ thân là Vinh vương Dữ Nhuế làm Phúc vương. Tự Đạo tiến cử Diệp Mộng Đỉnh làm Hữu thừa tướng, Xu mật sứ, ngang hàng với Tự Đạo. Mộng Đỉnh từ tạ đến mấy lần mới nhận chức. Sau đó Mộng Đỉnh xem xét việc ở Lợi Châu, thấy Tự Đạo bài xích nhiều quan viên trong châu, nên không vừa lòng, dâng sớ từ chức. Mẹ Tự Đạo là Hồ thị được tin trách mắng Tự Đạo nên hắn không dám gây khó dễ cho Mộng Đỉnh. Mộng Đỉnh sau đó nhiều lần dâng sớ xin nghỉ, Độ Tông không theo
Diệp Mộng Đỉnh thấy Tương Phàn nguy cấp mà Tự Đạo cứ ỉm đi thì tỏ ra thất vọng, muốn tìm cách rút lui. Một đêm nọ, ông lén một mình lên xe rời khỏi Lâm An. Triều đình hay tin, phong Mộng Đỉnh là Thiếu sĩ trí sĩ, Quan Văn Điện đại học sĩ, Phán Phúc châu, Mộng Đỉnh không nhận. Độ Tông sau đó lấy Mã Đình Loan và Giang Vạn Lý làm Tham tri chính sự. Sau đó tiến phong Giang, Mã lên chức Tả, Hữu thừa tướng, Mã Quang Tổ làm Tri Xu mật viện, nhưng chưa đầy một tháng thì Quang Tổ bị bãi. Tháng 9 ÂL, Độ Tông gia cho thái hậu tôn hiệu thêm hai chữ Thánh Phúc. Mùa xuân năm 1270, Tả thừa tướng Giang Vạn Lý nhiều lần dâng sớ xin cứu viện Tương, Phàn khiến Giả Tự Đạo bực mình, bèn bãi chức của Vạn Lý.
Bấy giờ trong triều chỉ biết có Tự Đạo chứ không biết có Độ Tông. Ban đầu là sáu ngày vào triều một lần, sau Tự Đạo lại dùng dằng mười ngày mới vào triều, rồi đến lượt Độ Tông mỗi khi có việc cấp bách phải đích thân đến chỗ Tự Đạo. Một hôm vào năm 1272, triều đình có việc hạ minh đường, Độ Tông cho Tự Đạo làm Đại Lễ sứ. Lễ xong thì trời bỗng mưa, Tự Đạo khuyên Độ Tông hết mưa hẵng về. Nhưng chờ mãi mưa vẫn không hết, khi đó Hồ Hiến Tổ là anh của bà Hồ Quý tần thỉnh cầu về cung (mặc dù chưa hỏi ý Tự Đạo). Độ Tông theo lời. Tự Đạo hay tin, tức giận rồi bỏ ra khỏi triều đình theo hướng cửa Gia Hội. Độ Tông cố sức giữ lại cũng không được. Cuối cùng đành phải bãi quan của Hiển Tổ, gạt nước mắt phế bỏ Hồ Quý tần, cho làm ni cô. Khi đó Tự Đạo mới vào triều. Cuối năm này, Độ Tông phong cho Chương Giám làm quyền Tham tri chính sự. Tháng 11 năm đó, Mã Đình Loan do chán ngán Giả Tự Đạo chuyên quyền nên xin từ chức. Quân Mông phá ba trại Ngũ Hoa, Thạch Thành, Bạch Mã ở Gia Định, rồi đóng quân ở Bạch Hà khẩu, xây Bảo Lộc Môn để đóng quân. Phạm Văn Hổ sợ Đình Chi giành mất công, nên xin Tự Đạo cho mình đi cứu Tương Dương. Tự Đạo bằng lòng, để quân của Văn Hổ thuộc Khu phủ tiết chế, tách khỏi sự chỉ huy của Đình Chi. Nhưng Văn Hổ cứ chần chừ không tiến quân mà ngày đêm yến ẩm, đá cầu với lũ kĩ thiếp, còn bảo là chưa nhận được ý chỉ. Lã Văn Hoán bị vây ở Tương Dương đã hai năm, ngày đêm trông chờ quân triều đình tới cứu viện, nhưng vô vọng. Ở Lâm An, Giả Tự Đạo suốt ngày yến ẩm, vui chơi, có cần biết gì đến đất đai hiểm yếu, cần giữ hay không? Sau cùng Tự Đạo bị ngôn luận lên án, mới định dùng Cao Đạt làm Hồ Bắc An phủ sứ, nhưng sau đó lại bãi chức không dùng. Tự Đạo cuối cùng cũng phải hạ lệnh thúc Văn Hổ tiến quân. Ai ngờ vừa ra trận đã bại. Năm 1271, quân triều Tống thất bại ở Thoan Than, thống chế Chu Thắng bị bắt. Sau đó Văn Hổ tiến tới Chí Lộc Môn, nhưng vừa gặp giặc thì đã co giò bỏ chạy.
Cùng năm này, Hốt Tất Liệt đổi tên nước là Đại Nguyên, từ đó quân Mông Cổ gọi là quân Nguyên. Tính đến năm 1272 thì Tương Dương nguy cấp đã 5 năm, Phàn Thành thì 4 năm
- Trinh Tĩnh Công chúa Triệu Quang Ý (貞靜公主趙光懿), con của Du Tu dung, lấy Quận mã Hoàng Tài (黃材), (字國棟,郡馬黃天從和趙溫淑郡主之子), có một người con gái
- Triệu thị Công chúa, không rõ phong hiệu, con của Toàn Hoàng hậu, lấy Giang Thang Nhi (江鏜兒), con của Giang Nhật Tân (江日新), không rõ hậu sự
Cháu nội
Tất cả cháu nội của ông đều thuộc dòng dõi Tống Đế Hiển.
Triệu Hoàn Phổ (?-?), con trai của Tống Cung Đế đi tu.
Bột Nhi Chỉ Cân Thỏa Hoan Thiếp Mộc Nhĩ (1320-1370), con trai nhỏ của Tống Cung Đế theo Tạp sử truyện
Các người cháu của ông đều được sinh ra ít nhất 4 thập kỉ sau ngày ông qua đời.