✨Tống Độ Tông

Tống Độ Tông

Tống Độ Tông (chữ Hán: 宋度宗, bính âm: Song Duzong, 2 tháng 5 năm 1240 - 12 tháng 8 năm 1274), thụy hiệu Đoan Văn Minh Vũ Cảnh Hiếu hoàng đế (端文明武景孝皇帝), tên thật là Triệu Mạnh Khải (趙孟启), Triệu Tư (趙孜) hay Triệu Kì (趙禥), tên tự Trường Nguyên (長源), là vị hoàng đế thứ 15 của vương triều nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc, và là hoàng đế thứ sáu của triều đại Nam Tống.

Tống Độ Tông là con trai của Vinh vương Triệu Dữ Nhuế, cháu gọi Tống Lý Tông, vua thứ 14 của triều Tống là bác. Do Lý Tông không có con nên đã phong cho ông làm Trung vương và nhận làm hoàng tử vào năm 1253 và hoàng thái tử (1260).

Năm 1264, Tống Lý Tông qua đời, Triệu Kì với thân phận hoàng tử lên kế vị. Trong thời gian nắm quyền, Độ Tông ham mê nữ sắc, xa xỉ lãng phí khiến đời sống nhân dân khốn khổ. Bên trong để thái sư Giả Tự Đạo khuynh đảo triều chính, nền chính trị ngày một đen tối; bên ngoài quân đội Nguyên-Mông ở phía bắc ra sức tấn công, nhất là ở khu vực Tương, Phàn, mà Độ Tông bị Tự Đạo lừa gạt đến nỗi không đưa quân cứu viện những nơi nguy cấp. Cho đến cuối đời Độ Tông thì Tương Dương, Phàn Thành đều rơi vào tay người Nguyên; triều đình bất lực không thể lấy lại. Việc mất đất lần này có liên quan mật thiết đến sự diệt vong của vương triều Nam Tống không lâu sau đó. Cuối cùng Độ Tông vì tửu sắc quá độ đã sớm qua đời vào năm 1274. Năm năm sau, triều Tống chính thức diệt vong.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Triệu Mạnh Khải chào đời vào ngày 2 tháng 5 năm 1240, tức ngày 9 tháng 4 ÂL năm Gia Hi thứ tư đời vua Lý Tông triều Nam Tống tại phủ Vinh vương, đất Thiệu Hưng. Lúc trước, Vinh Văn Cung vương phu nhân, tức mẫu thân ruột của Lý Tông (và Vinh vương Dữ Nhuế) là Toàn thị nằm mộng thấy có vị thần đến nói với mình :Đứa bé này có đế mệnh, nhưng không phải là do sở hữu của nhà nó.

Sau đó Vinh vương phu nhân Tiền thị (vợ cả của Dữ Nhuế) cũng mộng thấy ánh sáng chiếu vào nội thất ở phía đông. Vào đêm đó, mẫu thân Mạnh Khải, tức Hoàng thị cũng mộng thấy có thần nhân áp một con rồng vào bụng mình. Khi Đế chào đời, có ánh sáng màu đỏ chiếu xuống khắp nhà. Lý Tông giáo dục thái tử rất nghiêm, đặt lệ tờ mờ sáng phải tới vấn an các cung, một giờ sau hồi cung, lúc trời sáng hẳn thì ra triều nghe bàn luận về chính sự. Lúc thối triều lại phải vào giảng đường, nghe giảng quan giảng kinh nghĩa, rồi giảng sử sách, mỗi ngày ông bị ép phải đọc không biết bao nhiêu là sách. Có hôm Lý Tông còn triệu ông vào hỏi hôm sau học sách gì, nếu trả lời được thì ban tọa, ban trà; trả lời không được thì phải đứng trận lôi đình và bắt phải học lại. Ngày Quý Mão tháng 12 ÂL năm thứ 2 (1261), Vĩnh Gia quận phu nhân Toàn thị, vợ của Triệu Kì được sách phong làm thái tử phi. Phong cho Diệp Mộng Đỉnh làm Tham tri chính sự nhưng Diệp Mộng Đỉnh cố từ tạ chức vị, Độ Tông lại theo lời Giả Tự Đạo mà lưu lại. Tháng 12 ÂL năm đó, Độ Tông hạ chiếu cải nguyên, lấy năm tiếp theo (1265) là Hàm Thuần nguyên niên, đại xá thiên hạ. Tháng 2 ÂL năm 1165, Độ Tông dùng Diêu Hi làm Tham tri chính sự, Giang Vạn Lý và Lưu Mộng Viêm nắm giữ Xu mật viện.

Giả Tự Đạo ngay từ thời Lý Tông đã nắm quyền lớn, khuynh đảo triều chính. Khi Độ Tông lên ngôi, hắn càng ngang ngược phóng túng. Độ Tông nghĩ tình Tự Đạo có công đưa mình lên ngôi, tấn phong làm Thái sư, tước Ngụy quốc công (tháng 4 ÂL năm 1265); đặc cách mỗi lần vào triều được ngồi dâng tấu, khi đối đáp không phải xưng tên, Độ Tông lại gọi hắn là sư thần, triều thần xưng là Chu công. Đầu năm 1265, Tự Đạo đã xin đến trông nom sơn lăng, Độ Tông phải hết sức tìm cách lưu lại. Từ sau lễ tang Lý Tông, Tự Đạo làm mình làm mẩy, xin nghỉ quan về đất Việt; nhưng lại lệnh Lã Văn Đức giả báo quân Mông Cổ đã đánh tới Hạ Đà, khiến triều đình vô cùng hoang mang. Độ Tông hạ chiếu triệu Tự Đạo, Tự Đạo cứ kiếm cớ thoái thác. Mãi sau phải đích thân Tạ thái hậu viết chiếu mời về, Tự Đạo mời chịu vào cung. Lúc Tự Đạo tới, Độ Tông phong làm Trấn Đông quân tiết độ sứ. Tự Đạo tức giận nói chức tiết độ sứ để bọn thô bỉ làm đi. Rồi lại dùng dằng xin từ quan. Độ Tông cực chẳng đã phải quỳ lạy cầu xin Tự Đạo ở lại.

Đầu năm 1267, lấy Vương Dược làm Tri Xu mật viện sự, Diệp Mộng Đỉnh Tham tri chính sự, Thường Đĩnh Thiêm thư xu mật viện sự; sắc phong chính thê Toàn thị làm hoàng hậu. Lúc này Giả Tự Đạo lại làm mình làm mẩy, xin nghỉ, Độ Tông lệnh thị tòng truyền chỉ kiên quyết giữ lại. Sau đó Độ Tông còn phong cho Tự Đạo là Bình chương quân quốc trọng sự, một tháng ba lần đến Kinh diên, ba ngày vào triều một lần, ban cho phủ đệ ở Cát Lĩnh Tây Hồ. Nhưng Tự Đạo lại làm phách, phải năm ngày mới lên thuyền bơi vào triều, việc quan trọng các nơi gởi tới mà chỉ qua qua loa. Việc triều chính bất kể lớn nhỏ đều do Tự Đạo xem xét và giải quyết cả. Về sau thì mọi giấy tờ phải gửi qua phủ đệ của Tự Đạo, Tự Đạo không thèm vào triều nữa. Việc triều chính Tự Đạo giao kẻ khác xem xét, còn mình chỉ xem những tấu chương đàn hặc của Thai gian. Chính nhân quân tử dám nói thẳng đều bị Tự Đạo bài xích; còn Độ Tông thì chẳng dám trái ý Tự Đạo. Nhiều đại thần vì chống đối hắn ta mà mất chức như Trần Mông, Giang Vạn Lý...

Tháng 6 ÂL năm 1267, Độ Tông phong Lã Văn Đức là Thiếu phó, Mã Quang Tổ Tham tri chính sự, tiến phong phụ thân là Vinh vương Dữ Nhuế làm Phúc vương. Tự Đạo tiến cử Diệp Mộng Đỉnh làm Hữu thừa tướng, Xu mật sứ, ngang hàng với Tự Đạo. Mộng Đỉnh từ tạ đến mấy lần mới nhận chức. Sau đó Mộng Đỉnh xem xét việc ở Lợi Châu, thấy Tự Đạo bài xích nhiều quan viên trong châu, nên không vừa lòng, dâng sớ từ chức. Mẹ Tự Đạo là Hồ thị được tin trách mắng Tự Đạo nên hắn không dám gây khó dễ cho Mộng Đỉnh. Mộng Đỉnh sau đó nhiều lần dâng sớ xin nghỉ, Độ Tông không theo

Diệp Mộng Đỉnh thấy Tương Phàn nguy cấp mà Tự Đạo cứ ỉm đi thì tỏ ra thất vọng, muốn tìm cách rút lui. Một đêm nọ, ông lén một mình lên xe rời khỏi Lâm An. Triều đình hay tin, phong Mộng Đỉnh là Thiếu sĩ trí sĩ, Quan Văn Điện đại học sĩ, Phán Phúc châu, Mộng Đỉnh không nhận. Độ Tông sau đó lấy Mã Đình Loan và Giang Vạn Lý làm Tham tri chính sự. Sau đó tiến phong Giang, Mã lên chức Tả, Hữu thừa tướng, Mã Quang Tổ làm Tri Xu mật viện, nhưng chưa đầy một tháng thì Quang Tổ bị bãi. Tháng 9 ÂL, Độ Tông gia cho thái hậu tôn hiệu thêm hai chữ Thánh Phúc. Mùa xuân năm 1270, Tả thừa tướng Giang Vạn Lý nhiều lần dâng sớ xin cứu viện Tương, Phàn khiến Giả Tự Đạo bực mình, bèn bãi chức của Vạn Lý.

Bấy giờ trong triều chỉ biết có Tự Đạo chứ không biết có Độ Tông. Ban đầu là sáu ngày vào triều một lần, sau Tự Đạo lại dùng dằng mười ngày mới vào triều, rồi đến lượt Độ Tông mỗi khi có việc cấp bách phải đích thân đến chỗ Tự Đạo. Một hôm vào năm 1272, triều đình có việc hạ minh đường, Độ Tông cho Tự Đạo làm Đại Lễ sứ. Lễ xong thì trời bỗng mưa, Tự Đạo khuyên Độ Tông hết mưa hẵng về. Nhưng chờ mãi mưa vẫn không hết, khi đó Hồ Hiến Tổ là anh của bà Hồ Quý tần thỉnh cầu về cung (mặc dù chưa hỏi ý Tự Đạo). Độ Tông theo lời. Tự Đạo hay tin, tức giận rồi bỏ ra khỏi triều đình theo hướng cửa Gia Hội. Độ Tông cố sức giữ lại cũng không được. Cuối cùng đành phải bãi quan của Hiển Tổ, gạt nước mắt phế bỏ Hồ Quý tần, cho làm ni cô. Khi đó Tự Đạo mới vào triều. Cuối năm này, Độ Tông phong cho Chương Giám làm quyền Tham tri chính sự. Tháng 11 năm đó, Mã Đình Loan do chán ngán Giả Tự Đạo chuyên quyền nên xin từ chức. Quân Mông phá ba trại Ngũ Hoa, Thạch Thành, Bạch Mã ở Gia Định, rồi đóng quân ở Bạch Hà khẩu, xây Bảo Lộc Môn để đóng quân. Phạm Văn Hổ sợ Đình Chi giành mất công, nên xin Tự Đạo cho mình đi cứu Tương Dương. Tự Đạo bằng lòng, để quân của Văn Hổ thuộc Khu phủ tiết chế, tách khỏi sự chỉ huy của Đình Chi. Nhưng Văn Hổ cứ chần chừ không tiến quân mà ngày đêm yến ẩm, đá cầu với lũ kĩ thiếp, còn bảo là chưa nhận được ý chỉ. Lã Văn Hoán bị vây ở Tương Dương đã hai năm, ngày đêm trông chờ quân triều đình tới cứu viện, nhưng vô vọng. Ở Lâm An, Giả Tự Đạo suốt ngày yến ẩm, vui chơi, có cần biết gì đến đất đai hiểm yếu, cần giữ hay không? Sau cùng Tự Đạo bị ngôn luận lên án, mới định dùng Cao Đạt làm Hồ Bắc An phủ sứ, nhưng sau đó lại bãi chức không dùng. Tự Đạo cuối cùng cũng phải hạ lệnh thúc Văn Hổ tiến quân. Ai ngờ vừa ra trận đã bại. Năm 1271, quân triều Tống thất bại ở Thoan Than, thống chế Chu Thắng bị bắt. Sau đó Văn Hổ tiến tới Chí Lộc Môn, nhưng vừa gặp giặc thì đã co giò bỏ chạy.

Cùng năm này, Hốt Tất Liệt đổi tên nước là Đại Nguyên, từ đó quân Mông Cổ gọi là quân Nguyên. Tính đến năm 1272 thì Tương Dương nguy cấp đã 5 năm, Phàn Thành thì 4 năm

  • Trinh Tĩnh Công chúa Triệu Quang Ý (貞靜公主趙光懿), con của Du Tu dung, lấy Quận mã Hoàng Tài (黃材), (字國棟,郡馬黃天從和趙溫淑郡主之子), có một người con gái
  • Triệu thị Công chúa, không rõ phong hiệu, con của Toàn Hoàng hậu, lấy Giang Thang Nhi (江鏜兒), con của Giang Nhật Tân (江日新), không rõ hậu sự

Cháu nội

Tất cả cháu nội của ông đều thuộc dòng dõi Tống Đế Hiển.

Triệu Hoàn Phổ (?-?), con trai của Tống Cung Đế đi tu.

Bột Nhi Chỉ Cân Thỏa Hoan Thiếp Mộc Nhĩ (1320-1370), con trai nhỏ của Tống Cung Đế theo Tạp sử truyện

Các người cháu của ông đều được sinh ra ít nhất 4 thập kỉ sau ngày ông qua đời.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Độ Tông** (chữ Hán: 宋度宗, bính âm: Song Duzong, 2 tháng 5 năm 1240 - 12 tháng 8 năm 1274), thụy hiệu **Đoan Văn Minh Vũ Cảnh Hiếu hoàng đế** (端文明武景孝皇帝), tên thật là
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Toàn Hoàng hậu** (全皇后; 1241 - 1309), là nguyên phối Hoàng hậu của Tống Độ Tông Triệu Mạnh Khải và là sinh mẫu của Tống Cung Đế Triệu Hiển. ## Tiểu sử **Toàn Hoàng hậu**
**Dương Thục phi** (chữ Hán: 杨淑妃; ? - 1279), là một phi tần của Tống Độ Tông Triệu Mạnh Khải và là sinh mẫu của Tống Đoan Tông Triệu Thị. ## Tiểu sử **Dương Thục
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tào Động tông** (zh. 曹洞宗 _cáo-dòng-zōng_, ja. _sōtō-shū_) là một trong năm Thiền phái của Thiền tông Trung Quốc, được sáng lập vào cuối nhà Đường bởi hai thầy trò Thiền sư Động Sơn Lương
**Tổng thống Đức**, chính thức là **Tổng thống liên bang Cộng hòa Liên bang Đức** (), là nguyên thủ quốc gia của Đức. Theo thiết chế trong chính trị Đức, đây là vị trí chủ
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
thumb|[[A-di-đà và hai Bồ Tát Quán Thế Âm (phải) và Đại Thế Chí (trái)|262x262px]] **Tịnh độ tông** hay **Tịnh thổ tông** (zh. _jìngtǔ-zōng_ 淨土宗, ja. _jōdo-shū_), có khi được gọi là **Liên tông** (zh. 蓮宗),
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
thumb|right|Một cột chống xây dựng bằng bê tông cốt thép trước và sau khi đổ bê tông. **Bê tông cốt thép** (trong tiếng Anh: reinforced concrete) viết tắt (BTCT) là một loại vật liệu composite
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Tổng thống Liên bang Nga** () là nguyên thủ quốc gia thực hiện quyền hành pháp của Nga. Tổng thống là chủ tịch Hội đồng Nhà nước Liên bang và là tổng tư lệnh tối
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Võ Tòng** (chữ Hán: 武松; bính âm: _Wǔ Sōng,_ **Võ Tùng** hay **Vũ Tùng**), ngoại hiệu _Hành giả_, là một nhân vật trong tiểu thuyết _Thủy hử_. Võ Tòng cũng xuất hiện trong _Kim Bình
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
nhỏ|phải|Hệ khuôn đúc tường (vách) bê tông cốt thép. nhỏ|400 px|phải|Đoạn phim mô tả việc thi công xây dựng nhà nhiều tầng sử dụng hệ khuôn đúc bê tông bằng nhôm định hình. **Khuôn đúc
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Tổng thống Philippines** (tiếng Filipino: , đôi khi được gọi là _Presidente ng Pilipinas_) là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Philippines. Tổng thống Philippines lãnh đạo chính phủ và thống
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
**Chính trị ở Ấn Độ** hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp Ấn Độ, thiết lập một nền cộng hòa dân chủ nghị viện thế tục. Tổng thống Ấn Độ là nguyên thủ quốc gia
nhỏ|[[Chánh án Hoa Kỳ|Chánh án Toà án Tối cao John Roberts chủ trì tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho Donald Trump vào ngày 20 tháng 1 năm 2025.]] **Tuyên thệ nhậm chức của tổng
**Tổng thống Áo** () là nguyên thủ quốc gia của Áo. Chức vụ tổng thống được Quốc hội lập hiến Áo thành lập vào năm 1920 sau khi Đế quốc Áo-Hung và chế độ quân
**Giuse Đỗ Mạnh Hùng** (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1957) là một Giám Mục Công Giáo người Việt, hiện là giám mục chính tòa Giáo phận Phan Thiết, và là Tổng Thư Ký Hội
**Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** () là người đứng đầu Nhà nước của Trung Hoa Dân Quốc. Chức vụ tổng thống được thành lập vào năm 1948 thay thế chủ tịch Chính phủ Quốc
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:St._Mark's_Church,_Zagreb_01.jpg|nhỏ|Phía trước Nhà thờ Thánh Máccô tại Zagreb là nơi thông thường tổ chức lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống Croatia. **Tổng thống Croatia**, chính thức là **tổng thống Cộng hòa Croatia** (), là
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công