✨Tống Ninh Tông

Tống Ninh Tông

Tống Ninh Tông (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ Cung Hiếu Hoàng đế (法天備道純德茂功仁文哲武聖睿恭孝皇帝), tên thật là Triệu Khoách (趙擴), là Hoàng đế thứ 13 của nhà Tống và cũng là Hoàng đế thứ tư của nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Hoa.

Tống Ninh Tông là con trai của Tống Quang Tông, Hoàng đế thứ 12 của triều Tống. Dưới hai triều vua Hiếu Tông, Quang Tông; Triệu Khoáng được phong một số chức tước danh dự trong triều đình nhưng chưa bao giờ được lập làm Hoàng thái tử. Vào năm 1194, sau khi Thượng hoàng Tống Hiếu Tông mất, Tống Quang Tông lấy cớ ốm yếu bệnh tật nên không để tang, các đại thần Triệu Nhữ Ngu (赵汝愚) và Hàn Thác Trụ (韓侂胄) cùng Hiến Thánh Thái hoàng Thái hậu buộc Quang Tông phải thoái vị và nhường ngôi cho Triệu Khoáng. Triệu Khoáng đăng cơ, tức là Tống Ninh Tông, còn Quang Tông lui về cung Thọ Khang làm Thái thượng hoàng.

Tống Ninh Tông là ông vua rất trọng văn hóa, khuyến khích việc học, dùng những người có thực học để làm quan. Thời kỳ này, việc chính trị tương đối ổn định. Tuy nhiên, thời kỳ của ông lại khó khăn về kinh tế, nạn tham nhũng, lạm phát,...và chi phí vào việc quân đội để chống lại cuộc xâm lược liên miên của nhà Kim. Giống như phụ thân của mình, Ninh Tông là người nhu nhược yếu đuối, rất dễ bị chi phối bởi phụ nữ Trong triều đại của mình ông đã dựng 75 ngồi đền và khắc văn bia - nhiều nhất trong lịch sử triều Tống.. Suốt ba mươi năm ở ngôi của ông, quyền chính chủ yếu nằm trong tay quyền thần: Hàn Thác Trụ và sau đó là Sử Di Viễn. Về đối ngoại, giai đoạn này Tống và Kim xảy ra hai lần giao tranh: lần thứ nhất do triều Tống phát động gọi là Khai Hy bắc phạt kéo dài từ 1206 đến 1208 với chiến thắng nghiêng về phía Kim, và lần thứ hai từ 1217 đến 1223 do Kim khơi mào không phân thắng thua.

Hậu cung của Tống Ninh Tông không sinh được con trai khiến ông phải chọn con cháu trong Tông thất làm Hoàng tự. Sau khi người con nuôi thứ nhất của Ninh Tông là Vinh vương Triệu Tuân qua đời (1220), Ninh Tông quyết định chọn Triệu Hoằng làm người kế vị. Năm 1224, Ninh Tông băng hà ở tuổi 57. Sử Di Viễn giả mạo chiếu chỉ phế truất Hoàng tử Hoằng, đưa Triệu Quân (趙昀) lên nối ngôi, tức là Tống Lý Tông.

Thời Hiếu Tông

Triệu Khoáng là con trai thứ hai của Tống Quang Tông Triệu Đôn, mẹ của ông là Từ Ý Hoàng hậu Lý Phượng Nương. Lúc Quang Tông còn là Cung vương, Lý hậu từng mộng thấy mặt trời rơi xuống chỗ mình và bà đã lấy tay nắm lấy. Ngày Bính Ngọ tháng 10 năm Càn Đạo thứ 4 thời Tống Hiếu Tông (18 tháng 11 năm 1168), Lý hậu hạ sinh Triệu Khoáng ở phủ Cung vương. Tháng 5 ÂL năm sau (1169), ông được Tống Hiếu Tông ban tên là Khoáng. Ngày Ất Sửu tháng 11 ÂL, được phong chức Hữu Thiên Ngưu Vệ đại tướng quân.

Năm 1171, cha Triệu Khoáng tức Cung vương Triệu Đôn được Hiếu Tông lập làm Hoàng thái tử. Ngày Mậu Ngọ tháng 10 ÂL năm Thuần Hi thứ 5 (1178) cũng dưới thời Hiếu Tông được dời làm Minh châu quan sát sứ, tước Anh Quốc công. Tháng 2 ÂL năm thứ 7 (1170) Triệu Khoáng lên 9 tuổi và bắt đầu được đi học. Ngày Kỉ Tị tháng 9 năm thứ 10 (1183) ông được dự triều tham. Năm thứ 11 (1184), Triệu Khoáng đã 17 tuổi, đáng lý sẽ phải ra ở phủ đệ bên ngoài, nhưng Thái thượng hoàng và Hoàng đế vì yêu quý ông nên vẫn để ông ở trong cung, xây cho ông phủ đệ ở bên cạnh Đông cung (nơi ở của Thái tử). Ngày Kỉ Hợi tháng 3 ÂL cùng năm, Triệu Khoáng được phong làm Thiếu bảo, Vũ Ninh quân Tiết độ sứ, tiến tước Gia vương. Mãi về sau, các đại thần La Điểm, Bành Quy Niên, Hoàng Thường khuyên Quang Tông cho Gia vương đến cung Trùng Hoa thăm hỏi, Quang Tông mới chuẩn y. Gia vương đến nơi, Thọ Hoàng tỏ ra xúc động, nước mắt chảy dài.

Đêm Mậu Tuất tháng 6 ÂL năm Thiệu Hi thứ 5 (28 tháng 6 năm 1194), Thọ Hoàng băng hà ở cung Trùng Hoa. Lưu Chính và Triệu Nhữ Ngu liên danh mời Quang Tông đến cung Trùng Hoa chịu tang. Quang Tông thoạt đầu đồng ý, nhưng hôm sau quá trưa vẫn không ra ngoài. Sau đó Gia vương Khoáng cũng dâng sớ cầu xin, Quang Tông không hồi đáp. Lưu Chính phải nhờ Thọ Thánh Hoàng thái hậu Ngô thị (vợ Cao Tông, về sau tôn là Thái hoàng Thái hậu), xin Thái hậu lấy thân phận người mẹ mà làm chủ tang.

Làm Hoàng đế

Hàn Thác Trụ đoạt quyền

Sau khi lên ngôi, Ninh Tông xuống chiếu cầu lời nói thẳng. Giáo thư lang Thái Ấu Học dâng tấu trình bày ba điều quan trọng của việc làm vua là sự thân, nhiệm hiền và khoan dân. Ông dùng Triệu Nhữ Ngu làm Hữu thừa tướng, Trần Quỳ làm Tri Xu mật viện sự, Dư Đoan Lễ làm Tham chính, nhưng Nhữ Ngu cho rằng mình thuộc dòng dõi hoàng thất nên từ chối tướng vị, mấy hôm sau được đổi làm Xu mật sứ. Còn Hàn Thác Trụ là ngoại thích (cháu rể thái hoàng thái hậu) nên chỉ được Triệu Nhữ Ngu tiến cử lên chức Nhữ châu phòng ngự sứ.

Nhân một lần Lưu - Triệu hai tướng bất đồng ý kiến, Thác Trụ gièm pha Lưu Chính với Ninh Tông. Kết quả là Ninh Tông hạ chiếu bãi chức Tả thừa tướng của Lưu Chính và phong Triệu Nhữ Ngu làm Hữu thừa tướng. Nhữ Ngu tuy bất đồng ý kiến với Lưu Chính nhưng thực ra vẫn muốn cộng sự với ông, nay thấy Thác Trụ gièm pha đến nỗi Lưu Chính mất chức thì tỏ ra rất tức giận, sau nhờ có La Điểm can ngăn nên sự việc mới tạm dịu đi, nhưng Thác Trụ vẫn rất hận Ngữ Nhu không tiến cử mình.

Ít lâu sau La Điểm và Hoàng Thường qua đời. Ninh Tông theo tiến cử của Hàn Thác Trụ, dùng Kinh Thang làm Thiêm thư xu mật viện sự. Mấy hôm sau, Tạ Thâm Phủ lại dâng sớ nói Nhữ Ngu mạo nhận tướng vị khiến Nhữ Ngu bị đày ra Ninh Viễn quân rồi Vĩnh châu. Các đại thần Trịnh Thực, Chương Dĩnh và Lã Tổ Kiệm không vừa lòng cũng bị bãi chức. Tháng 4 ÂL, Ninh Tông đổi dùng Dư Đoan Lễ làm Hữu thừa tướng, Trịnh Kiều làm Tham tri chính sự, Kinh Thang làm tri Xu mật viện sự. Mấy hôm sau, sáu thái học sinh cùng nhau quỳ ở cửa khuyết xin giữ lại Triệu thừa tướng và trừng phạt Lý Mộc, họ liền bị đày đi 500 dặm. Triệu Nhữ Ngu về sau bị người của Thác Trụ làm nhục rồi uất ức mà chết năm 1197.

Hàn Thác Trụ chuyên chính

Dư Đoan Lễ được phong chức Tả thừa tướng (1196) nhưng lại cảm thấy uất ức vì không cứu được Triệu Nhữ Ngu và cũng do Hàn Thác Trụ chèn ép nên nhanh chóng xin bãi chức. Kinh Thang được phong làm Hữu thừa tướng, Hàn Thác Trụ được phong Bảo Ninh tiết độ sứ, Đề cử Vạn Thọ quan, Tạ Thâm Phủ làm Tham chính.

Năm 1200, Ninh Tông phong cho Kinh Thang, Tạ Thâm Phủ làm Tả, Hữu thừa tướng. Đến tháng 9 ÂL, Trần Tự Cường được thăng chức Xu mật viện sự, Hứa Cập làm Tham tri chính sự. Lúc này Ninh Tông bàn đến chuyện lập kế hậu. Từ sau khi Cung Thục hoàng hậu qua đời, trong cung có hai phi tần được sủng ái là Dương quý phi và Tào mĩ nhân. Dương quý phi thông thuộc kinh sử, tính cách cần mẫn nhạy bén, còn Tào mĩ nhân dịu dàng nhu thuận. Ý Ninh Tông muốn lập Dương quý phi, nhưng Hàn Thác Trụ lại muốn lập Tào thị. Ninh Tông không nghe, vẫn lập Dương quý phi làm hoàng hậu. Do việc này mà Dương hậu sinh oán hận với Thác Trụ, đoạt quan tước của Tần Cối, cải thụy là Mậu Sửu (nghĩa là "xằng bậy"). Thác Trụ dùng Trương Hiếu Bá, Trương Nham làm Tham chính, Tiền Tượng Tổ đồng tri Xu mật viện sự. Vào tháng 12 ÂL năm 1204, Trần Tự Cường xin theo khuôn khổ thời Tống Hiếu Tông, lập ti Quốc dụng để kiểm soát tài chính. Ninh Tông nghe theo, dùng Trần Tự Cường, Phí Sĩ Dần, Trương Nham đứng đầu ti này. Có thượng thư Lý Đại Tín dâng thư can gián nên bị Hàn Thác Trụ điều ra phủ Bình Giang. Ba kẻ kia nắm được ti Quốc dụng và ra sức vơ vét tiền của nhân dân khiến châu quận tao động. Thác Trụ tiếp tục cho đào sông, mở đường, chế tạo vũ khí, rèn luyện quân đội... chuẩn bị tiến lên miền bắc.

Tháng 4 năm 1205, Ninh Tông phong Tiền Tượng Tổ làm Tham tri chính sự, Lưu Đức Tú Thiêm thư Xu mật viện sự. Lấy Hoàng Phủ Bân, Quách Nghê, Tô Sư Đán lĩnh quân đánh Kim. Có Võ học sinh Hoa Nhạc dâng thư xin chém đầu hai tên gây hấn Hàn Thác Trụ, Tô Sư Đán, liền bị đày. Trong khi đó hậu cung của Ninh Tông có sinh hoàng tử nhưng đều không nuôi được nên Ninh Tông chọn một số trẻ trong tông thất vào cung nuôi dưỡng, dự phòng sau này có người kế vị. Giữa năm 1205, một trong các trẻ đó là Vệ quốc công Triệu Nghiêm được lập làm hoàng tử, tấn phong Vinh vương. Trong lúc đó quân Kim lại chuẩn bị đánh tiếp, đã phá Giai châu, đánh Tương Dương. Lúc này ở đất Thục, Ngô Hi làm phản, tự xưng Thục vương, dâng đất tứ châu Giai, Thành, Hòa, Phượng cho Kim, lấy Tiền Sơn làm giới hạn, lại ngầm hẹn với người Kim cùng giáp công vào Tương Dương sau đó vào triều tâu với Ninh Tông. Ninh Tông vẫn không tin, đến khi xác nhận sự việc là đúng, Ninh Tông mới dám hạ chiếu bố cáo tội ác của Thác Trụ, lại bãi chức Hữu thừa tướng của Trần Tự Cường đày ra Vĩnh châu, dời Tô Sư Đán đến Thiều châu rồi giết chết, Đặng Hữu Long bị biếm ra Viễn châu, Quách Nghê, Quách Soạn bị lưu đày, đày gia thuộc của Thác Trụ ra biên cương. Ninh Tông phong Vinh vương Nghiêm là hoàng thái tử, đổi tên là Tuân. Ít lâu sau, lấy Tiền Tượng Tổ làm Tả thừa tướng, kiêm Xu mật sứ, Vệ Kính và Lôi Hiếu Hữu làm Tham chính, Sử Di Viễn làm Xu mật sứ, đồng thời phục hồi quan tước cho Tần Cối. Từ năm 1209, Thiết Mộc Chân (tức Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ) bắt đầu đem quân xâm lược nước Kim, nước Kim đã suy yếu nên thua hết trận này đến trận khác. Ít lâu sau vua Kim phải cắt đất nghị hòa với Mông Cổ, nhưng sau đó lại quyết định dời đô về Biện (1214). Thiết Mộc Chân nghe Kim chủ dời đô lại đánh xuống phía nam đến Biện Kinh. Tháng năm ÂL năm 1215, Yên Kinh thất thủ, nước Kim ngày càng suy yếu.

Kim Tuyên Tông sau khi dời đô đã sai sứ đến Tống đốc thúc phần tiền thuế còn thiếu. Ninh Tông nghe lời của Chân Đức Tú bỏ không nộp thuế cho Kim nữa. Cũng trong năm 1214, Tây Hạ sai sứ đến Tống bàn việc liên minh tấn công Trung Nguyên, Ninh Tông không nghe. Tháng 3 ÂL năm 1214, Ninh Tông sai Đổng Cư Nghị làm Tứ Xuyên chế trí sứ, triệu An Bính về kinh nhận chức đồng tri xu mật viện, sự. Đầu năm 1215, tri Xu mật viện sự Lôi Hiếu Hữu bị bãi chức. Tháng 9 ÂL năm 1215, Chân Đức Tú lúc này được bổ nhiệm làm Giang Đông chuyển vận sứ dâng sớ nêu năm điều mà triều đình cần thực hiện để chấn hưng đất nước, Ninh Tông khen ngợi là thẳng thắn nhưng vẫn không có hành động gì, Cách Nha quan, Phụ Giao bảo. An Bính ở Thiểm trước đã liên kết với người Hạ cùng chống Kim nhưng khi Kim tấn công thì quân Hạ không tới, nên gặp đại bại, tổn thất 5 vạn người. Sau đó lại đánh Tưu Trì bảo, tiến công Tùy châu và Tảo Dương. Mạnh Tông Chính kiên quyết cố thủ Tảo Dương, chống chọi với quân Kim suốt ba tháng, đánh nhau hơn 70 trận, giữ vững thành Tảo Dương. Về sau Hứa Quốc ở Tùy châu đem quân ứng cứu, giải vây Tảo Dương. Vương Dật đoạt lại Đại Tản quan, đuổi quân Kim tới tận Tần châu.

Mấy ngày sau, quân Kim lại từ Trường An, Phượng Tường tấn công vào Thiểm Tây, chiếm lại Đại Tản Quan, tiến tới Bạc Hà trì. Hưng Nguyên Đô thống chế Ngô Chính dẫn quân chiếm lại được Đại Tản quan. Tháng 9 ÂL, Lý Toàn còn phá được một số châu quận thuộc lãnh thổ nước Kim. Lúc này ở phía bắc Mông Cổ lại tiến đánh nên Kim chủ có ý nghị hòa với Tống, sau [Lã Tử Vũ đi sứ nhưng sau đó đổi ý, sai thái tử Hoàn Nhan Thủ Tự dẫn quân cùng Bộc Tán An Trinh làm Phó soái đánh xuống miền nam. Đầu năm 1219, quân Tống bị bại trận ở Thiểm, Thục. Người Kim còn chiếm được Đại An tiến thẳng vào chiếm được Dương châu, Đổng Cư Nghị bỏ trốn. Đô thống chế Trương Uy sai tướng Thạch Tuyên đem quân ra chống, giành thắng lợi, giết hơn 3000 quân Kim, bắt sống tướng Kim Ba Đồ Lỗ An.

Lúc đó, Hoài Đông đề hình Giả Thiệp cử binh giải cứu những vùng bị vây, truy đuổi sang lãnh thổ nước Kim, từ đó người Kim không còn dám dòm ngó Hoài Đông. Ở đất Thục lúc này người lính ở Hưng Nguyên là Trương Phúc nổi dậy chống triều đình, cho quân của mình đội khăn đỏ. Triều Tống sau đó ra quân đánh Kim. Lý Toàn chiêu hàng tướng Kim Ích Đô còn Trương Lâm khôi phục lại được nhiều châu quận.

Năm 1221, Triệu Phương và An Bính lần lượt qua đời. Ninh Tông lại phải chọn người khác trong Tông thất làm Hoàng tự, đã sai lấy cháu 10 đời của Thái Tổ, tuổi khoảng 15 đưa vào cung như thời Cao Tông chọn Hiếu Tông. Nguyên Tống Hiếu Tông có người con là Ngụy vương Khải, Khải sinh Nghi Tĩnh Huệ vương Triệu Bính. Bính không có con nên lấy cháu 10 đời của Tống Thái Tổ là Quý Hòa làm Đích tự. Ngày Bính Dần tháng 6 năm 1221, Ninh Tông quyết định chọn Quý Hòa làm Hoàng tử để sau này kế vị, tiến phong Kì Quốc công. Sử Di Viễn sai hai người cháu của Dương hậu vào cung báo việc phế lập. Dương hậu ban đầu không chịu, nhưng sau đó do bị uy hiếp phải nhận lời. Sau khi buổi lễ tang hoàn thành, Di Viễn cho đọc di chiếu giả, lập Hoàng tử Quân làm vua, tức là Tống Lý Tông. Hoàng tử Hoằng được phong làm Tế vương, nhưng không lâu sau thì bị Sử Di Viễn hại chết.

Niên hiệu

Trong thời gian cai trị 30 năm của mình, ông sử dụng bốn niên hiệu như sau:

  • Khánh Nguyên (庆元, 1195 - 1200)
  • Gia Thái (嘉泰, 1201 - 1204)
  • Khai Hy (开禧, 1205 - 1207)
  • Gia Định (嘉定, 1208 - 1224)

Miếu hiệu Ninh Tông của ông có ý nghĩa là vị tổ tiên sống trong thanh bình.

Gia quyến

Hậu phi

  • Cung Thục Hoàng hậu Hàn thị (恭淑皇后韓氏; 1165 - 1200), người Tương Châu, là hậu duệ 6 đời của Bắc Tống danh thần Hàn Kì Đích (韓琦的), là cháu gái của đại thần đương triều Hàn Thác Trụ thumb|Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu Dương thị
  • Cung Thánh Nhân Liệt Hoàng hậu Dương thị (恭聖皇后楊氏; 1162 - 1232), vào cung phong làm Bình Nhạc Quận Phu nhân (平樂郡夫人), Tiệp dư (婕妤), Uyển nghi (婉儀) rồi thành Quý phi (貴妃). Sau khi Hàn Hoàng hậu qua đời, trong cung bà cùng Tào Mỹ nhân đang đắc sủng, Hàn Thác Trụ cho là bà xảo quyệt, thủ đoạn khi làm Hoàng hậu sẽ nắm quyền nên tiến phong Tào thị làm Hậu. Nhưng Ninh Tông không nghe theo, lập Dương Quý phi làm Hoàng hậu
  • Tạ Chiêu nghi (謝昭儀), sử sách cho là có hai người con gái với Ninh Tông
  • Tào Tiệp dư (曹婕妤), sơ phong Mỹ nhân (美人) rồi thăng Tiệp dư (婕妤) năm 1203. Tào thị tính tình hiền lành, lễ độ nên được Ninh Tông quý, cùng với Dương hậu đắc sủng
  • Diêm Mỹ nhân (阎美人), sơ phong Cao Biền Quận Phu nhân (高平郡夫人) rồi thăng Mỹ nhân (美人)
  • Chung Mỹ nhân (钟夫人)

Hậu duệ

Con trai

Tất cả đều chết yểu khi chưa tròn 1 tuổi

Trưởng tử, chết yểu khi chưa đặt tên, không rõ mẹ

Triệu Tuấn (趙埈; 25 tháng 7, 1196 - 9 tháng 9, 1196), Duyện Xung Huệ vương (兖冲惠王), mẹ là Cung Thục hoàng hậu

Triệu Thản (趙坦; 29 tháng 1, 1200 - 28 tháng 9, 1200), Xung Ôn Bân vương (冲温邠王), mẹ là Cung Thục hoàng hậu

Triệu Tăng (趙增; 18 tháng 12, 1200 - 7 tháng 1, 1201), Xung Anh Dĩnh vương (冲英郢王), mẹ là Cung Thánh hoàng hậu

Triệu Quynh (趙埛; 1202), Xung Mục Hoá vương (冲穆华王), mẹ là Cung Thánh hoàng hậu

Triệu Kỳ (趙圻; 9 tháng 2, 1207 - 17 tháng 3, 1207), Xung Hoài Bân vương (冲怀顺王)

Triệu Thứ (趙墌; 22 tháng 3, 1207 - 1 tháng 5, 1207), Xung Ý Thân vương (冲懿申王)

Triệu Tự (趙垍; 1208), Xung Tịnh Túc vương (冲靖肃王)

Triệu Trì (趙坻; 9 tháng 2, 1223 - 28 tháng 3, 1223), Xung Mỹ Phi vương (冲美邳王)

Con gái

  • Kỳ Quốc Công chúa (祁国公主), sinh được 6 tháng thì chết
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Chiến tranh Kim–Tống (1217–1223)** hay **Kim quân tam đạo công Tống chi chiến** (金军三道攻宋之战) là một loạt những cuộc giao tranh giữa quân đội hai nước Kim và Nam Tống kéo dài trong suốt sáu
**Trần Vĩ** (chữ Hán: 陈韡, 1179 – 1261), tên tự là **Tử Hoa**, người Hầu Quan, Phúc Châu , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất thân tiến sĩ, từng
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. Tây Ninh nằm ở biên giới miền Tây Nam của Việt Nam, có chung đường biên giới quốc tế trên bộ
**Bắc Ninh** là một tỉnh ở Việt Nam, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là
**Tây Ninh** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và
**Tổng cục An ninh** là một cơ quan cũ trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có nhiệm vụ điều hành công tác An ninh, hiện nay không còn hoạt động. ## Lược sử *
[[Chùa Nhất Trụ ở Cố đô Hoa Lư]] Điện Tam Thế ở [[Chùa Bái Đính]] [[Đền Trần (Nam Định)|Đền Trần ở Nam Định]] [[Chùa Địch Lộng ở Gia Viễn]] [[Đền Trần Thương ở Hà Nam]]
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ** (Tiếng Trung Quốc: **宁夏回族自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Níng Xià Huízú Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Ninh Hạ Hồi tộc tự trị
**Ninh** là một họ của người Đông Á. Họ này có mặt ở Việt Nam (chữ Hán: 寧, Hán-Việt: _Ninh_) và Trung Quốc (chữ Hán: 甯 hoặc 寧, bính âm: _Ning_). Trong _Bách gia tính_
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
**Lý Thái Tông** (chữ Hán: 李太宗 29 tháng 7 năm 1000 – 3 tháng 11 năm 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, cai trị
**Tây Ninh** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Tây Ninh nằm ở trung tâm tỉnh Tây Ninh, có vị trí địa lý: *Phía đông
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tổng thống Philippines** (tiếng Filipino: , đôi khi được gọi là _Presidente ng Pilipinas_) là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Philippines. Tổng thống Philippines lãnh đạo chính phủ và thống
**Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208)** hay **Khai Hi bắc phạt** là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công
**Trường Trung học phổ thông Chuyên Bắc Ninh** (Bac Ninh Specialized High School) là một trường trung học phổ thông công lập của tỉnh Bắc Ninh, thành lập năm 1995, tuyển chọn và đào tạo
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
**Ninh Ba** (, Hán-Việt: _Ninh Ba thị_) là một địa cấp thị của tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ninh Ba nằm ở phía Nam vịnh Hàng Châu, nhìn ra biển Hoa Đông về phía Đông,
nhỏ|phải|Hệ khuôn đúc tường (vách) bê tông cốt thép. nhỏ|400 px|phải|Đoạn phim mô tả việc thi công xây dựng nhà nhiều tầng sử dụng hệ khuôn đúc bê tông bằng nhôm định hình. **Khuôn đúc
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:St._Mark's_Church,_Zagreb_01.jpg|nhỏ|Phía trước Nhà thờ Thánh Máccô tại Zagreb là nơi thông thường tổ chức lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống Croatia. **Tổng thống Croatia**, chính thức là **tổng thống Cộng hòa Croatia** (), là
**Tổng giáo phận Nam Ninh** (; ) là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, có tòa giám mục tại Nam Ninh, Quảng Tây. ## Lịch sử * 6/8/1875:
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張俊, 1086 - 1154), tên tự là **Bá Anh** (伯英), nguyên quán ở Thành Kỉ, phủ Phượng Tường, là tướng lĩnh dưới thời Bắc Tống và Nam Tống trong lịch sử
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
Trong Tam giáo thì Nho giáo (儒教) và Đạo giáo (道教) là hai hệ thống tín ngưỡng/tôn giáo bản địa của Trung Quốc; còn Phật giáo là một tôn giáo du nhập từ Ấn Độ.
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Quang Tông** (chữ Hán: 宋光宗, 30 tháng 9, 1147 - 17 tháng 9, 1200), thụy hiệu **Tuần Đạo Hiến Nhân Minh Công Mậu Đức Ôn Văn Thuận Vũ Thánh Triết Từ Hiếu hoàng đế**
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc** () là người đứng đầu Nhà nước của Trung Hoa Dân Quốc. Chức vụ tổng thống được thành lập vào năm 1948 thay thế chủ tịch Chính phủ Quốc
**Hiển Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯仁皇后, 1080 - 1159), còn gọi là **Vi Hiền phi** (韋賢妃), là một phi tần của Tống Huy Tông Triệu Cát và là sinh mẫu của Tống Cao Tông
**Tổng thống Cộng hòa Uzbekistan** (, phiên âm _O'zbekiston Respublikasining Prezidenti_) là nguyên thủ quốc gia và là người nắm quyền hành pháp ở Cộng hòa Uzbekistan. Chức vụ Tổng thống được tạo lập năm
**Đại Huệ Tông Cảo** (zh: 大慧宗杲 _Ta-hui Tsung-kao,_ ja: _Daie Sōkō_, 1088–1163) là Thiền Sư Trung Quốc đời Tống, thuộc phái Dương Kì, tông Lâm Tế. Sư là pháp tử nổi danh nhất của Thiền
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ**, chính thức là **tổng thống Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** (), là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Thổ Nhĩ Kỳ, tổng tư lệnh Lực lượng
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Lý Nhân Tông** (chữ Hán: 李仁宗 22 tháng 2 năm 1066 – 15 tháng 1 năm 1128) là vị hoàng đế thứ tư của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì Đại
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi