✨Tống Nhân Tông

Tống Nhân Tông

Tống Nhân Tông (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy Triệu Trinh (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1022 đến năm 1063, tổng hơn 41 năm. Ông là người con trai độc nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của Tống Chân Tông, hoàng đế thứ ba của nhà Tống. Năm 1023, sau khi phụ hoàng qua đời, Triệu Trinh lên kế vị ngôi vua, tức là Tống Nhân Tông.

Trong hơn 10 năm đầu thời Nhân Tông, thực quyền trong triều nằm trong tay mẹ nuôi của ông là Chương Hiến Thái hậu Lưu Nga, Nhân Tông tuy đã trưởng thành nhưng vẫn không được thân chính, khiến quan hệ mẹ - con trở nên căng thẳng. Cho nên sau khi Lưu Thái hậu qua đời (1033), Nhân Tông đã thay đổi nhiều chính sách của bà ta. Nhưng do nhiều nguyên nhân nên về sau ông lại bắt đầu trọng dụng lại các đại thần mà ông đã cách chức. Trong vấn đề đối nội, ông chủ trương học theo Đường Thái Tông, mở rộng con đường thi cử làm quan, vì thế dẫn đến số lượng quan lại trong nước tăng lên nhanh chóng và trở thành gánh nặng của quốc gia. Trong khi đó tham nhũng gia tăng, binh lực suy kém khiến cho tình hình triều Tống trở nên sa sút. Để cứu vãn, vào năm 1043, Nhân Tông theo kiến nghị của Phạm Trọng Yêm, thi hành Khánh Lịch tân chính, Nhưng những chính sách mới này vấp phải sự phản đối của phe bảo thủ trong triều, cộng thêm binh biến, thiên tai liên tục, khiến Nhân Tông đổ lỗi cho "tân chính", ông quyết định bãi bỏ tân chính, dùng lại chính sách cũ.

Về đối ngoại, ở phía tây bắc nước Tống, bộ lạc Đảng Hạng ngày càng lớn mạnh; đến năm 1038, thủ lĩnh tộc này là Lý Nguyên Hạo tự xưng là hoàng đế Tây Hạ và phát động chiến tranh với Tống; tuy Tống giành được chiến thắng nhưng lại chấp nhận nộp tiền hằng năm để đổi lấy hòa bình. Ở phía đông bắc vào năm 1042, triều Liêu dự định xuất binh nam hạ, buộc Tống phải cầu hòa và tăng tiền nộp hàng năm cho Liêu lên 20 vạn, sử gọi là Trọng Hi tăng tệ. Sau khi tình hình ở phía bắc tạm thời được ổn định, thì ở phía nam triều Tống lại phải chống đỡ với sự quấy nhiễu của Đại Việt và cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao ở Ung châu. Những cuộc chiến tranh liên miên và những khoản tiền phải ban phát như thế khiến nhà Tống càng phải hao người tốn của.

Dù thành tích cai trị ở mức trung bình, nhưng Tống Nhân Tông nổi tiếng trong lịch sử là một vị hoàng đế tiết kiệm và có đạo đức tốt, trong thời kì của ông xuất hiện hàng loạt các đại thần có thực lực và trung thành hết lòng phò tá nhà vua, vì thế nền chính trị vẫn tương đối ổn định. Mặc dù không ngớt nạp thêm mĩ nhân vào cung, nhưng Nhân Tông lại không có được một người con trai nào còn sống sót để truyền ngôi vị. Sau khi ông qua đời, người cháu gọi ông bằng chú là Triệu Thực được tôn làm vua, tức là Tống Anh Tông.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Tống Nhân Tông có tên lúc khai sinh là Triệu Thụ Ích (趙受益). Ông chào đời vào ngày 12 tháng 5 năm 1010, là con trai thứ sáu của Tống Chân Tông Triệu Hằng, mẫu thân là thần phi họ Lý. Khi ấy Tống Chân Tông bị muộn con, các phi tần trong cung tuy có hạ sinh Hoàng tử nhưng đều chết yểu cả. Trong cung Lưu Đức phi là người đắc sủng nhất nhưng vì xuất thân thấp kém, Chân Tông có ý lập bà ta làm hoàng hậu song không tìm ra được lý do gì. Lý thị khi đó là cung nữ theo hầu Đức phi, nằm mộng thấy có điềm báo rằng mình sẽ sinh con trai. Lưu Đức phi bèn dùng kế, sai Lý thị vào hầu Chân Tông, đến khi bà có mang và sinh con liền cướp đứa bé làm con mình. Do có công sinh được hoàng tử, vào năm 1013, Lưu thị được sắc phong làm Hoàng hậu.

Hoàng tử Thụ Ích tính tình nhân hiếu, khoan hòa, vui buồn không có biểu lộ ra sắc mặt. Ngày 26 tháng 8, thái tử vào yết thái miếu. Năm 1020, Chân Tông lâm bệnh, có chiếu năm khai mở Tư Thiện đường một lần, thái tử ra gặp phụ thần, tham gia quyết đoán các việc trong các ti. Ngày 23 tháng 3 năm 1022, Chân Tông băng hà, thái tử lên tức vị hoàng đế, tôn Lưu hoàng hậu làm Hoàng thái hậu. Do Nhân Tông còn nhỏ tuổi mà Lưu thái hậu bận cai quản việc triều chính, nên Dương thục phi được giao nhiệm vụ nuôi dưỡng Nhân Tông, tấn tôn làm Hoàng thái phi.

Nhân Tông phái sứ giả đến nhà Liêu báo tang. Sau khi nhận được tin này, Liêu Thánh Tông yêu cầu tất cả đại thần tộc Khiết Đan và tất cả đại thần tộc Hán trong triều đình nhà Liêu để tang cho Tống Chân Tông, từ cấp hậu phi trở xuống để mặc áo tang khóc thương cho Tống Chân Tông. Ngoài ra, Liêu Thánh Tông còn truyền lệnh cho quan quân nhà Liêu ở các châu quanh vùng biên giới Liêu - Tống không được vui chơi ca hát trong những ngày này. Sau khi Tống Chân Tông mất đi, Liêu Thánh Tông cũng bị bệnh tật triền miên.

Tháng 8 năm 1022, gia phong Phùng Chửng làm Chiêu Văn điện học sĩ, Vương Tằng làm Trung thư thị lang, Đồng bình Chương sự; Lã Di Giản, Lỗ Tông Đạo Tham tri chính sự; Tiền Duy Diễn làm Xu mật sứ. Nhân Tông biết rằng chuyện thiên thư dưới thời Chân Tông chỉ là bịa đặt, nên đem thiên thư chôn luôn vào mộ Chân Tông. Ngày 29 tháng 9 năm 1024, Nhân Tông đến thăm trường Quốc Tử giám, bái lễ Khổng Tử, sau đó đến miếu của Vũ Thành vương. Ngày 16 tháng 2, Nhân Tông hạ chiếu đại xá, các quan trong triều dâng tôn hiệu cho ông là Thánh Văn Duệ Vũ Nhân Minh Hiếu Đức hoàng đế, Hoàng thái hậu được tôn hiệu là Ứng Thiên Sùng Đức Nhân Thọ hoàng thái hậu.

Mùa đông năm 1025, Vương Khâm Nhược qua đời. Triều đình dùng Vương Tằng, Trương Tri Bạch lên thay, đồng thời Trương Mân, Yến Thù được phong làm Xu mật chánh, phó sứ. Cựu tể tướng Đinh Vị và Lôi Doãn Cung năm trước trong lúc xây lăng, để bất cẩn mà suýt đưa đạo huyệt vào nơi tuyệt lộ, nên thái hậu dùng cớ đó ép Doãn Cung tự sát, giáng chức Đinh Vị. Đinh Vị trước kia tìm cách sai nữ đạo cô Lưu Đức Diệu giả thần giả quỷ để mê hoặc Thái hậu. Khi Đinh Vị bị tội, Thái hậu liền bắt Đức Diệu xuống thẩm vấn. Lại cho lục soát nhà Đức Diệu, thấy có thư của Đinh Vị, trên giấy đề bốn chữ Hồn Nguyên hoàng đế. Thái hậu bắt giam Đức Diệu, giáng Đinh Vị làm Nhai châu tư hộ tham quân.

Ngày 9 tháng 2 năm 1027, nhà vua dẫn các quan đến chúc thọ tại điện Hội Khánh. Lúc này thái hậu không vừa lòng với Yến Thù, bèn nhân lúc ông ta đánh gãy răng người hầu, mà cách chức đi, dùng Hạ Tủng lên thay. Ngày 4 tháng 4 năm 1028, dùng Trương Sĩ Tốn làm Đồng bình chương sự; sau đó lấy Khương Tuân, Phạm Ung là Xu mật chánh phó sứ. Đầu 1029, Lỗ Tông Đạo mất, còn Tào Lợi Dụng bị thái hậu làm tội, phải bị đày ra Phòng châu; liên lụy đến cả Trương Sĩ Tốn cũng bị bãi chức. Lợi Dụng về sau thắt cổ tự tử.

Mùa thu năm 1032, theo thỉnh cầu của gián quan Trần Chấp Trung, triều đình bãi chức Tham chính Vương Thự vì lý do bệnh tật; lấy Môn hạ tỉnh làm Gián viện, dời tỉnh cũ sang phía tây cửa Hữu Dịch. Dùng Yến Thù làm Xu mật phó sứ, Tham tri chính sự. Thái hậu là người có tài, coi việc nước 11 năm, bên ngoài việc nước nói chung vẫn được ổn định; tuy nhiên ở bên trong ra sức đàn áp Nhân Tông, mãi không chịu giao lại quyền hành, đày đọa Lý thần phi, thậm chí lúc trước khi Chân Tông bệnh nặng còn mưu tính mượn việc Khấu Chuẩn để hại Nhân Tông, điều này khiến cho tình cảm mẹ con dần bị rạn nứt. Khi làm lễ an táng, Nhân Tông sai bỏ đế phục thái hậu đang mặc, táng theo lễ hoàng hậu.

Việc chính trị

Những năm đầu chấp chính, 1033 - 1041

Sau khi Lưu Thái hậu qua đời, Nhân Tông mới có thể đích thân chấp chính. Vì bất hòa từ lâu với bà ta, Nhân Tông liền cho thay đổi một loạt nhân sự trong triều. Trước kia có Lâm Hiến Khả cầu xin thái hậu trao lại quyền cho Nhân Tông mà bị đày đến Lĩnh Nam, đến nay Nhân Tông cho người này được phục chức. Đồng thời các đại thần bị thái hậu đuổi đi là Tống Thụ, Phạm Trọng Yêm cũng được triệu về. Bọn hoạn quan Giang Đức Minh, Tuế Sùng Huân, Nhậm Thủ Trung ỷ thế làm bậy; nên cũng bị đuổi ra ngoài, nhưng chưa làm thành tội. Đến việc dưới thời thái hậu, nhiều người dâng con gái vào cung, nên Nhân Tông bèn liên tục hạ lệnh phóng thích cung nhân. Ngày 25 tháng 5 năm 1033, Đồng bình chương sự Lã Di Giản, Xu mật sứ Trương Kì, Xu mật phó sứ Hạ Tủng, Phạm Ung, Triệu Chẩn; Tham chánh Trần Nghiêu Tá, Yến Thù... đều bị bãi chức, Vương Thự, Vương Đức Dụng, Thái Tề làm Xu mật chánh phó sứ, Tống Thụ làm Tham tri chinh sự. Như vậy chỉ trong vòng có chưa tới nửa năm, Nhân Tông lại bổ dụng trở lại các đại thần bị ông cách chức trước kia. Mĩ nhân Trương thị mà trước đây Nhân Tông có ý lập hậu, nay đã mất thì được truy tặng là hoàng hậu.

Sau khi tự mình chấp chính, Nhân Tông làm theo cách của Đường Thái Tông mở rộng con đường thi cử làm quan, mỗi khóa thi tuyển sinh tới mấy nghìn người, lại đặt ra những ưu đãi cho người đi thi. Người thi đỗ ngày càng nhiều, mà đại thần và người bên họ ngoại lại liên tục được đề bạt khiến cho hiện tượng quan lại vô dụng thùa mứa trong triều đình càng ngày càng nghiêm trọng. Thế nhưng Nhân Tông vẫn cho rằng đường làm quan vẫn chưa đủ rộng, vì nhiều người tuy tuổi đã cao mà vẫn chưa đỗ đạt. Mùa xuân năm 1034, nhà vua hạ lệnh trong mỗi khoa thi cứ 10 người lấy đỗ hai người. Mỗi khi đã vào tới thi Đình thì dù làm bài có sai sót thì cũng không đánh hỏng đó là luật bất thành văn. Ngày 22 tháng 8, Nhân Tông nhận tôn hiệu từ quần thần là Cảnh Hựu Thể Thiên Pháp Đạo Khâm Văn Thông Vũ Thánh Nhân Hiếu Đức. Mùa thu năm 1037, kinh sư gặp địa chấn, Diệp Thanh Thần dâng sớ nói rằng có lẽ do chuyện bọn Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu và Dư Tĩnh nói thẳng bị mất chức nên trời oán giận, vì thế Nhân Tông lại dời ba người này về làm việc ở các châu gần, trong đó Phạm Trọng Yêm được điều tới Nhuận châu. Tháng 10 năm đó, Cung phụng quan Tiền Tốn tấu rằng ở Tín châu có mỏ đá thạch, có thể luyện ra được thành đồng, mà ở các châu Trì, Nhiêu, Giang đang thiếu đồng đúc tiền, vì thế triều đình cho vận chuyển đá đến các nơi đó để đúc thử nghiệm, Nhân Tông dùng Trương Quan lên thay vị trí của ông ta.

Lúc bấy giờ Nhân Tông lưu ý đến việc nông nghiệp, thấy trong nước mùa vụ không ổn định do bão lũ hạn hán, nên lo lắng, bèn hạ chiếu các châu cứ định kì phải dâng tấu trình bày tình hình thời tiết, nông vụ ở địa phương mình lên triều đình. Các đại thần như Dư Tĩnh, Âu Dương Tu không bằng lòng với việc này, cũng bị giáng chức. Đến ngày 9 tháng 5 năm 1037, bọn tể thần Lã Di Giản, Vương Tăng, Tham chính Tống Thụ bất hòa và bài xích lẫn nhau, Nhân Tông đồng loạt cách chức của họ. Lấy Vương Tùy, Trần Nghiêu Tá làm Bình chương sự, Trịnh Độ làm Tri Xu mật, Hàn Ức, Trình Lâm, Thạch Trung Lập Tham tri chính sự... Đó là do tiến cử của Lã Di Giản. Ngày 24 tháng 12 năm 1038, cựu tướng Vương Tăng qua đời.. Ngày 19 tháng 2 năm 1039, Đồng bình chương sự Vương Tùy mất, được truy tặng hàm Trung thư lệnh.

Tháng 3 năm 1040, tể tướng Trương Sĩ Tốn dâng sớ nói rằng binh sĩ ở biên cương lâu ngày, gia đình ở kinh sư không có ai chăm lo, nên Nhân Tông cho xuất tiền 10 vạn từ trong kho ra ban thưởng cho gia đình các tướng sĩ. Sau đó, Tri gián viện là Phú Bật dâng sớ xin khôi phục lại chế độ thời khai quốc, tể tướng nắm quyền Xu mật sứ, Nhân Tông đồng ý. Các tể tướng Trương Sĩ Tốn, Chương Đắc Tượng tâu với Nhân Tông rằng nếu nắm Xu mật viện sợ sẽ mang tiếng chuyên quyền, Phú Bật nói rằng đó là vì các tể tướng sợ việc mà trốn tránh. Khi ở phía tây quân Hạ nhiều lần quấy nhiễu biên quan, Nhân Tông hỏi ý kiến các quan Xu mật viện là Vương Tông, Trần Chấp Trung, Trương Quan, nhưng họ nhiều lần ấp úng chẳng tìm ra được đối sách gì, khiến vua dần chán nản. Tể tướng Trương Sĩ Tốn bèn nhân đó cũng nói xấu ba người này. Đến tháng 5, họ đều bị bãi chức. Tháng 9, Tham tri chính sự Lý Nhược Cốc cũng trí sĩ về nhà. Nhân Tông lấy Yến Thù làm Xu mật sứ, Vương Di Vĩnh, Đỗ Diễn, Trịnh Tiển làm phó sứ. Khi đó Phạm Trọng Yêm ở ngoài biên cương phía tây có thư từ qua lại với Lý Nguyên Hạo mà chưa báo hết với triều đình; vì thế bọn Đỗ Diễn và Lã Di Giản đều tố cáo Phạm Trọng Yêm kết giao với người Khương, mang tội đáng chết. Nhân Tông nghe theo lời khuyên can của Tôn Miện, không trách phạt đối với Trọng Yêm. Ít lâu sau đó, Lã Di Giản dùng kế loại bỏ Tham tri chính sự là Tống Tường, lấy Hàn lâm học sĩ Vương Cử Chánh lên thay vào vị trí đó.

Tháng 7 năm 1042, Nhân Tông theo kiến nghị của Phú Bật ngày trước là cho tể tướng kiêm cai quản Khu mật, bèn dùng Hữu bộc xạ, Bình chương sự Lã Di Giản làm Thị lang bộ Hộ, phán Xu mật sự, Bình chương sự Chương Đắc Tượng kiêm Xu mật sứ, sau cho Lã Di Giản lên làm kiêm Xu mật sứ.

Thời kì tân chính, 1042 - 1044

Văn Chính công [[Phạm Trọng Yêm, người đề xuất tân chính Khánh Lịch.]] Ngày 27 tháng 11 năm 1042, sau hòa nghị với người Khiết Đan, Nhân Tông tưởng thưởng công lao, cất nhắc Phú Bật lên chức Học sĩ viện Hàn lâm, Phú Bật đáp rằng việc phải tăng tiền cống nạp cho Bắc triều thì không thể gọi là công được, nên từ chối không nhận chức. Đầu năm 1043, tể tướng Lã Di Giản bị trúng phong, không thể lên triều được nữa, Nhân Tông bái ông ta làm Tư không, Bình chương quân quốc trọng sự, ba hoặc năm ngày lên triều một lần. Di Giản không nhận và nhiều lần xin được trí sĩ. Nhân Tông từ chối vài lần rồi chấp thuận, lại phong cho Yến Thù làm Bình chương sự kiêm Xu mật sứ, Hạ Tủng làm Thượng thư bộ Hộ, Xu mật sứ, Cổ Xương Triều làm Tham tri chính sự, Phú Bật làm Xu mật phó sứ (nhưng Phú Bật không nhận chức... Nhân Tông chấp nhận và cho thực hiện những chủ trương này, gọi đó là "tân chính", trong sử hay gọi là "Khánh Lịch tân chính". Cuối năm đó, Phạm Trọng Yêm cử một người đi các nơi kiểm tra hành vi quan lại, ông mỗi khi nhận được báo cáo của họ, đều không do dự gạch ngay tên những người không xứng chức trong danh sách quan lại, nhiều người khuyên can Trọng Yêm không nên làm quá, nhưng Trọng Yêm vẫn quyết tâm thi hành. Ông nói: "Thà một nhà khóc còn hơn để cả thiên hạ phải khóc".

Chính sách mới của Phạm Trọng Yêm đã đả động tới quyền lợi của rất nhiều thế lực thủ cựu trong triều, vì thế họ bắt đầu tìm cớ công kích, trù dập ông. Tháng 3 năm 1044, Hạ Tủng giật dây cho tố cáo Phạm Trọng Yêm, Doãn Thù, Âu Dương Tu, Dư Tĩnh lôi kéo bằng đảng, triệt hạ những người không ăn cánh, nhưng ban đầu Nhân Tông vẫn chưa tin, nhưng sau đó thiên hạ nhân họa liên tiếp xảy ra, bè đảng không ngớt lời dèm pha dần dần làm cho Nhân Tông mất niềm tin vào "tân chính". Tháng 10 năm 1044, Yến Thù bị bãi chức Bình chương sự kiêm Xu mật sứ. Dùng Đỗ Diễn làm Đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự, kiêm Xu mật sứ, Trần Chấp Trung làm Tham tri chính sự. Mùa xuân năm 1045, Phạm Trọng Yêm cảm thấy bất an, lại dâng sớ xin bãi chức. Nhân Tông toan nghe theo, song Chương Đắc Tượng tấu rằng Trọng Yêm là người hiền năng, nếu một lần thỉnh cầu mà bãi chức thì thiên hạ chê cười nhà vua không biết coi trọng hiền thần, vậy nên phải kiếm cớ gì làm tội nhẹ rồi mới bãi chức. Gặp lúc Phú Bật từ Hà Bắc trở về, Chương Đắc Tượng bèn sai Hữu chánh ngôn Tiền Minh Dật dâng sớ nói bọn Phạm Trọng Yêm, Phú Bật từ khi còn ở trấn bên ngoài đã kết giao bằng đảng, mưu đồ bá chiếm triều đình, rồi xin Nhân Tông truất chức hai người. Ngày 23 tháng 2, Nhân Tông bãi Trọng Yêm làm An phủ sứ Thiểm Tây, tri Bân châu; Phú Bật làm An phủ sứ Kinh Đông tây lộ, tri Vận châu. Lại định hạ chiếu bãi người cùng cánh với Trọng Yêm là Đỗ Diễn ra Duyện châu. Tân chính chỉ thực hiện được hơn 1 năm đã kết thúc. Phạm Trọng Yêm về sau chết trong uất hận ở Dĩnh châu (1052).

Sau Tân chính, 1045 - 1053

Bao Chửng ([[999 - 1062), nhân gian gọi là Bao Thanh Thiên.]]

Sau khi Phạm Trọng Yêm thất thế, Nhân Tông dùng Cổ Xương Triều làm Bình chương sự kiêm Xu mật sứ, Vương Di Vĩnh làm Xu mật sứ, Tống Tường Tham tri chính sự, Ngô Dục, Bàng Tịch làm Xu mật phó sứ. Triều đình lại nghị định bãi bỏ những cải cách khoa cử được thi hành trước kia, trở lại theo chế độ cũ khi mới lập triều, tức là chủ yếu bổ dụng quan lại theo kiểu tập ấm và tiến cử. Giám sát ngự sử là Bao Thanh Thiên dâng sớ can rằng nếu khôi phục lại cựu chế thì chính là dọn đường cho con em quan lại tiến thân hơn là chọn nhân tài cho đất nước. Nhân Tông không theo.

Ngày 17 tháng 5 năm 1045, Chương Đắc Tượng xin từ chức, Nhân Tông cho Trần Chấp Trung lên thay làm Bình chương sự, Xu mật sứ; Ngô Dục làm Tham tri chính sự, Đinh Độ làm Xu mật phó sứ. Phía Tây Hạ cho trả lại hàng tướng bị bắt là Thạch Nguyên Tôn. Trần Chấp Trung dâng sớ kể tội Nguyên Tôn làm nhục quốc thể, xin chém để răn. Nhân Tông theo lời Cổ Xương Triều, tuy không giết chết, nhưng tước đoạt quan tước của gia đình ông ta. Dư Tĩnh khi đó là Tri chế cáo, bị đàn hặc vì khi đi sứ Bắc triều đối đáp với Liêu chủ bằng giọng Khiết Đan, làm mất tôn uy triều đình, nên bị đẩy ra Cát châu. Cuối năm đó Nhân Tông cho bãi chế độ tể tướng kiêm Xu mật sứ, từ đây viện Xu mật nắm quyền độc lập với chức tể tướng, cùng nhau thương nghị việc cơ mật rồi tấu lên nhà vua như trước. Đầu năm 1047, Nhân Tông đi săn ở Hàn thôn, rồi đến doanh trại triệu các phụ lão đến hỏi tình hình thổ địa và dân chúng, sau đó lệnh miễn tiền tô thuế cho dân đất ấy trong một năm.

Ngự sử trung thừa Cao Nhược Nột bất bình với các tể tướng, nhân lúc có thiên tai liên miên, sàm tấu với Nhân Tông rằng thiên tai xảy ra là do tể tướng không biết điều hòa âm dương. Ngày 24 tháng 4 năm 1047, hai quan chấp chính Cổ Xương Triều và Ngô Dục đều bị bãi chức, đồng thời bọn Trần Chấp Trung, Tống Tường cũng bị giáng chức xuống một bực, nhưng đến cuối năm đó thì được phục chức. Triều đình dùng Hạ Tủng làm Xu mật sứ, Cao Nhược Nột làm phó sứ, Văn Ngạn Bác Tham tri chính sự. Nhân Tông muốn lấy Lý Thanh Thần lên làm Quan Gián nghị đại phu, tể tướng Trần Chấp Trung sợ mất chức, nên tìm cách khiến Nhân Tông không dùng Thanh Thần. Thanh Thần hận quá, nhiều lần ở trước mặt vua nói xấu Chấp Trung và còn không chịu nhận chức Long đồ các trực học sĩ của triều đình ban cho. Tuy nhiên nhà vua đối với Chấp Trung đãi ngộ vẫn còn như cũ. Còn Hạ Tủng vốn có thù oán với Phú Bật liền tố cáo ông ta thông mưu Khiết Đan tạo phản. Phú Bật bèn bị bãi chức An phủ sứ Tây Kinh. Về sau Nhân Tông biết Hạ Tủng nói gièm nên lại phong Phú Bật chức Kinh Đông lộ An phủ sứ.

Cuối năm 1047, quân sĩ ở Bối châu do Vương Tắc cầm đầu chiếm cứ thành tạo phản, bắt tri châu Trương Đắc Nhất và giết tướng Đổng Nguyên Hanh và nhiều người khác. Vương Tắc tiếm xưng Đông Bình vương, phong quan chức kiến lập triều đình riêng, đặt quốc hiệu là An Dương, niên hiệu Đắc Thánh. Trên mặt quân khởi nghĩa thích dòng chữ Nghĩa quân phá Triệu đắc thắng thể hiện quyết tâm lật đổ nhà Tống. Cổ Xương Triều sai đem quân từ Đại Danh đến đánh Bối châu, và lệnh quân ở Thiền, Mạnh, Định châu và phủ Chân Định sẵn sàng tư thế phòng thủ. Đầu năm 1048, người trong Uông Văn Khánh làm nội ứng định dẫn quân Tống tiến vào thành, song bị phát hiện và thất bại. Triều đình dụng binh nhiều phen nhưng vẫn không được. Tống Nhân Tông lo lắng, nên dùng Văn Ngạn Bác làm Tuyên phủ sứ Hà Bắc để dẹp loạn. Quân phản loạn có ý cầu cứu người Liêu, tướng Tống là Sử Minh Hạo biết bèn cho người chẹn đường lên phía bắc và bắt được sứ giả Bối châu. Ngày 18 tháng 4, Văn Ngạn Bác tuyển 200 tráng sĩ vào thành theo đường địa đạo, lên lầu thành giết hết người thủ thành, rồi đón quân triều đình tiến vào thành. Vương Tắc bỏ trốn rồi bị bắt giết, loạn quân ở Bối châu bị dẹp sau gần nửa năm. Do chiến công này, Văn Ngạn Bác được triệu về triều làm Thượng thư bộ Lễ, Bình chương sự. Cuối năm này lại phong Trần Chấp Trung, Lương Quát lên chức Bình chương sự. Tháng 3 năm 1054, Xu mật sứ Vương Di Vĩnh vì bệnh tật nên từ chức. Sau đó Lương Quát cũng bị nói là không biết giúp vua phân ưu và dạy dỗ con em, bị bãi Bình chương sự. Nhân Tông dùng Vương Đức Dụng và Lưu Hãng lên thay, lại dùng Điền Huống làm Xu mật phó sứ. Năm 1054, Tôn Miện vì bất mãn việc Nhân Tông truy phong Trương quý phi làm hoàng hậu nên bị bãi chức. Nhân Tông hỏi ý kiến của Vương Tu, chọn lấy lấy Phú Bật, Văn Ngạn Bác, những đại thần được triều dã ca ngợi "hoạn quan cung thiếp đều không biết đến" lên làm quan chấp chính, nắm quyền trong triều.

Năm 1058, Văn Ngạn Bác bị đàn hặc phải từ chức, rồi Phú Bật cũng phải về nhà chịu tang mẹ. Nhân Tông lấy Hàn Kỳ lên làm Bình chương sự, nắm quyền trong triều.

Ngoại giao

Đảng Hạng li khai

Từ thời Tống Thái Tông, bộ lạc Đảng Hạng ở miền tây bắc Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, có ý đồ li khai, không thần phục triều Tống nữa. Đến năm 1032, Lý Nguyên Hạo lên kế nhiệm cha là Lý Đức Minh, là tiết độ sứ Định Nan, tước Tây Bình vương. Lý Nguyên Hạo là người tàn bạo, từ lâu đã có ý li khỏi tự lập. Lúc đó Nhân Tông dùng niên hiệu Minh Đạo, phạm vào tên cha của Nguyên Hạo (Đức Minh), nên trong nước ông ta tự ý đổi niên hiệu này thành Hiển Đạo. Tuy ban đầu vẫn nộp cống cho triều Tống nhưng cũng đã manh nha ý muốn chống đối. Đồng thời Nguyên Hạo cũng được nhà Liêu phong làm Hạ quốc vương.

Giữa năm 1034, Hạ chủ Lý Nguyên Hạo lấy cớ quân Tống ở Khánh công xâm nhập vào cảnh giới nước Hạ, bèn dẫn quân đến báo thù. Các tướng Tống Dương Tuân, Lư Tuấn bị đánh bại ở trận Long Mã tỉnh; Hoàn Khánh đô giám Tề Tông Củ xuất quân chiến đấu và bị bắt sống. Trước kia tri Định châu Lưu Bình thường cảnh báo nhà vua phải triệt để đề phòng Lý Nguyên Hạo, song triều đình không theo. Đến đây Nhân Tông khen là người biết nhìn xa, dùng Lưu Bình làm Hoàn Khánh lộ phó đô bộ thự. Sau trận thắng đó, Lý Nguyên Hạo tiến hành chiến dịch tây tiến, tấn công vào tộc Duy Ngô Nhĩ năm 1036, chiếm được một dải đất rộng lớn mà nay thuộc vùng Cam Túc, Trung Quốc. Trước tình hình người Hạ uy hiếp, ngày 1 tháng 11 năm 1038, Nhân Tông hạ lệnh xuất kho tàng ra 50 vạn để hỗ trợ quân ở Hà Bắc và Thiểm Tây để kháng cự với quân địch.

Chính trong lúc Nhân Tông sa đà vào cuộc sống phóng túng, chính trị triều Tống ngày càng hủ bại, thì dân tộc Đảng Hạng ngày càng lớn mạnh. Ngày 10 tháng 11 năm 1038, Nguyên Hạo tự xưng là hoàng đế nước Tây Hạ, sai sứ giả đến triều Bắc Tống yêu cầu thừa nhận chính quyền Tây Hạ, nhưng bị cự tuyệt, cùng nhau kháng cự người Hạ, lại cắt đứt giao thương, không cho buôn bán với phía Hạ.

Sau khi xưng đế, Nguyên Hạo sai sứ đến tấu rằng người Hạ tuy rằng xưng hiệu hoàng đế, nhưng vẫn sẽ xưng thần với Trung Quốc, xin xá tội, mở lại đường thông thương như cũ. Khi sứ giả của Tây Hạ đến, các quan chấp chính tranh luận với nhau, người thì bảo nên nhận biểu, người thì đòi bắt giam sứ giả. Cuối cùng triều đình quyết định thả sứ giả về nước nhưng không nhận lễ vật.

Bấy giờ ở phía nam cũng có giặc An Hóa cướp phá. Triều đình nhà Tống cử quân giao chiến với người Man, nhưng thất bại, kiềm hạt Trương Hoài Chi và năm người khác đều chết. Vua sai Phùng Thân Kỉ là con của Phùng Chửng làm tri Quế châu, Quảng Tây kiềm hạt, nhanh chóng đi dẹp doạn. Thân Kỉ sau khi đến châu, huấn luyện quân đội và tuyển thêm lính, lấy thêm lương thực rồi chia quân làm ba lộ tiến đánh quân Man; người Man phải đầu hàng, tình hình Quảng Tây lại được yển ổn. Để đối phó với Tây Hạ, Nhân Tông dùng Lưu Bình làm Phu Diên Hoàn Khánh lộ đô bộ thự, Hạ Lạt làm Tiết độ sứ Phụng Ninh, tri Vĩnh Hưng; Phạm Ung làm Tiết độ sứ Chấn Vũ, tri Diên châu.

Lý Sĩ Bân là tướng trấn thủ trại Kim Minh, nắm trong tay hơn 10 vạn quân. Lý Nguyên Hạo sai dân đến giả hàng, chủ tướng của ông ta là Phạm Ung thưởng vàng bạc để khích lệ, và cho bọn người đến hàng dời sang phía nam. Sau đó mỗi lần Nguyên Hạo dẫn quân đến quấy nhiễu mà gặp Sĩ Bân đều tự nhiên lui quân, khiến Sĩ Bân kiêu căng, khinh địch. Nhân đó Nguyên Hạo bí mật mua chuộc nhiều người thân cận dưới trướng của Sĩ Bân mà ông ta không hề hay biết. Tháng 2 năm 1040, Lý Nguyên Hạo dẫn đại quân công đánh Bảo An quân từ đường Thổ Môn, rồi qua trại Kim Minh, bắt sống Lý Sĩ Bân, thừa thắng kéo đến thành Diên châu. Nhân Tông bèn phong cho ông ta làm Đô giám ở Kính châu gặp Phạm Trọng Yêm để xin cầu hòa. Phạm Trọng Yêm biết rằng người Hạ có ý giả dối, bèn viết thư gửi cho Nguyên Hạo để phân tích lợi hại, khuyên ông ta bỏ đế hiệu mà thần phục nhà Tống, Nguyên Hạo không theo và có ý xâm lấn Vị châu. Hàn Kỳ xuất 18.000 quân chống cự với người Hạ. Ông ta lập các trại trong khoảng 40 dặm để chi viện cho nhau. Quân Hạ dụng kế giả thua dụ quân Tống vào mai phục. Khi lực lượng Tống đến phía bắc thành Long Can thì gặp phải đại quân Hạ chặn đường phía trước, phục binh từ trên núi đánh xuống, khiến quân Tống đại bại, tướng chỉ huy là Nhâm Phúc cắt cổ tự tử. Quân Hạ lại đánh vào các cánh quân của Chu Quan và Võ Anh. Võ Anh và nhiều tướng như Triệu Tân, Vương Khuê, Tang Dịch tử trận, Chu Quan dẫn hơn 1000 quân chạy trốn, đến nửa đêm thì quân Hạ do không thông thạo đường đi, đành phải rút lui bộ thự Hứa Hoài Đức đem 10.000 quân đến chi viện. Sau khi bao vây hai thành, Nguyên Hạo đánh tới Phong châu, giết tri châu Vương Dư Khánh. Tuy nhiên quân Tống nhanh chóng ổn định lại lực lượng và phản công trở lại. Triều Tống sau đó chia Thiểm Tây ra làm bốn lộ: Tần Phượng, Kính Nguyên, Hoàn Khánh, Phu Diên giao cho bốn trọng tướng Hàn Kỳ, Vương Diên, Phạm Trọng Yêm và Bàng Tịch cai quản. Việc giao tranh ở phía tây cứ kéo dài liên miên mà không có kết quả, dần khiến Nhân Tông chán nản. Tri gián viện là Trương Phương Bình khuyên Nhân Tông nghị hòa với Tây Hạ, mở lại cửa thông thương, để tránh nhọc sức của dân, điều này rất hợp với ý của Nhân Tông. Nhưng giữa lúc đó thì có tin quân Khiết Đan có ý nam hạ, triều đình phải điều bớt quân phía tây trở về để chuẩn bị đối phó.

Trọng Hi tăng tệ

Bấy giờ ở miền bắc, Liêu Hưng Tông Da Luật Hồng Chân sau khi lên ngôi được hai năm, tiêu diệt được thế lực của mẹ ruột là Thái hậu Pháp Thiên, nắm được toàn bộ đại quyền trong triều. Trong lúc này triều đình Khiết Đan phát sinh tranh chấp nội bộ, thế lực ngày càng suy yếu; khiến Hưng Tông buộc lòng phải đón Pháp Thiên thái hậu trở về, bắt đầu những tranh chấp mới trong cung đình.

Tháng 1 năm 1042, vua Khiết Đan thấy triều Tống giao chiến với Tây Hạ liên tiếp thất bại, bèn nảy ý hưng sư nam phạt tính lấy lại 10 huyện phía nam Ngõa Kiều quan. Tuy nhiên lại trù trừ chưa dám đưa ra quyết định, bèn triệu cố tể tướng là Trương Kiệm. Kiệm khuyên với Hưng Tông chỉ cần trưng binh đe dọa, rồi sai sứ xuống nam đòi thêm yêu sách, không cần phải thân chinh chi cho nhọc công. Tháng 2 năm đó, Liêu chủ sai Nam viện tuyên huy sứ Tiêu Đặc Mạc, Hàn lâm học sĩ Lưu Lục Phù đi sứ triều Tống, hỏi trách việc hưng sư phạt Hạ và tăng cường binh bị ở vùng biên, rồi đòi triều Tống "trả lại" mười huyện phía nam Ngõa Kiều quan và đất Tấn Dương. Tri Bảo châu là Vương Quả nghe tin về việc động binh của Khiết Đan, dâng sớ lên triều đình xin điều động quân phòng thủ, triều đình nghe theo, lệnh bí mật bố trí phòng bị vùng biên cương. Triều đình muốn cử người ra đàm phán với bên Liêu, triều đình không ai dám đi, duy chỉ có Hữu chánh ngôn Phú Bật tình nguyện làm việc này. Nhân Tông cử Phú Bật đến Hà Bắc hội đàm với sứ Khiết Đan. Sứ Khiết Đan là Tiêu Đặc Mạc đòi hỏi triều Tống cắt đất, gả công chúa cho con trai trưởng của Khiết Đan chủ là Lương vương Hồng Cơ và tăng tiền thuế; Phú Bật thì kiên quyết không chịu việc hôn nhân.

Hòa đàm với Tây Hạ

Bản đồ nhà Tống và các nước xung quanh, thế kỉ XI Mùa hạ 1042, quân Hạ vây hãm các trại Kim Minh, Thừa Bình, Tắc Môn, An Viễn, Khải Lão, phá Ngũ Long Xuyên, bắt dân đưa về nước. Bàng Tịch ở đất Thiểm với hơn 100.000 quân, cho xây thành đắp lũy, củng cố quân lực, rồi sai bộ tướng Địch Thanh, Chu Mĩ, Vương Tín đến thu phục lại các trại bị tấn công và xây thêm mấy trại để phòng thủ. Tướng Tống là Dương Kháng ở Lân châu nhân trong đêm gió lớn, theo hướng gió mà đánh, đại phá được 60.000 quân Liêu. Không đầy một tháng, đường Lân châu đã thông trở lại, triều đình thưởng công cho Kháng, cử làm Kiềm hạt Cao Dương quan.

Tháng 10 năm đó, Hạ chủ lại đem quân tiến đánh vào đất Tống, tướng Tống là Cát Hoài Mẫn được cử ra chống cự. Ngày 31 tháng 10, quân Tống tiến tới trại Ngõa Đình, quân các nơi cũng tới chi viện. Ngày 11 tháng 11, Cát Hoài Mẫn dẫn quân tiến thẳng tiến một cách khinh suất mặc dù quân địch đang ở rất gần. Hoài Mẫn nghe tin Hạ chủ đóng quân ở ngoài hào, lại chia quân ra làm bốn cánh tiến công. Khi quân Hoài Mẫn vào trại Bảo Định Xuyên, quân Hạ cho đốt cầu, chặn hết các tàu bè qua lại trên sông để triệt đường về của quân Tống, rồi tấn công phủ đầu vào cả bốn mặt. Có gió từ phía đông bắc thổi đến khiến hàng ngũ quân Tống náo loạn, Hoài Mẫn cho quân rút lui thì gặp phải quân Hạ chẹn đường, 16 tướng Tống và hơn 9400 quân, 600 con ngựa phía Tống giết. Quân Hạ tiến thêm 6, 7 trăm dặm tới Vị châu cướp phá và bắt bớ người dân. Từ đó thanh thế của người Hạ ngày càng lớn mạnh.

Ngày 30 tháng 11 năm 1042, nhà Tống dùng Vương Tín làm Phu Diên đô bộ thư, Địch Thanh làm Đô giám Kính Nguyên, tri Nguyên châu, ba ngày sau cho hai người này kiêm luôn Kinh lược, An phủ sứ, sau còn dùng Vương Nghiêu Thần làm An phủ sứ lộ Kính Nguyên. Vương Nghiêu Thần trước kia từng khuyên Nhân Tông nên chú trọng phòng bị ở Kính Nguyên, nhưng Nhân Tông không nghe, về sau dẫn đến việc bại binh của Cát Hoài Mẫn, nên vua lại nhớ tới lời của Nghiêu Thần, bèn phong cho ông ta đến Kính Nguyên nhiều lần dâng sớ nói binh lương ở đất Thiểm không đủ để chống nhau với người Hạ, xin triều đình cho tăng quân, Nhân Tông đồng ý. Ngày 1 tháng 1 năm 1043, lấy Văn Ngạn Bác làm Tần Phượng lộ đô bộ thự, tri Tần châu, Đằng Tông Lượng làm Hoàn Khánh lộ đô bộ thự, tri Khánh châu, Trương Kháng làm Kính Nguyên lộ đô bộ thự, tri Vị châu, kiêm thêm Kinh lược, An phủ, Duyên biên, Chiêu thảo sứ, đặt dưới quyền của Hàn Kì, Phạm Trọng Yêm và Bàng Tịch. Đằng Tông Lượng dâng sớ lên nói rằng Hàn Kì, Phạm Trọng Yêm đã là Đô thống ở bốn lộ, mà nay lại phong cho bốn người như vậy nữa, thì chức vụ chồng chéo lên nhau, vì thế Nhân Tông bãi chức Chiêu thảo và Kinh lược sứ của bốn người vừa kể trên. Do đã chán ngán việc binh đao, Nhân Tông bí mật lệnh cho Bàng Tịch thuyết phục Hạ chủ xưng thần cống nạp. Vì mấy năm binh lửa, nhân lực của phía Hạ cũng hao tổn rất nhiều, nên Hạ chủ cũng dần có ý định bãi binh, nghị hòa. Phía bên Liêu cũng theo điều khoản của tăng thuế Trọng Hi, sai sứ đến Hạ, yêu cầu Hạ nghị hòa với Tống. Lý Nguyên Hạo bèn sai sứ đến triều Tống, các quan chấp chính đòi phía Hạ phải bỏ đế hiệu, trong thệ biểu phải ghi là "thần tử ở Ô châu" thì mới bằng lòng cho hòa, Nghi, Dung, đào sào huyệt, cho quân lích giả bộ đi săn để dò xét tình thế. Triều đình cho dụng kế đó, nên cuối cùng người Man phải quy phục.

Ngày 21 tháng 9 năm 1049, Chuyển vận tư Quảng Tây dâng tấu nói người Nùng ở châu Quảng Nguyên xâm phạm đất Ung châu. Nhân Tông chiếu hai lộ Giang Nam, Phúc Kiến chuẩn bị ứng chiến. Nhà Tống tuyên bố châu Quảng Nguyên là một châu kimi thuộc địa giới của mình, nhưng từ lâu người trong châu đã xin phụ thuộc vào chính quyền Đại Việt (Việt Nam). Trước kia ở châu Quảng Nguyên có Nùng Tồn Phúc làm tri châu Quảng Do, em hắn là Tồn Nhai làm tri châu Vạn Nhai, em vợ là Nùng Đương Đạo làm tri châu Vũ Lịch. Tồn Phúc dùng binh tiến đánh, giết Tồn Nhai và Đương Đạo, rồi khởi binh cướp phá khắp nơi ở Trung Quốc và Việt Nam, tự xưng hiệu Trường Sinh hoàng đế, lập vợ là A Nùng làm "Minh Đức Hoàng hậu". Vua nhà Lý giận đem quân đánh, giết Tồn Phúc và con là Trí Thông. Vợ Tồn Phúc là A Nùng cải giá với một thương nhân, sinh con trai đặt tên là Trí Cao. Năm lên 13 tuổi, Trí Cao giết cha của mình, nói rằng: "Thiên hạ làm gì có ai hai cha bao giờ", rồi giả xưng là con của Tồn Phúc, đổi sang họ Nùng. Rồi dẫn mẹ là A Nùng chạy đến châu Thảng Do, chiếm lấy châu ấy, đặt tên nước là Đại Lịch (1041). Trí Cao chiếm được Ung châu, tự xưng Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, cải nguyên là Khải Lịch, đặt quan chế theo kiểu Trung Quốc. Sau đó Trí Cao xua quân đánh phá các nơi, chiếm được Hoành châu, Quý châu, Tầm châu, Đằng, Ngô,... tổng cộng chiếm được 12 châu. Ngày 21 tháng 6, Trí Cao tiến đánh Quảng châu, nhưng do thành Quảng châu phòng thủ vững chãi; lại có Tô Giám ở Anh châu đem quân cứu trợ; nên quân giặc công hạ 57 ngày vẫn không hạ được, cuối cùng phải rút quân về. Trí Cao phát triển lực lượng lên tới 5 vạn, hùng cứ Lưỡng Quảng, quan tướng nhà Tống phải sợ không dám tiến. Tháng 10, Nùng Trí Cao hạ được Chiêu châu. Triều đình nhà Tống hoảng hốt. Nhân Tông lập tức triệt quân ở miền tây để chống cự người Hạ, tập trung cho mặt trận phía nam. Sai Dư Tĩnh và Tôn Miện đem quân thảo phạt Trí Cao, song vẫn chưa hạ được. Lúc này Trí Cao dâng biểu xin làm Tiết độ sứ cai quản Ung châu, Nhân Tông đã toan thuận cho, nhưng Địch Thanh ngăn lại và xin dẫn binh đánh dẹp.

Nhân Tông dùng Địch Thanh làm Xu mật phó sứ, Tuyên Huy Nam viện sứ, Tuyên phủ Kinh Hồ Nam Bắc lộ, Kinh chế Quảng Nam đạo tặc sự, để bình định miền nam. Nhà vua tự mình thiết yến để tiễn đưa tại điện Thùy Củng rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với Trí Cao. Bấy giờ có quan Kiềm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ.

Tháng 10 năm 1053, Nùng Trí Cao sai sứ đến nước Việt xin cầu cứu. Nhà Lý cử Chỉ huy sứ Vũ Nhị dẫn quân cứu Trí Cao. Quân Việt còn chưa khởi hành thì Địch Thanh đã ra quân trước, đem quân đến cửa Côn Lôn đánh Nùng Trí Cao; Trí Cao dốc hết quân ra chống đánh. Địch Thanh phất cờ, thúc hai cánh tả hữu của đội kỵ binh xông ra đánh: Trí Cao thua chạy. Quân Tống đuổi theo năm mươi dặm, chém vài nghìn thủ cấp. Đồ đảng của Trí Cao là bọn Hoàng Sư Mật hơn một trăm năm mươi người đều tử trận cả. Trí Cao đốt thành, đang đêm lẩn trốn, chạy sang Đại Lý. Hai năm sau, Dư Tĩnh sai Tiêu Chú vào đạo Đặc Ma, bắt sống được mẹ và các em Trí Cao đều đem giết sạch. Nước Đại Lý cũng không dám chứa chấp Trí Cáo, bèn giết chết rồi nộp cho nhà Tống. Từ đó họ Nùng bị diệt. Về sau năm 1057, người trong họ của Nùng Trí Cao là Nùng Tông Đán lại nổi lên làm phản. Tri Quế châu Tiêu Cố dụ hàng thành công. Từ đó tình hình phía nam mới tạm thời yên ổn.

Tháng 4 năm 1058, Lý Thánh Tông ở Đại Việt sai Mai Nguyên Thanh đem con thú lạ sang cống nhà Tống, nói dối là con kì lân. Tống đình rộn lên tranh nghị, vì kì lân chỉ là con trong truyền thuyết, chưa thấy ngoài đời bao giờ. Đại thần Điền Huống cho là điều gian trá, nhưng Tư Mã Quang biện giải rằng nếu làm lớn chuyện chỉ khiến thiên hạ chê cười, vì thế Nhân Tông từ chối không nhận lễ vật.

Tháng 4 năm 1059, quân Việt tiến sang đất Tống, chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan nhà Tống là Lý Duy Tân, đồng thời bắt giữ nhiều quân, dân và vật nuôi. Vua Tống và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi vua Lý mới rút quân về. Châu mục châu Lạng bên Việt là Thân Thiệu Thái dẫn quân sang địa giới nhà Tống bắt cướp, tướng Tống Sĩ Nghiêu đem quân đánh trả nhưng thất bại. Năm 1060, Thân Thiệu Thái lại giết chết Tống Sĩ Nghiêu rồi tiến tới châu Ung và tấn công trại Vĩnh Bình. Quân Đại Việt bắt được chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân dân. Nhân Tông sai sứ sang bàn việc đàm phán, lấy nơi họp bàn là Ung châu, nhưng phía Việt nhất quyết không chịu trả Dương Bảo Tài.

Hậu cung

Ngày 24 tháng 12 năm 1024, theo xếp đặt của hoàng thái hậu, Nhân Tông lập Quách thị làm Hoàng hậu. Thần phi từ khi hạ sinh long tử, đã phải mất con vào tay của thái hậu. Nhân Tông lên ngôi đã 10 năm, Thần phi vẫn phải ở trong đám phi tần, mà Nhân Tông cũng không biết gì về mẹ ruột của mình. Các quan trong triều sợ thái hậu, không ai dám nói ra.

Trước kia hoàng hậu Quách thị được lập không phải là ý của Nhân Tông. Từ sau khi Lưu thái hậu chết đi, Nhân Tông không còn ai ngăn cản, mặc sức ăn chơi trác táng. Ở trong cung ông cho nạp rất nhiều mĩ nữ xinh đẹp, có tích là nhà vua còn cho bắt con gái nhà lành để sung vào cung. Quách hoàng hậu vốn không được sủng ái như hai Mỹ nhân Thượng, Dương. Hoàng hậu tánh đố kị, thường nói ra những lời oán giận. Nhân một hôm Nhân Tông đang vui đùa với hai phu nhân, hoàng hậu lén rình nghe thấy Thượng Mỹ nhân nói xấu mình, bèn xông tới gây gổ, rồi đánh vào hai vị Mỹ nhân. Hai Mỹ nhân hoảng sợ, nấp vào sau lưng Nhân Tông. Hoàng hậu trong cơn tức giận mà không kiềm chế được, đã giáng nhầm cú tát vào mặt vua. Mặc dù Nhân Tông đã cố tình che giấu vết thương nhưng vẫn bị phát hiện, trong triều bèn rộn lên những lời đồn đãi. Lại thêm Lã Di Giản ngày trước bị Hoàng hậu nói gièm mà mất chức, nay được khai phục thì tìm cách trả thù, cũng ra sức hùn vào; lấy lý do: Hoàng hậu lập lên đã chín năm mà chẳng có con. Trong lúc Nhân Tông còn chưa quyết định xong thì bên ngoài đã biết hết chuyện, Phạm Trọng Yêm bèn đem chuyện này ra và khuyên sớm quyết định để tránh đàm tiếu.

Ngày 16 tháng 1 năm 1034, Nhân Tông giáng hoàng hậu làm Tịnh phi, Ngọc Kinh Trùng diệu tiên sư, ban tên là Thanh Ngộ; bắt dời ra Diêu Hoa cung mà tu đạo.

Do Nhân Tông không có con trai khiến nhiều kẻ muốn nổi lên tranh ngôi. Vào năm 1050, có y giả Lãnh Thanh xưng là con vua, nói mẹ của hắn trước là cung nữ từng được Nhân Tông sủng hạnh, sau bị đuổi ra khỏi cung mới biết mình mang thai long tử. Tri phủ Khai Phong Tiền Minh Dật truy bắt Thanh, rồi hành lễ với hắn như với thế tử. Việc đến trong cung, triều đình trên dưới xôn xao bàn luận. Nhân Tông lập tức sai Tri gián viện là Bao Chửng điều tra việc đó. Bao Chửng tra ra rằng mẹ của Thanh là Vương thị trước kia có thời hầu ở trong cung, được vua ân sủng, sau khi rời cung được ba năm mới lấy một nông phu, sinh một con gái rồi mới sinh Thanh. Sau đó Lãnh Thanh bị xử tử, còn Tiền Minh Dật vì từng hạ mình với Lãnh Thanh cũng bị điều ra Thái châu.

Tuy Tào hoàng hậu được lập lên chính vị trung cung nhưng lại không được Nhân Tông sủng ái. Ngược lại có Ngự thị họ Trương là con gái của Trương Nghiêu Phong, người Hà Nam. Trương ngự thị nhập cung từ năm mới lên 8, do tính tình thông tuệ, dung mạo đẹp đẽ mà được lòng của Nhân Tông, phong lên ới Quý phi, ban đãi ngộ đặc biệt, khác hẳn với các tần phi khác. Lại phong cha của Ôn Thành hoàng hậu Trương Nghiêu Phong là Thanh Hà quận vương, mẹ là Tào thị làm Tế quốc phu nhân. Ngự sử trung thừa Tôn Biến ba lần dâng sớ can ngăn, Nhân Tông không trả lời.

Năm 1059, nội bộ hoàng gia nổ ra một vụ lùm xùm lớn. Nguyên trưởng nữ của Nhân Tông là Phúc Khang công chúa trước được gả cho Lý Vĩ là người trong họ của Lý Thần phi. Tuy nhiên Công chúa với phò mã không hòa thuận, mà công chúa lại đem lòng yêu viên hoạn quan hầu cận tên là Lương Hoài Cát. Một lần nọ, công chúa cùng Lương Hoài Cát lén lút gặp nhau tư tình, mẹ chồng của công chúa là Dương thị nhìn lén ngoài cửa sổ. Công chúa phát hiện, gây gổ đánh nhau với Dương thị và phò mã, rồi bỏ về cung. Triều thần được tin đều bất bình, gây sức ép bắt Nhân Tông phải trừng phạt. Sau khi bàn bạc với Tào hoàng hậu, Nhân Tông cho giam cầm công chúa trong cung, đày Hoài Cát làm lao dịch ở Hoàng lăng, và giáng Lý Vĩ từ chức Tiết độ sứ xuống làm tri Vệ châu. Về sau Công chúa dọa sẽ tự tử và thiêu rụi hoàng cung nếu Hoài Cát bị xử tội, cho nên cả Hoài Cát và Lý Vĩ đều được tha bổng, nhưng Hoài Cát không được hầu bên cạnh Công chúa nữa. Mẹ ruột của công chúa là Miêu phi bày kế tìm sơ hở của phò mã để bắt tội, thậm chí còn có ý ám sát phò mã, nhưng tất cả âm mưu này đều được Tào hậu ngăn chặn kịp thời..

Cuối những năm Hoàng Hựu, Thái thường bác sĩ là Trương Thuật thấy Nhân Tông tuổi đã cao mà chưa có người kế tự, bèn dâng sớ xin tuyển trong tông thất những người hiền năng mà đào tạo. Đến năm 1055, Thuật lại dâng sớ xin lập tự, Nhân Tông không trả lời song cũng không trách phạt. Đến Tết nguyên đán năm 1056, Nhân Tông ngự triều ở điện Đại Khánh, mà đêm trước đó có tuyết rơi nặng hạt, khiến vua mắc bệnh. Khi bách quan tập hợp đầy đủ chuẩn bị hành lễ thì Nhân Tông bỗng ngả ra bất tỉnh, các nội quan phải dìu vua về cung. Việc này khiến trên dưới cả triều bất an. Đến 8 ngày sau, Nhân Tông mới tỉnh lại và ra ngự triều, đến một tháng mới khỏi hẳn. Từ đó trong triều rộn lên nhiều chuyện liên quan đến ngôi trữ quân còn chưa định. Tri gián viện Phạm Trấn và Điện trung Thị ngự sử Triệu Biến xin Nhân Tông học theo Chân Tông ngày xưa (Chân Tông đến hơn 40 tuổi thì Nhân Tông mới chào đời), chọn con cháu trong hoàng gia ra một người xuất chúng, Nhân Tông không trả lời. Các tể tướng Phú Bật, Văn Ngạn Bác, Vương Đức Dụng, Hàn lâm học sĩ Âu Dương Tu, Tư Mã Quang cũng lũ lượt dâng sớ đều không có hồi âm. Giữa năm đó, Xu mật sứ Địch Thanh vì uy quyền quá lớn nên bị quần thần dị nghị, rồi bị đày ra Trần châu. Nhân Tông lại triều Hàn Kì về triều, phong làm Xu mật sứ.

Ngày 8 tháng 9 năm 1058, Bao Chửng vừa được phong làm Ngự sử trung thừa lại xin lập tự. Tuy nhiên khi đó trong hậu cung lại có người mang thai, việc bị gác lại. Quần thần đều hi vọng đó là hoàng tử, nhưng cuối cùng lại sinh ra một tiểu công chúa. Lại nói từ sau khi Ôn Thành hoàng hậu qua đời, có 10 cô gái được sủng hạnh, gọi là Thập cáp, trong đó có Chu thị, Đổng thị sinh được công chúa. Thập cáp ỷ sủng sinh kiêu, bày ra nhiều trò làm náo loạn hậu cung, khiến quần thần cũng bất bình. Cuối cùng khi thời tiết đại hạn, Nhân Tông đành phải hạ lệnh trục xuất những phi tử chưa từng mang thai trong số Thập cáp ra khỏi cung, cùng với 236 cung nữ khác. Mùa xuân năm 1062, dùng Triệu Khái làm Tham tri chính sự, Ngô Khuê làm Hữu Gián nghị đại phu, Xu mật phó sứ.

Lúc trước khi Nhân Tông chưa chào đời thì Chân Tông cho nuôi người tông thất là Doãn Nhượng ở trong cung để dự phòng kế vị. Sau này có Nhân Tông thì Doãn Nhượng được phong làm Bộc vương. Con trai của Bộc vương tên là Tông Thực được nuôi trong cung từ năm lên 4, là người có tư cách kế vị nhất trong số tông thân. Khi Hàn Kì lại tâu xin lập tự, vua đã có ý chọn Tông Thực. Giữa lúc đó vào đầu năm 1059, Bộc vương Doãn Nhượng qua đời, Tông Thực phải trở về phủ chịu tang. Đến năm 1062, Thực được bổ nhiệm Tần châu phòng ngự sứ, Tri Tông chánh tự, nhưng lại bốn lần dâng biểu, lấy lý do phục tang mà từ chối. Khi ông hết tang, Nhân Tông hạ chiếu phong làm hoàng tử, ban tên là Thự, ông cáo bệnh mà từ chối. Nhân Tông hỏi ý của tể thần Hàn Kì, rồi hạ chiếu cho hoàng tử Thự mỗi ngày ông lên triều một lần. Tháng 10 năm 1062, được dời Tề châu phòng ngự sứ, tước Cự Lộc quận công.

Tháng 3 năm 1062, Nhân Tông không khỏe, hạ chiếu đại xá, giảm tội một bậc cho tất cả tù phạm, từ tội đồ trở xuống thì phóng thích. Vì Nhân Tông không khỏe nên chỉ sai người đến dự tang, truy tặng Tư không, Thị trung, thụy là Trung Mẫn. Ngày 23 tháng 4, ông ngự điện Diên Hòa gặp Tiến sĩ, cập đệ đồng xuất thân của khoa thi năm đó gồm 341 người. Ngày 24 tháng 4 năm 1063, bệnh tình của Nhân Tông có chuyển biến tốt, bèn ra ngự điện nhận sự chúc mừng của trăm quan.

Đến 30 tháng 4 năm 1063, Nhân Tông sau khi ăn tối xong thì trở về điện Phúc Ninh, đến nửa đêm thì đau nặng, liền cho triệu hoàng hậu Tào thị đến. Khi đó Nhân Tông không thể nói được nữa; hoàng hậu triệu các thái y đến châm cứu và dâng thuốc nhưng đã không kịp. Sau đó Nhân Tông băng hà. Hoàng hậu sợ có biến, liền giữ các chìa khóa các cung ngay bên mình, đến sáng hôm sau triệu hoàng tử và các đại thần đến bàn việc lên ngôi. Hoàng tử thất sắc nói: Không dám theo, không dám theo. Hàn Kỳ cùng các đại thần ra sức thúc ép, đưa sẵn triều phục; triệu Vương Khuê đến thảo di chiếu rồi tuyên đọc ở điện Phúc Ninh. Hoàng tử Thự lên nối ngôi, tức là Tống Anh Tông, dâng thụy hiệu cho tiên đế là Thể Thiên Pháp Đạo Cực Công Toàn Đức Thần Văn Thánh Vũ Duệ Triết Minh Hiếu hoàng đế (體天法道極功全德神文聖武睿哲明孝皇帝), miếu hiệu là Nhân Tông (仁宗), an táng tại Vĩnh Chiêu Lăng (永昭陵). Nhân Tông trị vì 41 năm, thọ 54 tuổi.

Theo Tống sử, sau khi Nhân Tông qua đời, cả thành Biện Lương kêu gào than khóc, nhiều ngày không dứt, những người khất thực và đám trẻ, đốt tiền giấy và khóc trước Đại Nội. Lạ lùng là ngay cả hoàng đế Khiết Đan khi đó cũng thương tiếc về sự qua đời của ông.

Nhận định

Tự bi của Tống Nhân Tông ở đình Lan Lăng.

Khen ngợi

Trung Quốc kể từ thời kì Xuân Thu Chiến Quốc, thì triều Tống được coi là triều đại có nền chính trị khoan hòa. Mặc dù liên tục phải đối phó với họa ngoại xâm nhưng ở bên trong triều đình ít có những biến động lớn. Sự kiện ánh nến tiếng rìu, hay những nạn quyền thần thời Nam Tống, đều chỉ là những âm mưu chính trị trong nội bộ và không dẫn đến những vụ thảm sát lớn như tru diệt công thần thời Hán, Sự biến Hà Âm thời Nam Bắc triều, Sự biến cửa Huyền Vũ đời Đường hay Tứ đại án đời Minh. Từ khi Tống Thái Tổ dùng rượu giải binh quyền mà tránh được tiếng thảm sát công thần, nhưng cũng thâu tóm được binh quyền về tay hoàng đế. Những năm về sau Thái Tông, Chân Tông rồi Nhân Tông thi hành đường lối trọng văn khinh võ, còn thực hiện nghiêm lệnh cấm tiệt các đại thần gây gổ xích mích mà nhục mạ hay đánh nhau ở chốn công cộng, cấm chỉ văn tự ngục (trừ trường hợp thông địch phản quốc). Tống Nhân Tông lên ngôi, càng tôn sùng việc học văn, sùng bái Nho gia kinh điển. Chế độ khoa cử ở thời kì của ông rất phát triển; ông đặt ra lệ dùng Tứ thư: Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh Tử làm tư liệu học tập tối quan trọng của sĩ nhân trong thiên hạ. Giai đoạn trị vì của Tống Nhân Tông được coi là thời kì phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa của thời Tống. Rất nhiều học giả đương thời và hậu nhân Âu Dương Tu, Tư Mã Quang, Vương An Thạch, Tăng Củng, Hồ An Quốc, Lưu Quang Tổ, Chu Tất Đại, Dương Vạn Lý, Trần Tuấn Khanh, Lưu Khắc Trang, Văn Thiên Tường... đã ca ngợi thời của 40 năm trị vì của ông là "thịnh trị", so sánh với Trinh Quán, Khai Nguyên thịnh thế đời nhà Đường.

Năm 1059, tể thần Phú Bật xin dâng phong hiệu cho Nhân Tông thêm bốn chữ "Đại Nhân Chí Trị", song ông từ chối. 4 năm sau khi ông mất, triều đình đã dùng chữ Nhân này để đặt miếu hiệu cho ông.

Tống sử khen ngợi Tống Nhân Tông như sau :''Nhân Tông ở ngôi 42 năm, bỏ kẻ lười biếng, ghét kẻ tàn ác khắc nghiệt; hình pháp khoan dung, hình ngục ít thấy có sự oan trái. Trong nước ít có tệ nạn, nhưng chưa đến mức trị thế chi thể; triều đình thường ít có tiểu nhân, nhưng chưa được đến mức thiện loại chi khí. Quân thần trên dưới có lòng kính sợ, chính trị trung hậu; là tiền đề cho cơ đồ 300 năm của Tống. Thời kì cải cách Khánh Lịch, Nhân Tông khởi dụng Âu Dương Tu, Dư Tĩnh, Vương Tố làm Gián quan; có đại thần khuyên ông :Triều đình tăng số gián thần; Tu, Tĩnh nhận chức trong một ngày, là một cái hay. Nhưng bổ dụng người can gián không khó, nghe lời can gián mới khó. Ba người trung thành tắc chính, tất sẽ nói ra những lời thẳng. Thần sợ có tà nhân gây chuyện bất lời. Nếu có kẻ đó xin bệ hạ giết chúng đi, để thiên hạ biết quan can gián không phải là hữu danh vô thực.

Sau đó còn chỉ trích thẳng vua: Khoan nhân thiếu quyết đoán, không thích nghe lời nói thẳng, không tỏ đủ uy quyền.

Khi Nhân Tông nắm quyền, mặc dù ông đã có những cố gắng, như thực hiện Khánh Lịch tân chính, nhằm củng cố quân đội và kinh tế song không thu được nhiều hiệu quả. Sự kiện tăng thuế Trọng Hy và sự li khai của Tây Hạ là những nốt trầm trong thời đại của ông, trong khi ông và các triều thần vẫn tiếp tục đường lối từ thời vua cha là dùng tiền cống nộp cho Liêu, Hạ với hi vọng đảm bảo sự an toàn cho triều đại của mình. Điều này có hiệu quả to lớn giúp tránh được nạn chiến tranh, dân chúng được sống yên bình và kinh tế có điều kiện phát triển. Thời nay nhiều người nhìn nhận vấn đề từ một phía, mà chỉ trích nặng tay, quá khích những chính sách như vậy là hạ mình, bạc nhược :Hồ đồ nhu nhược, không có thực quyền. Không có tinh thần chiến đấu, cắt đất và cống nạp để cầu hòa. Mở rộng đường làm quan, quan lại vô dụng trong triều quá nhiều. Thuế khóa tăng, tài chính cạn kiệt.

Nhưng thực tế một xã hội tương đối thái bình cùng với phát triển của kinh tế, xã hội dưới triều Nhân Tông đã chứng minh mặt tích cực của đường lối ngoại giao khôn khéo.

Tuy nhiên một thực tế rõ ràng, từ đường lối trọng văn khinh võ của Tống Nhân Tông nói riêng và các triều vua Bắc Tống nói chung khiến binh lực tuột dốc, sức phòng thủ yếu kém, dẫn đến hậu quả mất nước thảm thương trong sự kiện Tĩnh Khang khoảng hơn 60 năm sau khi Nhân Tông qua đời.

Gia thất

  • Cha: Tống Chân Tông Triệu Hằng.
  • Mẹ: Chương Ý Hoàng hậu Lý thị (章懿皇后李氏, 987 - 1032), còn gọi là Lý Thần phi (李宸妃), người Hàng Châu, con gái của Lý Nhân Đức (李延嗣).
  • Mẹ nuôi:

    Chương Hiến Minh Túc hoàng hậu Lưu Nga (章献明肃皇后刘氏, 968 - 1033), người Ích Châu, con gái của Lưu Thông (刘通).

    Chương Huệ Hoàng hậu Dương thị (章惠皇后楊氏, 984 - 1036), còn gọi là Dương Thục phi (楊淑妃), con gái của Dương Tri Nghiễm (杨知俨).

Hoàng hậu

  • Quách hoàng hậu (郭皇后) (1012 - 1035), nguyên quán ở huyện Kim Thành, Ứng Châu, con gái của Quách Doãn Cung (郭允恭). Nguyên phối của Tống Nhân Tông. Được lập làm Hoàng hậu năm 1024. Năm 1034, phế xuống làm Tịnh phi (净妃), bắt phải làm đạo sĩ rồi chết. Nhân Tông hoàng đế truy tặng lại ngôi vị Hoàng hậu nhưng không có thụy hiệu. Không con

thumb|Từ Quang Thánh Hiến Hoàng hậu Tào thị

  • Từ Thánh Quang Hiến hoàng hậu Tào thị (慈聖光獻皇后曹氏) (1016 - 1079). nguyên quán ở Linh Thọ, Chân Định . Cha là Tào Kỷ. Kế phối của Tống Nhân Tông, cháu gái của danh tướng Tào Bân (曹彬).

    Chiêu Ý Quý phi Trương thị (昭懿贵妃张氏, ? - 1104): không được ghi chép trong Tống sử. So với sủng phi Trương thị (sau được truy phong làm Ôn Thành hoàng hậu) của Tống Nhân Tông có thể cùng là một người.

    Đổng Thục phi (董淑妃, ? - 1062), xuất thân thị nữ của Nhân Tông, sau được sủng hạnh sách phong Văn Hỉ Huyện quân (闻喜县君), sinh hạ Trần quốc Thái trưởng công chúa và Dự quốc công chúa chết yểu, chỉ có Cổn quốc Thái trưởng công chúa còn sống, tấn phong lên bậc Tài nhân (才人), Mỹ nhân (美人), Sung viên (充媛), Uyển nghi (婉仪), khi mất truy tặng Thục phi (淑妃).

    Dương Đức phi (楊德妃, 1019 - 1072), tên là Tông Diệu (宗妙), người Định Đào, con gái của Dương Trung Đích (杨忠的). Dương thị nhập cung làm phi tần, sách phong Nguyên Vũ Quận quân (原武郡君) rồi Mỹ nhân (美人). Dương thị mỹ mạo lộng lẫy, thông hiểu âm luật lại khiêm nhường từ tốn, rất được Nhân Tông sủng hạnh. Cùng lúc đắc sủng với bà có Thượng Mỹ nhân, khiến Quách hoàng hậu ghen tức, Nhân Tông nhân đó mà phế truất Quách thị, lại cho là Dương thị cùng Thượng thị nhiễu loạn hậu cung mà buộc phải xuất cung, xuất gia tu đạo. Năm 1034, Dương thị xuất cung, nhưng không lâu sau Nhân Tông nhớ thương mà triệu về, ban cho danh phận Mỹ nhân như trước. Sau sinh hạ Thương Quốc Công chúa chết non, lại tấn phong Tiệp dư (婕妤), Tu viên (修媛) rồi Tu nghi (修仪), khi mất truy tặng Đức phi (德妃).

    Du Đức phi (兪德妃, ? - 1064), dung mạo đẹp đẽ, nguyên là cơ thiếp của Nhân Tông khi còn là hoàng tử với danh hiệu Diên An Quận quân (延安郡君). Năm 1037, hạ sinh Hoàng trưởng tử Dương vương Triệu Phưởng chết yểu, thăng lên bậc Tài nhân rồi Mỹ nhân (美人). Sau sinh hạ Từ quốc công

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Nhân Tông Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁宗郭皇后, 1012 - 1035), pháp danh **Thanh Ngộ** (清悟), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Dưới thời nhà Tống, bà
**_Kim Bình Mai từ thoại_** (金瓶梅詞話), thường được biết đến tới tên gọi **_Kim Bình Mai_** (金瓶梅), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh sáng tác vào thời nhà
**Chiến dịch đánh Tống 1075–1076** là chiến dịch quân sự do Đại Việt phát động tấn công vào Đại Tống vào năm 1075, do tướng nhà Lý của Đại Việt là Lý Thường Kiệt chỉ
**Tống Kỳ** (chữ Hán: 宋祁; bính âm: Song Qi) (998 – 1061), tự **Tử Kính**, người An Lục (nay thuộc địa cấp thị Hiếu Cảm, tỉnh Hồ Bắc), sau dời qua ở Ung Khâu Khai
**Mai Chí** (chữ Hán: 梅挚, ? – ?), tự **Công Nghi**, người huyện Tân Phồn, phủ Thành Đô , quan viên nhà Bắc Tống. ## Sự nghiệp Chí xuất thân tiến sĩ, ban đầu được
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Thần Tông** (chữ Hán: 宋神宗, 25 tháng 5, 1048 - 1 tháng 4, 1085), húy **Triệu Húc** (趙頊), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, ông
**Tống Hiếu Tông** (chữ Hán: 宋孝宗, 27 tháng 11 năm 1127 – 28 tháng 6 năm 1194), tên thật là **Triệu Bá Tông** (趙伯琮), **Triệu Viện** (趙瑗), **Triệu Vĩ** (趙瑋) hay **Triệu Thận** (趙昚), tên
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**_Trung nghĩa Thủy hử truyện_** (忠義水滸傳), thường được biết đến tới tên gọi **_Thủy hử truyện_** (水滸傳), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được sáng tác thời cuối Nguyên đầu Minh. Tác giả của
Đạo Phật có một lịch sử phát triển rất thăng trầm trong suốt hơn 2.500 năm; lan tỏa từ Ấn Độ ra khắp nơi trên thế giới. Do đó, việc hình thành các bộ phái
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Chiến tranh Tống-Việt** là một cuộc chiến tranh giữa Nhà Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh
nhỏ|Các nước "cộng hòa tổng thống" với mức độ "tổng thống chế toàn phần" được biểu thị bằng màu **Xanh biển**. Các quốc gia có một mức độ "tổng thống chế bán phần" được biểu
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Võ Tòng** (chữ Hán: 武松; bính âm: _Wǔ Sōng,_ **Võ Tùng** hay **Vũ Tùng**), ngoại hiệu _Hành giả_, là một nhân vật trong tiểu thuyết _Thủy hử_. Võ Tòng cũng xuất hiện trong _Kim Bình
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
nhỏ|Tổng hợp giọng nói Trên máy tính, **tổng hợp giọng nói** là việc tạo ra giọng nói của người từ đầu vào là văn bản hay các mã hóa việc phát âm. Hệ thống này
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Tống Anh Tông** (chữ Hán: 宋英宗, 16 tháng 2, 1032 - 25 tháng 1, 1067), thụy hiệu đầy đủ **Thể Càn Ứng Lịch Long Công Thịnh Đức Hiến Văn Túc Vũ Duệ Thánh Tuyên Hiếu
**Tống Triết Tông** (chữ Hán: 宋哲宗, 4 tháng 1, 1077 - 23 tháng 2, 1100), húy **Triệu Hú** (趙煦), là vị Hoàng đế thứ bảy của vương triều Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tống Ninh Tông** (chữ Hán: 宋寧宗, 18 tháng 11, 1168 - 18 tháng 9, 1224), thụy hiệu đầy đủ là ** Pháp Thiên Bị Đạo Thuần Đức Mậu Công Nhân Văn Triết Vũ Thánh Duệ
**Hoàn Nhan Tông Hàn** (chữ Hán: 完颜宗翰, 1080 – 1137), tên Nữ Chân là **Niêm Một Hát** (粘没喝), tên lúc nhỏ là Điểu Gia Nô, tướng lĩnh, hoàng thân, khai quốc công thần nhà Kim.
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Tổng thống Ukraina** () là nguyên thủ quốc gia của Ukraina. Tổng thống thay mặt cho Ukraina về đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại của nhà nước và tiến hành đàm phán, ký
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
Cuộc **bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016** diễn ra vào thứ ba, ngày 8 tháng 11 năm 2016, là cuộc bầu cử tổng thống thứ 58 liên tục bốn năm một lần trong
**Lâm Tế tông** (zh. _línjì-zōng/lin-chi tsung_ 臨濟宗, ja. _rinzai-shū_) là một dòng thiền được liệt vào Ngũ gia thất tông—tức là Thiền chính phái—do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền sáng lập. Đây là tông
**Anh hùng xạ điêu** là phần mở đầu trong bộ tiểu thuyết võ hiệp Xạ điêu tam bộ khúc của nhà văn Kim Dung. Trong truyện có nhiều nhân vật có tiểu sử riêng. Dưới
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai** diễn ra từ năm 1075 đến năm 1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc. Giai đoạn đầu, trong các
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
**Tổng thống Philippines** (tiếng Filipino: , đôi khi được gọi là _Presidente ng Pilipinas_) là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ của Philippines. Tổng thống Philippines lãnh đạo chính phủ và thống
**Tống Vũ Đế** (chữ Hán: 宋武帝, 16 tháng 4 năm 363 - 26 tháng 6 năm 422), tên thật là **Lưu Dụ** (劉裕), tên tự **Đức Dư** (德輿), Đức Hưng (德興), tiểu tự **Ký Nô**
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Minh Đạt Hoàng hậu** (chữ Hán: 明達皇后; 1086 - 1113), hay **Tống Huy Tông Lưu Quý phi** (宋徽宗劉貴妃), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Dưới thời nhà
nhỏ|[[Chánh án Hoa Kỳ|Chánh án Toà án Tối cao John Roberts chủ trì tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho Donald Trump vào ngày 20 tháng 1 năm 2025.]] **Tuyên thệ nhậm chức của tổng
**Trần Đông** (chữ Hán: 陈东, 1086 – 1127), tự Thiếu Dương, người Đan Dương, Trấn Giang , nhân vật yêu nước cuối đời Bắc Tống. Ông là người lãnh đạo phong trào vận động của
**Cung Thánh Nhân Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 恭聖仁烈皇后; 1162 - 1232), thông gọi **Thọ Minh hoàng thái hậu** (壽明皇太后) hay **Ninh Tông Dương hoàng hậu** (寧宗楊皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Ninh
**Lý Tông Nhân**
**李宗仁**
x|}