✨Chiến tranh Kim–Tống (1206–1208)
Chiến tranh Kim-Tống (1206-1208) hay Khai Hi bắc phạt là một phần của cuộc chiến chiến tranh Tống - Kim, kéo dài 3 năm từ 1206 đến 1208, do triều Tống phát động, tấn công vào địa giới triều Kim, nhưng sau đó quân Kim giành lại thế chủ động và tổ chức phản công, uy hiếp mạnh mẽ vùng Lưỡng Hoài, cuối cùng buộc triều Tống ký hòa ước vào năm 1208.
Sự chuẩn bị của triều Tống
Sau Long Hưng bắc phạt (1161 - 1164), Tống - Kim ký kết hòa nghị xưng chú cháu. Sau hòa nghị Long Hưng, hai nước tạm ngưng binh đao, duy trì hòa binh suốt hơn 40 năm. Cả hai nước Kim và Nam Tống bước vào thời kì cực thịnh. Ở Tống, vua Hiếu Tông (1162 - 1189) cải cách chính sự, dẹp trừ nạn tham ô hủ bại dưới thời Tống Cao Tông, triều Tống xuất hiện một thời kì thái bình, sử xưng Càn Thuần chi trị. Ở miền bắc, Kim Thế Tông (1161 - 1189) bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, tín nhiệm hiền thần, bỏ việc gây hấn ở vùng biên, triều Kim cũng phát triển đến cực điểm, người trong nước tôn xưng Ung là Tiểu Nghiêu Thuấn.
Cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIII, hai miền nam - bắc kết thúc thời thịnh trị và bắt đầu suy yếu. Năm 1189, Kim Thế Tông qua đời, năm sau Tống Hiếu Tông nhường ngôi cho con là Tống Quang Tông Triệu Đôn. Quang Tông đau ốm liên miên, trong cung lại có hoàng hậu Lý Phượng Nương chuyên quyền áp bức, li gián hai cung khiến tình cha con của hai vua triều Tống rạn nứt, cuối cùng Quang Tông bỏ cả việc chịu tang cho Hiếu Tống sau khi ông qua đời. Vì thế nên năm 1194, các đại thần phát động chính biến, buộc Quang Tông nhường ngôi cho Triệu Khoáng, tức Tống Ninh Tông (1194 - 1224). Những năm đầu thời Ninh Tông, gian thần Hàn Thác Trụ lật đổ tể tướng Triệu Nhữ Ngu, đoạt quyền triều cương, sát hại đại thần, bài xích Đạo học, quyền nghiêng trong ngoài, nắm giữ cả giang sơn triều Tống. Nước Kim lúc này cũng đã qua thời cực thịnh; triều chính rơi vào hủ bại. Kim Chương Tông (1189 - 1208) đẩy mạnh Hán hóa, mỗi lúc một xa rời với văn hóa Nữ Chân truyền thống khiến nhiều thế lực thủ cựu bất bình. Trong triều, Chương Tông nghi kị tông thân, trước sau đã sát hại ba vị hoàng thúc, lại sủng ái Nguyên phi Lý Sư Nhi, tín nhiệm ngoại thích Lý thị và bọn quyền thần làm lũng đoạn triều chính. Cộng thêm ở phía bắc Mông Cổ ngày một lớn mạnh, uy hiếp biên cương triều Kim. Chương Tông ba lần phái quân bắc phạt, tuy tiêu diệt được hai bộ tộc nhưng gián tiếp giúp cho tộc Mông Cổ loại bớt đối thủ, cuối cùng năm 1206, Thiết Mộc Chân thống nhất thảo nguyên xưng hãn và chuẩn bị chiến tranh với Kim.
Hàn Thác Trụ cầm quyền ở Tống, có ý thu phục Trung Nguyên để tăng thêm quyền lực cho mình. Vào năm 1203, sứ Tống Đặng Hữu Long đi sứ nước Kim trở về tấu rằng nước Kim suy yếu, vua Kim hôn dung nhu nhược bên ngoài có Mông Cổ quấy nhiễu vùng biên, trong nước dân tình khốn khổ, trong triều có sủng phi lộng thần nắm quyền, sẽ mau chóng mất nước. Hàn Thác Trụ nghe tin, rất vui mừng và tích cực chuẩn bị đánh Kim, khôi phục Trung Nguyên. Ngay mùa đông năm đó, Thác Trụ dùng Tham tri chính sự Trương Nham suất quân Hoài Đông, Đồng tri Xu mật viện Trình Tùng xuất quân Hoài Tây, Khâu Sùng giữ Minh châu, Tân Khí Tật cầm quân ở Chiết Đông, Lý Dịch làm Kinh Ngạc đô thống kiêm tri Tương Dương, bề ngoài nói là đề phòng giặc cướp gây hấn nhưng thực chất là chuẩn bị bắc phạt. Lại thêm có Tân Khí Tật, Trịnh Hữu Long phụ hòa vào, nên ý muốn bắc phạt của Thác Trụ càng mạnh.
Để bắt đầu việc bắc phạt, Thác Trụ đề nghị cho truy phong Nhạc Phi và Hàn Thế Trung. Trước đó vào thời Hiếu Tông, Hàn Thế Trung được truy phong làm Đan vương, Nhạc Phi chỉ được ban thụy Vũ Mục. Nay Thác Trụ cho lập miếu của Thế Trung, truy phong Nhạc Phi là Ngạc vương, Lưu Quang Thế là Phu vương (1204), lại truy đoạt quan tước của Tần Cối, cải thụy là Mậu Sửu (nghĩa là "xằng bậy"). Thác Trụ sai Hứa Cập Chi trấn giữ Kiến Khang, Phí Sĩ Dần giữ Hưng Nguyên nhưng cả hai không chịu liền bị bãi chức. Thác Trụ dùng Trương Hiếu Bá, Trương Nham làm Tham tri chính sự, Tiền Tượng Tổ đồng tri Xu mật viện sự. Vào tháng 12 ÂL năm 1204, Trần Tự Cường xin theo khuôn khổ thời Tống Hiếu Tông, lập ti Quốc dụng để kiểm soát tài chính. Ninh Tông nghe theo, dùng Trần Tự Cường, Phí Sĩ Dần, Trương Nham đứng đầu ti này. Hộ bộ thượng thư Lý Đại Tín dâng thư can gián nên bị Hàn Thác Trụ điều ra phủ Bình Giang. Ba kẻ kia nắm được ti Quốc dụng và ra sức vơ vét tiền của nhân dân khiến châu quận tao động. Thác Trụ tiếp tục cho đào sông, mở đường, chế tạo vũ khí, rèn luyện quân đội... chuẩn bị tiến lên miền bắc.
Nước Tống ra quân
Năm 1205, Ninh Tông cải nguyên là Khai Hi. Hàn Thác Trụ vui mừng, thúc giục chư tướng tiến binh, sai Trực học sĩ Lý Bích thảo chiếu phạt Kim vào tháng 5 ÂL năm 1206. Chiếu viết :Đạo trời vốn sẵn đẹp, Trung Quốc tất phải giữ cái lý của mình, lại được lòng người quy thuận, quyết báo cựu thù. Bọn Rợ ngu xuẩn kia dựa vào minh ước mà sinh sát trăm họ, tham lam vơ vét. Điều đó ta không muốn nhưng chúng cho là đúng. Chúng đã đưa quân cướp sách, đốt sạch khác nào bầy dã thú. Nay kẻ có tội phải bị trừng phạt; ta sẽ ra quân với thế lực hùng mạnh để giành lại quyền lợi cho trăm họ. Xa gần được tin thảy đều xúc động. Quân dân phải nhớ đến nỗi nhục của tổ tông, gắng sức lập công, không được bỏ lỡ cơ hội này.
Vua Kim dùng Bộc Tán Quỹ làm Tả phó nguyên soái, Hoàn Nhan Khuông làm Hữu phó nguyên soái cùng các tướng trấn giữ các vùng hiểm yếu. Quách Nghê sai Quách Trác, Lý Nhữ Dực tiến đánh Túc châu nhưng bị người Kim đánh bật ra, phải lui về Kì châu''.
Hi không nghe. Tháng 11 ÂL năm 1206, Hi lại sai dâng bản đồ đất Thục và bốn châu Thiểm Tây Giới, Thành, Hòa, Phượng cho Kim rồi sai gửi thư cho Trình Tùng đang ở Hưng Nguyên, đại ý nói người Kim muốn lấy hết Thiểm Tây, bảo Tùng xem giữ được nơi nào thì giữ, còn giữ không được thì dâng cho họ đi. Trình Tùng kinh hoàng, nhưng vì lúc đó quân Kim kéo tới, Tùng phải chạy về hướng tây, xuôi dòng đến Trùng Khánh, sai người cầu viện Hi, xin Ngô Hi thương tình cung cấp cho tiền bạc để sắm sửa thuyền bè chạy trốn, sau đó chạy về nam. Trong lúc đó quân Kim lại chuẩn bị đánh tiếp, đã phá Giai châu, đánh Tương Dương. Ở đất Thục, tên bán nước Ngô Hi đã lệnh bộ tướng Lợi Cát đưa quân Kim vào Thiểm, lại dâng bản đồ của bốn châu, lấy Tiền Sơn làm giới hạn. Hi lấy Hưng châu là hành cung, đổi niên hiệu, sắp đặt trăm quan y hệt như một tiểu triều đình. Hi lại chia 10 vạn quân của mình ra 10 đội, đặt thống soái, cho Lộc Kì, Phòng Đại Huân giữ Vạn châu, ngầm hẹn với người Kim cùng giáp công vào Tương Dương, dùng Tùy quân chuyển vận sứ An Bính làm Thừa tướng trưởng sử. Nhưng An Bính lại là một trung thần, không chịu được sự gian trá phản chủ của Hi, nên tìm cách chống lại. Triều đình lúc này cử Dương Phụ đến làm Tứ Xuyên chế trí sứ thay cho Trình Tùng cũng bị Ngô Hi đuổi đi sau đó vào triều tâu với Ninh Tông. Ninh Tông vẫn không tin, đến khi xác nhận sự việc là đúng, Ninh Tông mới dám hạ chiếu bố cáo tội ác của Thác Trụ, lại bãi chức Hữu thừa tướng của Trần Tự Cường đày ra Vĩnh châu, dời Tô Sư Đán đến Thiều châu rồi giết chết, Đặng Hữu Long bị biếm ra Viễn châu, Quách Nghê, Quách Soạn bị đưa đến đến Mai châu và Liên châu, đày gia thuộc của Thác Trụ ra biên cương. Nhiều đại thần như Trương Nham, Hứa Cập Chi, Diệp Thích, Hoàng Phủ Bân, Trình Tùng... có quan hệ với Thác Trụ đều bị mất chức. Lại phục chức cho Khâu Sùng, ít lâu sau lấy Tiền Tượng Tổ làm tả thừa tướng, kiêm Xu mật sứ, Vệ Kính và Lôi Hiếu Hữu làm Tham tri chính sự, Lâm Đại Trung Thiêm thư xu mật viện sự, Sử Di Viễn Đồng tri xu mật viện sự rồi Xu mật sứ, đồng thời phục hồi quan tước cho Tần Cối.
Đầu năm 1208, Ninh Tông hạ chiếu cải nguyên là Gia Định và quyết kế nghị hòa với Kim. Vương Nam được cử đi sứ, đề nghị theo cố sự những năm Tĩnh Khang, xưng nước bác nước cháu, tăng tiền thuế lên 30 vạn, 300 vạn tiền khao quân sĩ và hứa nộp đầu bọn Tô Sư Đán. Hoàn Nhan Khuông giao thư của Vua Kim cho Vương Nam đưa về nam, trong thư vẫn đòi thủ cấp của Thác Trụ. Đúng lúc đó, Tiền Tượng Tổ sai người đến Kim báo việc Xá Trụ đã bị giết, Hoàn Nhan Khuông bèn lệnh Vương Nam về nước đem thủ cấp Thác Trụ đến. Ninh Tông triệu bách quan đến bàn rồi đồng ý nộp đầu Thác Trụ, sai Lâm An phủ mở quan tài, cắt lấy thủ cấp đem kiêu của Lưỡng Hoài rồi lại chặt đầu Tô Sư Đán, gói hết lại đưa sang Kim, lại biếm Trần Tự Cường ra tận Lôi châu.
Tháng 5 ÂL, Vương Nam đem theo hai thủ cấp sang Kim, và tiếp tục bàn việc hòa nghị. Ngày Đinh Mùi, Kim Chương Tông ngự ở Ứng Thiên Môn, cho dựng sào treo thủ cấp Hàn Thác Trụ, Tô Sư Đán để chúng đại thần xem rồi cất vào ngục, sau lệnh Hoàn Nhan Khuông bãi binh về triều, trả lại các đất đã chiếm. Vương Nam ký vào bản hòa ước Gia Định có nội dung cơ bản gồm các khoản
Giữ nguyên biên giới như trước (Hoài Hà), hai bên từ nước chú (Kim) và nước cháu (Tống) đổi thành nước bác (Kim) và nước cháu (Tống), tuy vẫn được xưng là Đại Tống Hoàng Đế với Kim, vẫn bình đẳng về ngoại giao và tước vị (xưng Hoàng Đế, không phải xưng thần) nhưng Tống Đế phải gọi Kim Đế là bá phụ, tức tăng thêm 1 bậc từ chú thành bác
Tiền triều cống mỗi năm 300.000 lạng bạc, 300.000 tấm lụa
Tống phải nộp tiền khao quân vàng bạc mỗi loại 3.000.000 lạng
Đánh giá
Cuộc chiến này bị các sử gia triều Tống xem là một nỗi nhục cho quốc thể và đổ hết tội lỗi cho Hàn Thác Trụ. Thực lực của hai nước lúc này là ngang nhau, Tống mạnh ngang ngửa với Kim, nhưng quân Tống ra quân thiếu sự chuẩn bị kĩ lưỡng, thiếu cả sự phối hợp, nên tuy Tống thắng được vài trận đầu nhưng khi quân Kim trấn tĩnh trở lại đã lập tức phản công mạnh mẽ, tiến vào đất Tống. Lại thêm Ngô Hi ở Thiểm Tây làm phản nên tình thế của quân Tống rơi vào bất lợi. Nhưng triều Tống đã nhanh chóng dẹp được phản loạn ở Thiểm, Thục; giữ vững thế phòng ngự ở Lưỡng Hoài. Triều Kim thấy khó lòng vượt sông nên nảy ý buộc triều Tống giảng hòa, còn các tướng Tống cũng đa số ngại đối đầu lâu dài với Kim nên cũng chủ trương hòa nghị, cuối cùng cuộc chiến kết thúc với bản hòa ước Gia Định.
Kết quả trận chiến này không ảnh hưởng nhiều đến cục diện giữa hai nước. Quân Kim tuy giành ưu thế song chỉ có thể buộc triều Tống tăng tiền cống nạp, không được lợi về đất đai. Mười năm sau, Kim Tuyên Tông bị Mông Cổ xâm lược phải dời đô về Biện, sau đó thì quyết định đưa quân tiến xuống phía nam thì cuộc chiến giữa hai miền lại nổ ra một lần nữa.