✨Mông Cổ chinh phục Tây Hạ

Mông Cổ chinh phục Tây Hạ

Mông Cổ chinh phục Tây Hạ hay Chiến tranh Mông - Hạ là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự trỗi dậy và tham vọng bành trướng lãnh thổ, Đại hãn Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn đã chỉ huy một số cuộc đột kích đầu tiên chống lại Tây Hạ trước khi phát động một cuộc xâm lược toàn diện vào năm 1209. Điều này đánh dấu cả một cuộc xâm lược lớn đầu tiên do Thành Cát Tư Hãn thực hiện và cuộc xâm lược lớn đầu tiên của người Mông Cổ vào khu vực Trung Quốc ngày nay.

Sau một cuộc bao vây thủ đô Ngân Xuyên kéo dài gần một năm, mặc dù dòng sông chuyển hướng vô tình làm ngập trại của người Mông Cổ, vua Tây Hạ Tương Tông đã phải đầu hàng vào tháng 1 năm 1210. Trong gần một thập kỷ, Tây Hạ thần phục và hỗ trợ Mông Cổ trong Chiến tranh Mông-Kim, nhưng khi Thành Cát Tư Hãn xâm lược nhà Khwarezm-Shah Hồi giáo vào năm 1219, Tây Hạ đã cố gắng ly khai khỏi Đế quốc Mông Cổ và liên kết đồng minh với các nước Kim và Tống. Tức giận vì sự phản bội này, năm 1225, Thành Cát Tư Hãn gửi một đạo quân chinh phạt thứ hai vào Tây Hạ. Thành Cát Tư Hãn có ý định tiêu diệt toàn bộ nền văn hóa Tây Hạ, và chiến dịch của ông ta đã phá hủy một cách có hệ thống các thành thị và nhiều vùng nông thôn Tây Hạ, đỉnh điểm là cuộc bao vây kinh đô năm 1227 cùng với các cuộc tấn công vào lãnh thổ nước Kim. Tuy nhiên, khi cuộc bao vây bước vào giai đoạn cuối, Thành Cát Tư Hãn bất ngờ chết vì một nguyên nhân không rõ ràng vào tháng 8 năm 1227, mặc dù một số tài liệu nói rằng ông đã bị tử thương trong một trận chiến với quân Tây Hạ. Sau khi ông qua đời, Ngân Xuyên rơi vào tay người Mông Cổ và phần lớn dân số ở đây bị tàn sát.

Bối cảnh

Vương quốc Tây Hạ, còn được gọi là Tangut, hoặc Minya, nổi lên vào năm 1038, với cương thổ rộng nhất bao phủ các tỉnh Tây bắc Trung Quốc ngày nay như Ninh Hạ, Cam Túc, đông Thanh Hải, bắc Thiểm Tây, đông bắc Tân Cương, tây nam Nội Mông, và cực nam Ngoại Mông. Là một quốc gia khá nhỏ so với bấy giờ, Tây Hạ phải vật lộn chống lại các nước láng giềng lớn hơn và hùng mạnh hơn, như nhà Liêu ở phía Đông và Đông Bắc, nhà Tống ở phía Đông Nam. Khi nhà Kim nổi lên vào năm 1115 và thay thế nhà Liêu, Tây Hạ cuối cùng chấp nhận địa vị chư hầu cho đế quốc Kim mới nổi lên. Trong cuộc chiến tranh chống Tống, Tây Hạ tham chiến hỗ trợ quân Kim và nhờ đó đã đoạt được hàng ngàn dặm vuông của đất Tống.

Tuy nhiên, qua nhiều năm quan hệ giữa Hạ và Kim dần suy giảm. Sau cái chết của Tây Hạ Nhân Tông, Tây Hạ Hoàn Tông lên ngôi và quyền lực của Tây Hạ bắt đầu suy yếu. Mặc dù thua kém về mặt quân sự so với nước Kim láng giềng, Tây Hạ vẫn có ảnh hưởng đáng kể trên các thảo nguyên phía Bắc. Tây Hạ thường chào đón các thủ lĩnh bộ lạc Khắc Liệt do các mối quan hệ thương mại chặt chẽ trên vùng thảo nguyên và vì khả năng sử dụng những người tị nạn như những con tốt ở Cao nguyên Mông Cổ. Vào cuối thập niên 1190 và đầu thập niên 1200, Thiết Mộc Chân, sau này trở thành Thành Cát Tư Hãn đã bắt đầu củng cố quyền lực của ông ở Mông Cổ. Sau cái chết của thủ lĩnh Khắc Liệt Ong Khan trước Đế chế Mông Cổ mới nổi của Thiết Mộc Chân vào năm 1203, thủ lĩnh Khắc Liệt là Nilqa Senggum, dẫn đầu một nhóm nhỏ tùy tùng của ông tiến vào Tây Hạ. Tuy nhiên, sau khi đoàn tùy tùng của ông ta cướp bóc người dân địa phương, Nilqa Senggum bị trục xuất khỏi lãnh thổ Tây Hạ.

Các cuộc đột kích thăm dò

Lấy cớ là nơi ẩn náu tạm thời của kẻ thù Nilga Senggum ở Tây Hạ, Thiết Mộc Chân đã phát động một cuộc đột kích chống lại Tây Hạ vào năm 1205 ở vùng Edsin. Người Mông Cổ cướp bóc các khu định cư ở biên giới và một quý tộc Tây Hạ ở địa phương đã chấp nhận quyền lực tối cao của Mông Cổ. Trong một cuộc đột kích vào Cam Châu (Trương Dịch ngày nay), quân Mông Cổ đã bắt được một người con trai của vị tướng thủ thành. Cậu bé này gia nhập quân đội Mông Cổ và lấy tên Mông Cổ, Sát Hãn (察罕), và cuối cùng thăng cấp trở thành chỉ huy đội cận vệ riêng của Thiết Mộc Chân. Năm tiếp theo, 1206, Thiết Mộc Chân chính thức lấy hiệu là Thành Cát Tư Hãn, người cai trị tất cả người Mông Cổ, đánh dấu sự khởi đầu chính thức của Đế chế Mông Cổ, trong khi Lý An Toàn giết vua Tây Hạ Hoàn tông trong một cuộc đảo chính và tự mình lên ngôi Hoàng đế. Năm 1207, Thành Cát Tư Hãn dẫn đầu một cuộc đột kích khác vào Tây Hạ, xâm lược vùng Ordo và cướp phá Ô Hải, đơn vị đồn trú chính dọc sông Hoàng Hà, trước khi rút lui vào năm 1208.

Thành Cát Tư Hãn sau đó bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược toàn diện. Bằng cách xâm lược Tây Hạ, ông ta sẽ có thêm được một chư hầu thần phục, và cũng sẽ nắm quyền kiểm soát các tuyến đường lữ hành dọc theo "Con đường tơ lụa" để mang lại cho người Mông Cổ nguồn thu quý giá. Hơn nữa, từ Tây Hạ ông ta có thể tiến hành các cuộc tấn công vào nước Kim thậm chí còn giàu có hơn.

Cuộc chinh phạt đầu tiên

nhỏ|350x350px|Mông Cổ xâm lược Tây Hạ năm 1209 Năm 1209, Thành Cát Tư Hãn tiến hành chiến dịch thực sự chinh phục Tây Hạ. Lý An Toàn yêu cầu viện trợ từ nước Kim, nhưng hoàng đế mới của Kim là Hoàn Nhan Doãn Tế đã từ chối viện trợ. Sau khi đánh bại một lực lượng do Cao Lương Huệ chỉ huy bên ngoài Lạt Hài Thành (剌孩城), quân Mông Cổ đã chiếm được thành phố và tiến lên dọc theo sông Hoàng Hà, công phá một số thành trì trên đường tiến quân, đến pháo đài Khắc Di Môn (克夷門), nơi bảo vệ con đường duy nhất qua dãy núi Hạ Lan để đến kinh đô Ngân Xuyên của Tây Hạ. Với lực lượng đồn trú lên đến 7 vạn, cộng với 5 vạn quân tiếp viện, tòa thành tỏ ra quá khó để chiếm giữ, và sau hai tháng bế tắc, quân Mông Cổ quyết định dùng kế nghi binh, giả cách rút lui, dụ quân đồn trú do Ngụy Danh Linh Công (嵬名令公) đuổi theo rồi dễ dàng tiêu diệt họ trong một trận phục kích. Con đường thương mại đã rộng mở, Thành Cát Tư Hãn tiến về kinh đô Tây Hạ.

Được phòng thủ một cách vững chắc, kinh đô Ngân Xuyên của Tây Hạ có binh lực khoảng 15 vạn quân, gần gấp đôi quân Mông Cổ. Một trong những lợi thế của quân Tây Hạ trong cuộc chiến phòng thủ, là quân Mông Cổ thiếu trang bị và kinh nghiệm thích hợp để chiếm thành trì. Quân Mông Cổ đã tiếp cận kinh thành từ tháng 5, nhưng đến tận tháng 10 vẫn không thành công trong việc công phá thành. Thành Cát Tư Hãn đã cố gắng làm ngập lụt Ngân Xuyên bằng cách chuyển dòng sông và mạng lưới kênh tưới của nó vào tòa thành, và đến tháng 1 năm 1210, các bức tường thành của Ngân Xuyên gần như bị phá vỡ. Tuy nhiên, con đê dùng để chuyển dòng sông đã bị vỡ, và trận lụt sau đó đã quét sạch trại của người Mông Cổ, buộc quân Mông Cổ phải chiếm lấy vùng đất cao hơn. Bất chấp sự thất bại này, người Mông Cổ vẫn gây ra mối đe dọa đối với Tây Hạ. Do mùa màng bị phá hủy và không có sự viện trợ nào từ nước Kim, Lý An Toàn đành đồng ý phục tùng sự cai trị của người Mông Cổ, thể hiện lòng trung thành của mình bằng cách gả con gái của ông là Chaka cho Thành Cát Tư Hãn, chịu cống lạc đà, chim ưng và hàng dệt may cho Mông Cổ.

Tây Hạ làm chư hầu của Mông Cổ

Năm 1210, Tây Hạ tấn công nước Kim để trả thù cho việc từ chối viện trợ chống lại quân Mông Cổ. Năm sau, quân Mông Cổ tiến quân qua Tây Hạ và bắt đầu chiến tranh Mông-Kim kéo dài 23 năm. Cùng năm đó, Lý An Toàn thoái vị và sau đó qua đời, sau khi Tây Hạ Thần Tông lên ngôi.

Tuy nhiên, mặc dù đã hỗ trợ người Mông Cổ chống lại Kim, vào năm 1217 khi Thành Cát Tư Hãn yêu cầu họ giúp đỡ cho các chiến dịch Trung Á của ông nhưng Tây Hạ từ chối giao quân. Để đe dọa, quân Mông Cổ đã bao vây kinh đô Ngân Xuyên trước khi rút lui như một lời cảnh báo. Năm 1219, Thành Cát Tư Hãn phát động chiến dịch chinh phạt Khwarazmian ở Trung Á và một lần nữa yêu cầu viện quân từ Tây Hạ. Tuy nhiên, hoàng đế Tây Hạ lại từ chối tham gia chiến dịch, nói rằng nếu Thành Cát Tư Hãn có quá ít quân để tấn công Khwarazm thì ông ta không có tư cách là Đại hãn. Tức giận, Thành Cát Tư Hãn đã thề báo thù Tây Hạ, rồi dẫn quân đánh Khwarazm, trong khi đó Tây Hạ cố gắng liên minh với Kim và Tống để chống lại người Mông Cổ.

Cuộc chinh phạt thứ hai

nhỏ|350x350px|Mông Cổ xâm lược Tây Hạ, 1226-1227 Sau khi đánh bại Khwarazm vào năm 1221, Thành Cát Tư Hãn đã chuẩn bị quân đội của mình để trừng phạt Tây Hạ vì sự phản bội của họ. Trong khi đó, Thần Tông thoái vị vào năm 1223, nhường ngôi cho con trai là Tây Hạ Hiến Tông. Năm 1225, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ với lực lượng xấp xỉ 18 vạn quân. Sau khi chiếm Khara-Khoto, quân Mông Cổ bắt đầu một cuộc tiến quân về phía nam. Chỉ huy quân Tây Hạ là A Sa (阿沙) không đủ khả năng để đối đầu với quân Mông Cổ vì phải hành quân mệt mỏi về phía tây từ kinh đô Ngân Xuyên băng qua 500 km sa mạc. Hai tháng sau khi chiếm được Khara-Khoto, quân Mông Cổ tiến đến Kỳ Liên Sơn đóng quân bên bờ đông của dòng sông Etsin, cách Khara-Khoto khoảng 300 km về phía nam. Lúc này, Thành Cát Tư Hãn phân chia các cánh quân, cử tướng Tốc Bất Đài phụ trách các thành phố ở cực tây, trong khi quân chủ lực tiến về phía đông vào trung tâm của Tây Hạ. Sau đó, Thành Cát Tư Hãn cho vây hãm Túc Châu và chiếm được thành này sau 5 tuần. Sau đó, ông chuyển đến Trương Dịch, quê hương của vị tướng Sát Hãn của ông. Cha của Sát Hãn khi đó là tướng thủ thành, vì vậy Sát Hãn đã cố gắng đàm phán với cha mình. Tuy nhiên, vị phó tướng trong thành đã tổ chức binh biến, giết cha của Sát Hãn và không chịu đầu hàng.

Tháng 8 năm 1226, Thành Cát Tư Hãn cho quân tránh nóng ở dãy núi Kỳ Liên Sơn trong khi một cánh quân khác của ông tiếp cận Vũ Uy, thành trì lớn thứ hai của Tây Hạ. Vào mùa thu, Thành Cát Tư Hãn hội quân, chiếm Lương Châu, băng qua sa mạc Hạ Lan Sơn, đến tháng 11, bao vây Linh Vũ, chỉ cách Ngân Xuyên 30 km. Quân Mông Cổ tiêu diệt đông đảo quân Tây Hạ, được cho là đã đếm được 30 vạn xác lính Tây Hạ sau trận chiến.

Khi đến Ngân Xuyên vào năm 1227 và bao vây kinh đô này, Thành Cát Tư Hãn đã chuẩn bị xâm lược nước Kim để vô hiệu hóa bất kỳ mối đe dọa nào từ việc nhà Kim gửi quân cứu viện cho Tây Hạ cũng như tạo tiền đề cho một cuộc chinh phục cuối cùng. Thành Cát Tư Hãn đã cử một đạo quân dưới quyền con trai ông là Oa Khoát Đài và tướng Sát Hãn tiến về biên giới phía nam. Họ đã đẩy lùi quân Kim dọc theo Vị Hà và nam Thiểm Tây, thậm chí gửi một số quân vượt qua Tần Lĩnh đe dọa Khai Phong, kinh đô của Kim. Tốc Bất Đài đã vượt qua các phần phía bắc của dãy núi Lục Bàn, tiến quân ngoằn ngoèo từ thị trấn này sang thị trấn khác trong suốt tháng 2 và tháng 3, và chinh phục thung lũng sông Thao và vùng Lan Châu. Trong khi đó, Thành Cát Tư Hãn dẫn quân về phía nam, dọc theo sông Thanh Thủy.

Trở lại Tây Hạ, Ngân Xuyên bị bao vây trong khoảng 6 tháng, và Thành Cát Tư Hãn dù đang bận chỉ đạo một cuộc bao vây Long Đức, đã cử Sát Hãn đến thương thảo. Sát Hãn báo rằng vua Tây Hạ đồng ý đầu hàng, nhưng muốn một tháng để chuẩn bị cống phẩm. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 1227, Thành Cát Tư Hãn băng hà vì một nguyên nhân lịch sử không chắc chắn, và để không gây nguy hiểm cho chiến dịch đang diễn ra, cái chết của ông được giữ bí mật. Tháng 9 năm 1227, Tây Hạ Mạt chủ đầu hàng quân Mông Cổ và nhanh chóng bị xử tử. Quân Mông Cổ sau đó đã cướp bóc không thương tiếc Ngân Xuyên, tàn sát dân cư của thành phố, cướp bóc các lăng mộ của hoàng gia ở phía tây thành phố, và hoàn thành việc tiêu diệt nhà nước Tây Hạ.

Cái chết của Thành Cát Tư Hãn

Tháng 8 năm 1227, trong khi Ngân Xuyên gần kề thất thủ, Thành Cát Tư Hãn qua đời. Nguyên nhân chính xác cái chết của ông vẫn còn là một bí ẩn, và có nhiều nguyên nhân khác nhau được đưa ra, như do trọng thương trong một trận chiến với quân Tây Hạ, bị ngã ngựa, bệnh tật hoặc vết thương do săn bắn hoặc chiến đấu. Biên niên sử Galician-Volhynian cho rằng ông đã bị giết bởi quân Tây Hạ trong trận chiến, trong khi Marco Polo viết rằng ông chết sau khi bị nhiễm trùng bởi một vết thương do tên bắn trúng trong chiến dịch cuối cùng của mình. Các biên niên sử của người Mông Cổ sau này liên kết cái chết của Thành Cát Tư Hãn với một công chúa Tây Hạ bị lấy làm chiến lợi phẩm. Một biên niên sử từ đầu thế kỷ 17 thậm chí còn kể lại truyền thuyết rằng công chúa giấu một con dao găm nhỏ và đâm ông ta, mặc dù một số tác giả người Mông Cổ đã nghi ngờ phiên bản này và nghi ngờ nó là một giả thuyết do đối thủ Oirads tạo ra.

Hậu quả

nhỏ|191x191px|Đế chế Mông Cổ vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn băng hà năm 1227. Sự tàn phá của Tây Hạ trong chiến dịch thứ hai gần như là sự diệt chủng. Theo John Man, Tây Hạ ít được ai biết đến ngoài các chuyên gia trong lĩnh vực này chính vì chính sách của Thành Cát Tư Hãn là xóa sổ hoàn toàn. Ông cho rằng "Có một trường hợp được đưa ra rằng đây là ví dụ đầu tiên được ghi nhận về hành động diệt chủng cố ý. Đó chắc chắn là một cuộc diệt chủng rất thành công."

Tuy nhiên, một số thành viên của hoàng tộc Tây Hạ đã kịp di cư đến tây Tứ Xuyên, bắc Tây Tạng, thậm chí có thể là đông bắc Ấn Độ, trong một số trường hợp trở thành những thủ lĩnh cai trị địa phương. Một nhà nước Tây Hạ nhỏ được thành lập ở Tây Tạng dọc theo thượng nguồn sông Nhã Lung, trong khi các nhóm dân Tây Hạ khác định cư ở những tỉnh ngày nay là Hà Nam và Hà Bắc.

Bất chấp cái chết của Thành Cát Tư Hãn, Đế chế Mông Cổ cuối cùng đã thành công trong việc đánh bại Tây Hạ. Giờ đây, những người kế vị Thành Cát Tư Hãn tập trung vào việc thống nhất phần còn lại của Trung Quốc. Nhà Kim, vốn đang quay cuồng với những tổn thất lớn về đất đai và quân đội do chiến dịch Mông Cổ đang diễn ra kể từ năm 1211, cuối cùng đã sụp đổ vào năm 1234. Vương quốc Đại Lý ở tây nam Trung Quốc bị xâm lược vào năm 1253 và Nhà Tống ở miền nam Trung Quốc, sau hơn 4 thập kỷ xung đột bắt đầu vào năm 1235, đã đầu hàng vào năm 1279. Vó ngựa Mông Cổ chỉ thất bại tại Đại Việt năm 1258, và nhà Nguyên sau đó còn nếm mùi thất bại tại đây thêm 2 lần nữa vào các năm 1285 và 1288.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mông Cổ chinh phục Tây Hạ** hay **Chiến tranh Mông - Hạ** là một loạt các cuộc xung đột giữa Đế quốc Mông Cổ và vương quốc Tây Hạ của người Đảng Hạng. Với sự
**Quân Mông Cổ bao vây Khai Phong** từ năm 1232 đến năm 1233, kết quả là chiếm được Biện Kinh của triều Kim. Người Mông Cổ và Kim khi đó đã giao chiến trong gần
**Các cuộc xâm lược của Mông Cổ** đã được tiến hành trong suốt thế kỷ 13, kết quả là tạo ra một Đế quốc Mông Cổ vô cùng rộng lớn bao phủ phần lớn châu
nhỏ|phải|Giáp trụ của chiến binh Mông Cổ thumb|Cung thủ kỵ binh Mông Cổ. Ảnh trong tác phẩm [[Jami' al-tawarikh của Rashid-al-Din Hamadani.]] **Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông
**Tây Hạ** (chữ Hán: 西夏, bính âm: _Xī Xià_; chữ Tây Hạ: x20px|link= hoặc x20px|link=) (1038-1227) là một triều đại do người Đảng Hạng kiến lập trong lịch sử Trung Quốc. Dân tộc chủ thể
**Cách mạng Mông Cổ 1921** (), còn gọi là Cách mạng Dân chủ 1921, Cách mạng Ngoại Mông 1921, là một sự kiện quân sự và chính trị do những nhà cách mạng Mông Cổ
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Mông Cổ** là một quốc gia nội lục nằm tại nút giao giữa ba khu vực Trung, Bắc và Đông của châu Á. Lãnh thổ Mông Cổ gần tương ứng với vùng Ngoại Mông trong
**Đại hãn quốc Mông Cổ** () là chính phủ Mông Cổ (Ngoại Mông Cổ) giữa năm 1911 và 1919, và một lần nữa từ 1921 tới 1924. Vào mùa xuân năm 1911, một số quý
Văn hoá truyền thống của Mông Cổ là văn hoá thảo nguyên tiếp biến qua nhiều năm lịch sử, do đó, hình tượng con ngựa luôn gắn bó với người dân du mục thảo nguyên.
thumb|right|Lăng mộ số 3 của Hoàng đế Lý Nguyên Hạo thuộc quần thể Lăng mộ Tây Hạ. **Lăng mộ Tây Hạ** là một quần thể các lăng mộ nằm trên khu vực có diện tích
## Thời kỳ đầu tiên nhỏ|trái|Lãnh thổ của người Hung Nô dưới thời vua Mặc Đốn Vùng đất Mông Cổ ngày nay từng là nơi sinh sống của rất nhiều tộc người từ thời tiền
**Mông Cổ chinh phạt nhà Kim** (chữ Hán: 蒙古罰金; phiên âm: _Mông Cổ phạt Kim_), hay **Chiến tranh Mông–Kim** (chữ Hán: 蒙金戰爭; phiên âm: _Mông-Kim chiến tranh_), là cuộc xâm lược toàn diện của người
**Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt lần thứ nhất** hay **Kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ nhất** là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại
**Mộng Lân** (, chữ Hán: 梦麟, 1728 – 1758), tên tự là **Văn Tử**, tự khác là **Thụy Chiêm**, người thị tộc Tây Lỗ Đặc, dân tộc Mông Cổ, thuộc Mông Cổ Chính Bạch kỳ,
Là một phần của Mông Cổ xâm lược Châu Âu, Đế chế Mông Cổ đã xâm chiếm Rus Kiev vào thế kỷ XIII, phá hủy nhiều thành phố, bao gồm Ryazan, Kolomna, Moskva, Vladimir và
**_Mông Cổ bí sử_** (chữ Mông Cổ cổ điển: Tập tin:Monggol-un Nigucha Tobchiyian.png _Mongγol-un niγuca tobčiyan_, tiếng Mông Cổ Khalkha: Монголын нууц товчоо, _Mongolyn nuuts tovchoo_) là tác phẩm văn chương tiếng Mông Cổ lâu
**Đại Mông Cổ** là một khu vực địa lý, bao gồm các vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau, chủ yếu là các sắc tộc người Mông Cổ sinh sống. Nó bao gồm gần đúng nhà
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
**Cuộc chinh phục Hispania của La Mã** là một quá trình được bắt đầu bằng việc Cộng hòa La Mã chiếm giữ các vùng đất của người Carthage ở phía nam và phía đông vào
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Tây Tạng** (, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; (_Tây Tạng_) hay (_Tạng khu_)), được gọi là **Tibet** trong một số ngôn ngữ, là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal,
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Chiến tranh Mông Nguyên- Đại Việt** hay **Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên** (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt
**Cách mạng Mông Cổ 1911** (Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân Mông Cổ 1911) diễn ra khi khu vực Ngoại Mông Cổ tuyên bố độc lập từ triều đình Đại Thanh trong Cách
thumb|[[Bản đồ Catalan mô tả Marco Polo đi du lịch về phía Đông trong _Pax Mongolica_]] **Pax Mongolica** (tiếng Latinh nghĩa là "Thái bình Mông Cổ"), ít được biết đến hơn với tên **Pax Tatarica**
**Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝哲毅皇后; ; 25 tháng 7, năm 1854 - 27 tháng 3, năm 1875), là vị Hoàng hậu duy nhất của Thanh Mục Tông Đồng Trị Hoàng đế. Bà
**Lịch sử Tây Tạng từ năm 1950 đến nay** bắt đầu từ sau trận Qamdo năm 1950. Trước đó, Tây Tạng đã tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc vào năm 1913. Năm 1951, người
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
thumb|Đền [[Parthenon, một ngôi đền được xây dựng cho nữ thần Athena nằm trên khu vực Acropolis ở Athens, là một trong những biểu tượng tiêu biểu nhất cho văn hóa và sự tài hoa
Đại hãn **Mông Kha** (tiếng Mông Cổ: Tập tin:Mongke qaghan.svg Мөнх хаан (Mönkh khaan), còn gọi là **Mông Ca** (theo tiếng Trung: 蒙哥); sinh khoảng năm 1208 và mất năm 1259). Ông là đại hãn
**Đông Ấn Tây Ban Nha** (; tiếng Filipino: _Silangang Indiyas ng Espanya_) là lãnh thổ Tây Ban Nha tại Châu Á-Thái Bình Dương từ 1565 đến 1899. Bao gồm Philippines, Quần đảo Mariana, the Quần
**Triều đại chinh phục** trong lịch sử của triều đình Trung Quốc đề cập đến một số triều đại thành lập bởi các dân tộc phi Hán mà cai trị một phần hoặc toàn bộ
**Tô Ma Lạt Cô** (chữ Hán: 苏麻喇姑, bính âm: _Sumalagu_; ? - 24 tháng 10 năm 1705) là một Thị nữ hầu hạ thân cận của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu. Dù không phải là
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Lã Mông** (chữ Hán: 吕蒙, 178 - 220), tên tự là **Tử Minh** (子明), được xưng tụng là **Lữ Hổ Uy** (呂虎威), là danh tướng cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Thư Cừ Mông Tốn** () (368–433) là một người cai trị của nước Bắc Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc, và là vua đầu tiên của thị tộc Thư
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
nhỏ|230x230px|Xứ Đoài (màu hồng) ở phía tây Thăng Long **Sơn Tây** thường gọi là **Xứ Đoài** là vùng đất cổ của người Việt, một trong bốn trọng Trấn ở phía tây thành Thăng Long xưa
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Hạ Long** (trước năm 1994 là thị xã **Hồng Gai**) là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Thành phố được đặt theo tên của vịnh Hạ Long, vịnh biển nằm
**Thiểm Tây** (, ) là một tỉnh của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Thiểm Tây là tỉnh đông thứ mười sáu về số dân, đứng thứ mười lăm về kinh tế Trung
**Chính phủ Vichy**, hoặc **Phát xít Pháp** hay chỉ gọi đơn giản là **Vichy** là thuật ngữ thường dược dùng để miêu tả chính phủ Pháp hợp tác với phe Trục từ tháng 7 năm
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa