✨Phục bích tại châu Á
Phục bích (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay từng bị lật đổ bởi các cuộc cách mạng và đảo chính trong nước, thậm chí phải lưu vong do nạn ngoại xâm nhưng sau đó khôi phục lại được ngôi vị của mình.
Dưới đây là bản danh sách liệt kê tất cả những cuộc phục bích trong lịch sử nhân loại trên phạm vi toàn châu Á tự cổ chí kim, ngoài những vị vua chính thống được công nhận ở đây có bổ sung thêm những nhân vật có quyền lực tương đương quân chủ bao gồm: các vị vua tự xưng tồn tại ngắn ngủi, những vị quyền thần thế tập (Lãnh chúa, Mạc phủ), những vị đứng đầu một chính thể độc lập kiểu như Tiết độ sứ hay Thống đốc và quân phiệt cát cứ thời loạn hoặc những vị nhiếp chính cùng hoàng tử giám quốc.
Trung Quốc – Mông Cổ
Nhà Thương
- Thương Thái Tông Tử Thái Giáp: Sau khi Trọng Nhâm qua đời, Thái Giáp được Y Doãn đưa lên ngôi. Tuy nhiên, vì mải mê hưởng lạc và chuyên quyền mà ông bị Y Doãn đày ra Đổng Cung. Sau 3 năm nắm quyền, Y Doãn nhận thấy Thái Giáp đã thay đổi nên đã đưa ông về và trao trả lại quyền hành.
Nhà Chu
- Chu Văn Vương Cơ Xương: năm thứ 23 đời Trụ Vương nhà Ân, Tây Bá hầu Cơ Xương vào chầu thiên tử bị bắt giam ở ngục Dữu Lý, trong thời gian này Chu Văn Vương chuyên tâm nghiên cứu Kinh Dịch và chế tác ra dây Văn của đàn Cầm. Sáu năm sau, nhờ bày tôi là Khương Tử Nha hiến kế dâng mĩ nữ và ngọc ngà châu báu cho Trụ Vương mà Tây Bá mới được thả về trở lại làm vua nước Chu.
- Chu Huệ Vương Cơ Lãng (tại vị: 676 TCN–675 TCN, phục vị:673 TCN–652 TCN): Năm 675 TCN, đại thần Biên Bá bất mãn Chu Huệ Vương chiếm đoạt đất đai của quan viên làm nơi vui chơi, liền phối hợp cùng 5 đại thần khác, mượn quân chư hầu về đánh thiên tử. Huệ vương bỏ chạy sang nương nhờ nước Trịnh, Biên Bá lập vương tử Đồi lên ngôi vua. Năm 673 TCN, Trịnh Lệ công cùng Quắc công liên minh giúp Huệ vương, mang quân đánh kinh đô Lạc ấp, giết chết Vương tử Đồi và dựng lại Huệ vương.
- Chu Tương vương Cơ Trịnh (tại vị:651 TCN–636 TCN, phục vị:635 TCN–619 TCN): Năm 636 TCN, vì Chu Tương vương phế truất Địch vương hậu mà nước Địch đã đem quân sang tấn công. Tương vương chạy sang nước Trịnh nhưng không được Trịnh Văn công cử binh giúp đỡ. Vương tử Đái được lập làm vua. Đến năm 635 TCN, Tương vương cầu cứu nước Tấn, Tấn Văn công hội chư hầu đuổi quân Địch và giết chết Vương tử Đái, Tương Vương nhờ đó phục vị.
Các nước chư hầu
- Nước Trịnh: Trịnh Chiêu Công Cơ Hốt (tại vị:701 TCN–700 TCN, phục vị:697 TCN–695 TCN): Năm 700 TCN, Trịnh Chiêu công sai Tế Trọng đi giao hảo với nước Tống. Do quan hệ của họ mẹ mà Công tử Đột được Tống Trang công ủng hộ, buộc Tế Trọng phế Chiêu công. Chiêu công thất thế chạy sang nước vệ, công tử Đột lên ngôi trở thành Trịnh Lệ công. Năm 697, Tế Trọng phát động binh biến, Lệ công bỏ trốn, Tế Trọng đón Chiêu công về phục ngôi. Trịnh Lệ Công Cơ Đột (tại vị:700 TCN–697 TCN, phục vị:679 TCN–673 TCN): Năm 695 TCN, nhân lúc Trịnh Chiêu công ra ngoài, Cao Cừ Di mang quân đánh úp giết chết, sau đó lập công tử Vỉ lên ngôi. Chẳng bao lâu, Trịnh Tử Vỉ bị Tề Tương công giết, Cao Cừ Di lại lập người con khác của Trịnh Trang công là công tử Anh lên ngôi. Năm 679 TCN, Tề Hoàn công sai Tân Tu Vô đem quân giúp Trịnh Lệ công về nước, trên đường về bắt được tướng Phó Hà. Phó Hà xin ông tha tội và hứa sẽ giúp Lệ công, Lệ công đồng ý, Phó Hà bèn về kinh giết Tử Anh cùng 2 người con rồi đưa Lệ công về phục ngôi. Trịnh Thành Công Cơ Hỗn (tại vị:584 TCN–583 TCN, phục vị:581 TCN–571 TCN): Năm 583 TCN, Trịnh Thành công sang triều kiến nước Tấn, Tấn Cảnh công biết chuyện vua Trịnh từng hội minh với nước Sở bèn bắt giữ, công tử Ban lập anh của Thành công là Cơ Nhu làm vua mới. Trịnh Hy Công Cơ Khôn Ngoan (tại vị:581 TCN, phục vị:570 TCN–566 TCN): Năm 581 TCN, Trịnh quân Nhu bị lật đổ, do vua cha vẫn còn bị giam cầm bên Tấn quốc nên thế tử Cơ Khôn Ngoan tạm thời gánh vác chính trường nước Trịnh. Sau khi Trịnh Thành công được thả, Khôn Ngoan liền từ nhiệm. Năm 570 TCN, Trịnh Thành công qua đời, Cơ Khôn Ngoan kế vị trở thành Trịnh Hy công. Năm 688 TCN, Tề Tương công tiến quân vào nước Vệ. Kiềm Mâu cầu cứu Chu Trang Vương nhưng quân nhà Chu yếu thế không địch nổi quân Tề, Kiềm Mâu bỏ chạy sang nhà Chu. Tề Tương công giết hai công tử và phục lập Huệ công. ** Vệ Thành Công Cơ Trịnh (tại vị:635 TCN–632 TCN, phục vị:632 TCN, tái phục vị:631 TCN–600 TCN): Năm 632 TCN, Thành công muốn liên minh với Sở Thành vương nhưng bị người dân nổi dậy phản đối, Thành công phải chạy đến đất Tương Ngưu, em của ông là công tử Vũ chấp chính. Năm 632 TCN, sau khi Vũ từ chối lên ngôi, Tấn Văn công muốn phục ngôi cho Thành công. Vì Chuyên Khuyển, cận thần Thành công, đã giết chết Vũ nên Tấn Văn công tức giận, đêm quân đánh Vệ, giao Thành công cho nhà Chu, lập con thứ ba của Vệ Văn công là công tử Hà nối ngôi. Năm 631 TCN, nhờ Lỗ Hi công nói giúp mà Thành công được về nước, lại tìm cách giết Hà, phục vị lần thứ 2. Cơ Thu được lập lên ngôi, tức Vệ Thương công. Năm 546 TCN, chính biến xảy ra, Thương công bị giết, Hiến công được đón về phục vị. Tuy vậy, Trang công làm quân chủ không lâu thì bị người nước Vệ đuổi, phải bỏ chạy rồi bị giết. Do sự can thiệp của nước Tề, Vệ Ban Sư – vị quân chủ được nước Tấn ủng hộ – bị đánh đuổi, Vệ Khởi được lập lên ngôi, nhưng Vệ Khởi cũng chỉ chấp chính được một thời gian ngắn thì bị đại phu Thạch Phố mang quân trục xuất phải bỏ chạy sang nước Tề. Năm 476 TCN, Thạch Phố đón Xuất công trở về nước làm quân chủ lần thứ hai.
- Nước Tống: ** Tống Tương Công Tử Tư Phủ (tại vị:650 TCN–639 TCN, phục vị:639 TCN–637 TCN): Năm 639 TCN, Tương công trúng bẫy của Sở Thành vương, bị bắt giữ. Sở Thành cương đem quân đánh Tống, người nước Tống tạm lập Công tử Mục Di lên làm vua để giữ nước. Mùa đông năm đó, Sở Thành vương mời Lỗ Hi công đến hội minh ở đất Bạc. Lỗ Hi công xin Sở Thành vương thả Tống Tương công về, Sở Thành vương nghe theo.
- Nước Cử: ** Cử Giao Công Kỷ Cuồng (tại vị:528 TCN, phục vị:518 TCN─481 TCN): Không lâu sau khi Kỷ Cuồng lên ngôi, công tử Canh Dư được Bồ Dư hầu đón về nước lập làm quốc quân, tức Cộng công, Kỷ Cuồng phải chạy trốn sang Tề. Đến năm 518 TCN, người nước Cử vì không chịu nổi sự bạo ngược của Cộng công nên lại nổi loạn khiến Cộng công phải bỏ chạy sang nước Lỗ, Giao công được đón về nước trở lại ngôi báu.
- Nước Sái: ** Sái Chiêu Hầu Cơ Thân (tại vị:518 TCN–509 TCN, phục vị:506 TCN–491 TCN): Năm 509 TCN, Chiêu hầu sang triều kiến Sở Chiêu vương thì bị giam lỏng không cho về. Sau này Chiêu hầu thấy Đường Thành công cũng bị bắt như mình bởi chấp nhận dâng ngựa quý cho Nang Ngoã mới được phóng thích nên đành hiến áo cầu và ngọc bội cho Nang Ngõa, ông mới được thả về nước sau 3 năm bị giam cầm.
- Nước Đường: Đường Thành Công (tại vị: ? –507 TCN, phục vị:506 TCN–505 TCN): Năm 507 TCN, Thành công đến triều kiến nước sở, bị giam lỏng. Đến 506 TCN, nước Đường dâng lên ngựa quý, Thành công được thả về. Quân sở liên tiếp đại bại, Chiêu vương chạy trốn sang nước Tùy. Năm 505 TCN, Chiêu vương cử Thân Bao Tư, sang nước Tần cầu cứu. Tần Ai công (anh Thái phu nhân Bá Doanh, cậu của Chiêu vương) đồng ý giúp quân. Trong khi liên quân Tần–Sở đang giao chiến kịch liệt chưa phân thắng bại thì nội bộ nước Ngô có loạn, Hạp Lư buộc phải lui binh, Sở Vương nhờ đó phục quốc. Sở Hiến Huệ Vương Hùng Chương (tại vị:488 TCN–479 TCN, phục vị:479 TCN–432 TCN): Năm 479 TCN, Bạch công Thắng đẩy lui quân Ngô, lấy cớ đem chiến lợi phẩm dâng vua, đem binh vào Dĩnh đô, bắt giam Sở Huệ vương, an trí ở Cao Phủ rồi tự lập làm vua. Vài tháng sau, Diệp công Thẩm Chư Lương dẫn quân về Sính Đô đánh bại Bạch công, Bạch công trốn sang Sơn Trung và tự tử, Thẩm Chư Lương đón Sở Huệ vương phục ngôi. Nhờ nhẫn nhục, Câu Tiễn lấy được lòng tin của Ngô vương Phù Sai, được thả về nước Việt. Năm 473 TCN, Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, trở thành vị bá chủ cuối cùng của thời Xuân Thu.
- Nước Mân Việt: ** Mân Việt Vương Sô Vô Chư (tại vị:232 TCN–220 TCN, phục vị:209 TCN–192 TCN): Năm 220, Vô Chư đầu hàng Tần Thủy Hoàng, nước Mân Việt bị đổi thành quận Mân Trung, Vô Chư giữ vai trò Thổ ty, được gọi là Quân trưởng. Năm 209 TCN, các cuộc nổi dậy chống Tần bùng lên mạnh mẽ, Vô Chư cũng hưởng ứng tự xưng là Mân Việt Vương trở thành thế lực cát cứ độc lập, nhưng khi nhà Tần sụp đổ ông lại không được Hạng Vũ phân phong. Sau đó, Vô Chư quay giáo ủng hộ Hán Vương Lưu Bang phản Tây Sở, nhờ công trạng này nên năm 202 TCN khi nhà Hán thành lập ông chính thức được Hán Cao Đế cho phép phục quốc.
- Nước Tề: ** Tề Vương Điền Giả (tại vị:208 TCN, phục vị:205 TCN): Năm 208, nghe tin Tề Liệt Vương Điền Đam tử trận, Điền Giả được lầm làm vươn. Điền Vinh đem quân về nước giành ngôi, Điền Giả không chống nổi phải chạy sang Sở, Điền Vinh lập con của Điền Đam là Điền Thị làm Tề Vương. Năm 205 TCN, sau khi đánh đuổi Điền Vinh chạy lên Bình Nguyên, Hạng Vũ lại đưa Điền Giả trở về nước Tề phục vị.
- Nước Lang Nha và Nước Yến: ** Yến Kính Vương Lưu Trạch (tại vị:181 TCN–180 TCN, phục vị:179 TCN–178 TCN): Năm 181 TCN, Doanh Lăng Hầu Lưu Trạch nhờ thành hôn với cháu của Lã thái hậu nên được phong làm vua nước Lang Nha. Năm 180 TCN, Lã thái hậu chết, họ Lã tiến hành bạo loạn. Tề Ai Vương Lưu Tương ở phía tây khởi binh muốn đánh vào Trường An dẹp loạn nhưng không đủ quân, bèn giả hẹn Lưu Trạch đến nước Tề rồi bắt làm con tin để đoạt hết quân Lang Nha, nước Lang Nha do vậy sáp nhập vào nước Tề. Năm 179 TCN, loạn họ Lã bị dẹp, các đại thần tôn lập Đại Vương Lưu Hằng lên ngôi, tức Hán Văn Đế. Tề Ai Vương đành rút quân về nước, Hán Văn Đế xét công trạng của ông, bèn cải phong ông làm Yên Vương thay cho vị trí của Lã Thông, tuy nhiên chỉ 1 năm sau Lưu Trạch bị bệnh mất.
- Nước Thành Dương: ** Thành Dương vương Lưu Hỉ (tại vị:177 TCN–169 TCN, phục vị:164 TCN–144 TCN): Năm 169 TCN, Hán Văn Đế dời Thành Dương Cung Vương Lưu Hỉ sang làm Hoài Nam Vương để phụng tự cho em trai mình là Hoài Nam Lệ Vương Lưu Trường. Được 4 năm, Văn Đế cải lập con Lưu Trường là Lưu An làm Hoài Nam vương, Lưu Hỉ trở về làm vua ở Thành Dương lần thứ hai.
Đế quốc Hung Nô
- Ô Tịch thiền vu (tại vị:57 TCN, phục vị:56 TCN): Năm 57 TCN, một quý tộc Hung Nô là Ô Tịch tự xưng là thiền vu, nhưng chẳng bao lâu bị Hô Hàn Da thiền vu đánh bại nên đã tự mình phế đi phong hiệu. Năm 56 TCN, nội bộ Hung Nô phát sinh phản loạn, một người con trai của hàng tướng Lý Lăng (không rõ tên) đã ủng hộ Ô Tịch lên làm thiền vu lần thứ hai, nhưng sự việc thất bại nhanh chóng khiến cả hai đều bị Hô Hàn Da thiền vu sát hại.
Nhà Tây Hán
*Hán Nhũ Tử Lưu Anh (tại vị:5-8, phục vị:25) Năm 8, Hán Nhũ Tử bị quyền thần Vương Mãng ép phải nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Tân (8-23). Lúc đó Nhũ Tử Anh mới 4 tuổi, bị giáng phong làm Định An công. Năm 23, quân khởi nghĩa Lục Lâm đánh vào Trường An giết chết Vương Mãng. Thủ lĩnh quân Lục Lâm là hoàng thân Lưu Huyền được lập lên ngôi, tức là vua Canh Thủy Đế. Canh Thủy Đế sớm có tư tưởng hưởng lạc, trong khi các lực lượng quân phiệt cát cứ còn nhiều, chính quyền Canh Thủy suy yếu nhanh chóng. Năm 25, Lưu Anh lên 20 tuổi. Tướng Phương Vọng ở Bình Lăng thấy chính quyền Canh Thủy đã loạn, bèn lập ông lên ngôi để chống Lưu Huyền. Lưu Huyền sai Lý Tùng mang quân trấn áp, Phương Vọng thế yếu không chống lại được Lý Tùng, cuối cùng cả Phương Vọng và Lưu Anh đều bị giết chết.
Nhà Tây Tấn
*Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung (tại vị:290-301, phục vị:301-307) Tháng giêng năm 301, Triệu Vương Tư Mã Luân theo kế của Tôn Tú ép cháu ruột là Tấn Huệ Đế phải nhường ngôi cho mình, an trí Huệ Đế ra thành Kim Dung. Tề vương Tư Mã Quýnh vốn có công cùng Luân phế Giả hậu chỉ được ban chức nhỏ mà sinh lòng oán hận, nhân dịp Luân cướp ngôi bèn sai người cầm hịch triệu tập một loạt vương thất như Hà Gian vương Tư Mã Ngung, Thành Đô vương Tư Mã Dĩnh, Thường Sơn vương Tư Mã Nghệ, Tân Dã công Tư Mã Hâm tham chiến để trừ bỏ Luân. Tháng 4 năm đó, Tề vương Quýnh hợp binh với các vương công, thanh thế rất lớn, Tư Mã Luân nhanh chóng tan rã thua trận và bị bắt. Tề vương Quýnh cùng các vương công tiến vào kinh, bắt Luân và phe cánh Tôn Tú, rồi sai người tới thành Kim Dung rước Huệ Đế về cung, lập lại làm vua.
Nước Đại
*Đại Dương Đế Thác Bạt Hột Na* (tại vị:325-329, phục vị:335-337) Năm 327, Trung Sơn công Thạch Hổ của nhà Hậu Triệu phái quân tấn công Thác Bạt Hột Na, Thác Bạt Hột Na bại trận phải dời thủ phủ đến Đại Ninh (nay thuộc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc). Năm 329, Hạ Lan bộ và các tù trưởng khác cùng nhau lập con trai của một người anh em họ của Thác Bạt Hột Na là Thác Bạt Ế Hòe lên làm Đại vương, Thác Bạt Hột Na đào thoát đến Vũ Văn bộ. Năm 335, Thác Bạt Ế Hòe giết chết cữu phụ là Hạ La Ái Đầu, tức tù trưởng của Hạ Lan bộ, các bộ lạc do vậy đã nổi loạn, Thác Bạt Hột Na từ Vũ Văn bộ trở về, lại được ủng hộ lên làm Đại vương. Đại Liệt Đế Thác Bạt Ế Hòe** (tại vị:329-335, phục vị:337) Năm 335, Thác Bạt Ế Hòe bị mất ngôi phải đào thoát đến Hậu Triệu. Năm 337, Thác Bạt Ế Hòe được tướng Lý Mục của Hậu Triệu hộ tống về Đại Ninh, các thuộc hạ cũ của Thác Bạt Ế Hòe lần lượt quy phục, Thác Bạt Hột Na thất bại lại phải chạy đến Tiền Yên, sau đó không rõ tung tích.
Nhà Đông Tấn
*Tấn An Đế Tư Mã Đức Tông (tại vị:396-403, phục vị:404, tái phục vị:405-419) Năm 403, Sở vương Hoàn Huyền yêu cầu Tấn An Đế ban một chiếu chỉ nhường ngôi cho mình, Hoàn Huyền sau đó chiếm đoạt ngai vàng và trở thành Vũ Điệu Hoàng Đế của nước Sở. An Đế bị giáng làm Bình Cố vương, được quản thúc tại gia. Năm 404, tướng của Hoàn Huyền là Thái thú Hạ Bì Lưu Dụ, nhận thấy Hoàn Huyền thiếu tài quản trị và sự ủng hộ nên đã lập một liên minh tiến hành nổi dậy chống lại Hoàn Huyền, bắt đầu tại Kinh Khẩu (nay thuộc Trấn Giang, Giang Tô) và vươn đến Kiến Khang chỉ trong vòng vài ngày. Hoàn Huyền chạy trốn về lãnh địa cũ ở Giang Lăng (nay thuộc Kinh Châu, Hồ Bắc) song đem An Đế đi cùng, quân đồng minh của Lưu Dụ là Lưu Nghị, Hà Vô Kị và em trai ông là Lưu Đạo Quy đến vùng lân cận Giang Lăng và đánh bại quân của Hoàn Huyền. Hoàn Huyền cố đào tẩu một lần nữa, song bị quân của tướng Mao Cừ giết chết. An Đế được phục vị tại Giang Lăng bởi các quan Vương Khang Sản và Vương Đằng Chi. Tuy nhiên, cháu trai của Hoàn Huyền là Hoàn Chấn sớm sau đó đã đánh úp Vương Khang Sản và Vương Đằng Chi và chiếm Giang Lăng, bắt An Đế làm con tin mặc dù bề ngoài tôn vinh An Đế là hoàng đế. Năm 405, Giang Lăng thất thủ trước quân của Lưu Nghị, Hoàn Chấn chạy trốn, An Đế được chào đón trở lại Kiến Khang.
Nước Tây Tần
*Tần Vũ Nguyên Đế Khất Phục Càn Quy (tại vị:380-400, phục vị:409-412) Năm 400, Hậu Tần Văn Hoàn Đế Diêu Hưng phát động một chiến dịch lớn chống lại Tây Tần, gần như toàn bộ quân Tây Tần bị bắt. Tần Vũ Nguyên Đế Khất Phục Càn Quy nhận thấy không thể duy trì đất nước hơn nữa, lệnh cho các quan lại đầu hàng Hậu Tần, trong khi bản thân mình lại theo về phía Nam Lương. Lo ngại Khất Phục Càn Quy có thể cố tái lập đất nước, vua Nam Lương là Thốc Phát Lợi Lộc Cô đã cho quân theo sát ông. Khất Phục Càn Quy bèn phái cử các huynh đệ của mình đến kinh thành Tây Bình của Nam Lương làm con tin, sau đó lợi dụng lúc lính Nam Lương nới lỏng canh giữ, ông đã trốn đến Hậu Tần và được phong chức Quy Nghĩa hầu. Diêu Hưng trao toàn bộ số quân lính bị bắt cho Khất Phục Càn Quy và cho ông trấn thủ kinh thành của Tây Tần trước đây là Uyển Xuyên, vì vậy trên thực tế Khất Phục Càn Quy lại có được vị trí vốn có trước đó, song nay là một chư hầu của Hậu Tần. Ông đã nhanh chóng lập lại cấu trúc chính quyền, song các quan lại nay có tước vị thấp hơn để thể hiện sự khuất phục trước Hậu Tần. Năm 409, khi thấy thời cơ đã chín muồi, Khất Phục Càn Quy tự xưng là Tần vương, phục hưng nước Tây Tần, đồng thời cải niên hiệu.
Đãng Xương Quốc
*Lương Di Định (tại vị:541—550, phục vị:550—564) Năm 550, quân chủ nước Đãng Xương là Lương Di Định bị người tù trưởng trong họ là Lương Lão Cam đánh úp bất ngờ phải bỏ chạy sang Tây Ngụy nương náu, Lương Lão Cam tự lập làm vua Đãng Xương. Thừa tướng Tây Ngụy là Vũ Văn Thái phái các tướng như: Vũ Văn Quý, Đậu Lư Nịnh, Sử Nịnh đem quân thảo phạt Lương Lão Cam. Lương Lão Cam không chống nổi sức tấn công của Tây Ngụy, bị bắt sống đem ra pháp trường sử trảm để thị chúng, Lương Di Định được đưa trở lại làm vua Đãng Xương.
Nước Cao Xương
*Cao Xương Hiến Văn Vương Khúc Nhã Thái (tại vị:601-613, phục vị:620-623)
Năm 613, một người trong tông thất họ Khúc (không rõ tên) đã làm cuộc chính biến, lật đổ đương kim quân chủ Khúc Nhã Thái rồi tự lập làm Cao Xương Vương, đổi niên hiệu là Hòa Nghĩa. Sau bảy năm lưu vong, Khúc Nhã Thái mới có cơ hội về nước, ông đã đánh bại Hòa Nghĩa Vương để khôi phục địa vị của mình.
Nhà Tùy
*Tùy Cung Đế Dương Đồng (tại vị:618-619, phục vị:619) Năm 619, Trịnh vương Vương Thế Sung tuyên bố rằng Hoàng Thái Chủ mệnh thiện vị cho mình, kết thúc triều Tùy. Vương Thế Sung đăng cơ và trở thành hoàng đế của nước Trịnh, giáng Dương Đồng làm Lộ quốc công. Một tháng sau, phụ tử Bùi Nhân Cơ và Bùi Hành Nghiễm cùng với Vũ Văn Nho Đồng, Vũ Văn Ôn và Thôi Đức Bản lập mưu giết chết Vương Thế Sung và phục vị cho Dương Đồng. Tuy nhiên, do tin tức bị bại lộ nên những người chủ mưu quyết định khởi sự khi công tác chuẩn bị còn dang dở, Dương Đồng trở lại ngôi cửu ngũ chí tôn chưa ấm chỗ thì đã bị phế. Anh của Vương Thế Sung là Tề vương Vương Thế Uyển thuyết phục Vương Thế Sung rằng phải giết chết Dương Đồng để ngăn ngừa các âm mưu tương tự lặp lại, Vương Thế Sung chấp thuận và khiển huynh tử là Đường vương Vương Nhân Tắc cùng gia nô Lương Bách Niên đi ép buộc Dương Đồng phải uống thuốc độc.
Nhà Đường
phải|nhỏ|228x228px|Đường Duệ Tông
- Đường Trung Tông Lý Hiển (tại vị: 684–684, phục vị:705–710): Năm 684, Trung Tông vì muốn phong cha vợ làm Tể tướng mà bị Võ Thái hậu phế truất làm Lư Lăng vương, giam lỏng ở biệt sở. Lý Đán được đưa lên ngôi, tức Duệ Tông. Một thời gian sau, Võ hậu phế Lý Đán, tự xưng hoàng đế, lập ra nhà Chu. Năm 697, Lý Hiển thay Lý Đán làm thái tử. Năm 705, Võ Tắc Thiên bị buộc nhường ngôi cho Lý Hiển. Lý Hiển phục ngôi, bỏ quốc hiệu Chu, nhà Đường tái lập.
- Đường Duệ Tông Lý Đán (tại vị: 684–690, 710–712): Năm 690, Võ hậu phế Lý Đán, tự xưng đế, đổi quốc hiệu Chu. Lý Đán trở thành người kế vị, gọi là Hoàng tự. Năm 705, sau chính biến cung đình, Trung Tông phục vị. Năm 710, Trung Tông qua đời, Vi hậu nắm giữ triều chính, đưa Lý Trọng Mậu lên ngôi, xưng Thương Đế. Ít lâu sau, công chúa Thái Bình và Lý Long Cơ khởi binh diệt tan thế lực của Vi hoàng hậu, ép Thương Đế hạ chiếu nhường ngôi cho Lý Đán. Ban đầu Lý Đán cố từ chối, nhưng sau đó đã chấp thuận đăng cơ lần thứ hai.
- Đường Hy Tông Lý Nghiễm (tại vị: 873–881, phục vị:885–886, tái phục vị:887–888): Năm 881, quân Hoàng Sào đánh vào kinh đô, Hy Tông bỏ chạy đến Thành Đô. Hoàng Sào xưng đế, đặt quốc hiệu Đại Tề, nhưng chỉ đến năm 884 đã bị giệt. Năm 885, Hy Tông vừa quay lại kinh đô thì gặp phải các cuộc nổi loạn khác. Năm 886, Hy Tông tiếp tục phải chạy về Hưng Nguyên. Lý Uẩn được lập làm hoàng đế trong thời gian ngắn thì bị giết. Nhờ sự trợ giúp của các tướng lĩnh, Hy Tông trở về kinh đô phục vị vào năm 887.
- Đường Chiêu Tông Lý Kiệt (tại vị:888–900, phục vị:901–904): Năm 900, Đường Chiêu Tông trong một dịp uống say đã hạ sát vài thái giám và cung nữ, hoạn quan Tả trung uý Lưu Quý Thuật bất bình dẫn cấm quân đột nhập vào nội cung phối hợp với Hữu quân Trung uý Vương Trọng Tiên bắt giam ông, sau đó bọn họ ngụy tạo chiếu thư với nội dung là Chiêu Tông nhường ngôi cho Thái tử Lý Dụ để lui về hậu cung làm Thái thượng hoàng. Tuy nhiên, việc chuyển giao quyền lực này chỉ diễn biến trong 3 tháng thì có Tuyên Vũ Tiết độ sứ Chu Toàn Trung được sự phối hợp với Tể tướng Thôi Dận đã bày mưu tập hợp các hữu quân bộ tướng lật đổ được Lý Dụ rồi rước Chiêu Tông trở lại ngai vàng
Nhà Nam Tống
nhỏ|phải|Tống Cao Tông *Tống Cao Tông Triệu Cấu (tại vị:1127-1129, phục vị:1129-1162) Năm 1129, hai tướng Miêu Phó và Lưu Chánh Ngạn phát động cuộc chính biến, nhằm tiêu diệt phe chống đối của Xu mật xứ Vương Uyên cùng thế lực nội thị. Do Tống Cao Tông không chấp nhận những yêu cầu của phản quân nên bị ép phải nhường ngôi cho Thái tử Ngụy quốc công Triệu Phu, vì thái tử lúc ấy mới 3 tuổi nên Miêu Phó và Lưu Chính Ngạn dùng vũ lực buộc Cao Tông xuống chiếu để Long Hựu thái hậu Mạnh thị buông rèm nhiếp chính, chủ yếu là họ dễ bề thao túng triều đình. Cao Tông đành lui về làm Thái thượng hoàng, được tôn làm Duệ Thánh Nhân Hiếu Hoàng Đế. Tuy nhiên, chỉ hơn 1 tháng sau, danh tướng Hàn Thế Trung đem quân về kinh đánh dẹp loạn đảng. Triệu Phu cũng chết không rõ nguyên nhân, nhờ đó Cao Tông phục vị.
Nhà Nguyên
nhỏ|phải|Nguyên Văn Tông *Nguyên Văn Tông Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi (tại vị:16/10/1328-3/4/1329, phục vị:8/9/1329-2/9/1332) Năm 1329, Nguyên Văn Tông Tugh Temür làm lễ thoái vị trao Ngọc tỷ truyền quốc cho anh là Chu vương Kuśala khi vị thân vương này vừa ở Mạc Hoa về tới Đại Đô, ông được lập làm Hoàng trữ để kế vị sau này. Thực ra Kuśala được quần thần chọn làm người nối ngôi Thái Định Đế nhưng do ở quá xa chưa về đăng cơ thì trong triều đã xảy ra nội loạn, Bình Chương Chính Sự Đảo Thích Sa lập con của Thái Định Đế là Borjigin Arigabag lên ngôi tức Nguyên Thiên Thuận Đế. Được sự hỗ trợ của Khu mật viện sự El Temür, Tugh Temür dẹp tan cuộc nội loạn này rồi tuyên bố tạm thời đăng cơ để chờ anh về tiếp nhiệm, tuy nhiên khi biết tin mình được tôn vị Kuśala lập tức xưng đế ngay tại Hòa Lâm, sau đó mới kéo quân về kinh kế vị ngai vàng. Sáu tháng sau, Tugh Temür lại nghe lời xúi giục của Khu mật viện sự El Temür bày mưu mời Minh Tông dự yến đầu độc chết rồi tuyên bố phục vị.
Nước Chu và Nước Ngô
nhỏ|phải|Trương Sĩ Thành *Ngô Vương Trương Sĩ Thành (tại vị:1354-1357, phục vị:1363-1367) Năm 1356, Chu Thành Vương Trương Sĩ Thành phái binh tấn công Trấn Giang của Ngô Vương Chu Nguyên Chương nhưng thất bại. Ngô Vương thừa thắng tiến đánh các khu vực như Thường Châu, Trường Hưng, Giang Âm, Thường Thục của Chu Vương, bắt sống em Chu Vương là Trương Sĩ Đức. Lúc này, Phương Quốc Trân (đã đầu hàng nhà Nguyên) đánh chiếm Côn Sơn và Thái Thương, khiến Trương Sĩ Thành lưỡng đầu thọ địch, chính quyền nước Chu rơi vào cảnh nguy khốn, lòng người dao động. Năm 1357, Trương Sĩ Thành quyết định đầu hàng nhà Nguyên, để tìm kiếm sự giúp đỡ, ông được phong chức Thái uý, trở thành công cụ trấn áp quân khởi nghĩa nông dân của triều đình. Năm 1363, Trương Sĩ Thành phái Lữ Trân đánh hạ An Phong, giết chết thủ lĩnh quân Khăn đỏ Lưu Phúc Thông. Đến lúc này, ông đã khống chế một khu vực rộng lớn: nam đến Thiệu Hưng, bắc vượt Từ Châu đến Kim Câu thuộc Tế Ninh, tây giáp Nhữ - Dĩnh và Hào - Tứ, đông gặp biển, dài hơn 2000 dặm, có mấy chục vạn giáp binh. Sau nhiều lần thỉnh cầu nhà Nguyên phong vương đều bị cự tuyệt, ông liền rời bỏ triều đình, tự ý xưng vương, đặt quốc hiệu là Ngô.
Nhà Minh
nhỏ|phải|Minh Anh Tông *Minh Anh Tông Chu Kì Trấn (tại vị:1435-1449, phục vị:1457-1464) Năm 1449, Minh Anh Tông do nghe lời một viên hoạn quan thân tín là Vương Chấn nên trực tiếp chỉ huy binh sĩ tấn công rợ Ngõa Lạt. Kết quả ông thua trận và bị bắt ở sự biến Thổ Mộc bảo, việc này khiến người em trai là Thành vương Chu Kỳ Ngọc lên kế vị, tức Minh Đại Tông. Triều đình nhà Minh dùng vàng bạc để chuộc cựu hoàng, Anh Tông lên đường trở về Trung Quốc sau 1 năm làm tù binh. Khi qua An Định Môn, vua em Đại Tông cùng văn võ bá quan ra đón, rồi đưa ông về ở trong Nam cung và ông trở thành Thái Thượng hoàng. Sau đó, bởi triều thần có người muốn Thái Thượng hoàng phục tịch khiến Đại Tông nổi giận, Đại Tông trở nên dè dặt Thái Thượng hoàng và cho người giám sát ông. Năm 1457, bằng Đoạt môn chi biến, Anh Tông trở lại Hoàng vị của mình sau 7 năm bị giam lỏng.
Diệp Nhĩ Khương hãn quốc
*Shodja ad-Din Ahmad Khan (tại vị:1631—1632, phục vị:1635—1639) Năm 1632, Shodja ad-Din Ahmad Khan bị lật đổ, chỉ tại ông trọng dụng các Amir của Aksu vì trước đây các Amir đó đã ủng lập ông, điều này khiến các Amir ở Diệp Nhĩ Khương bất mãn. Kết quả, họ tẩy tray Shodja ad-Din Ahmad Khan, đưa anh trai ông là Qilich Khan lên ngôi, Shodja ad-Din Ahmad Khan bỏ chạy sang Aksu. Năm 1635, Thống đốc Turpan là Abdul Rahhan nổi dậy ở phía đông, đem binh đánh chiếm Aksu, Shodja ad-Din Ahmad Khan chạy trốn trở lại Diệp Nhĩ Khương. Shadi và Zhuo thuyết phục Qilich Khan thu nhận Shodja ad-Din Ahmad Khan, sau đó không lâu, Shadi và Zhuo giết Qilich Khan, thiết lập lại Shodja ad-Din Ahmad Khan.
Thổ Tạ Đồ Hãn Bộ
*Tsedendorj (tại vị:1760-1793, phục vị:1794-1816) Năm 1793, Thổ Tạ Đồ Hãn đời thứ chín là Tsedendorj phạm trọng tội, Thanh Cao Tông hạ lệnh phế trừ hãn vị, con trai trưởng của ông là Minjer Dorzi được quyền thay thế. Nhưng chỉ một năm sau, Minjer Dorzi đột nhiên qua đời, Thanh đế cho phép Tsedendorj khôi phục địa vị cũ.
Nhà Thanh và Mãn Châu quốc
nhỏ|phải|Thanh Cung Tông *Thanh Cung Tông Ái Tân Giác La Phổ Nghi (tại vị:1908-1912, phục vị:1917, tái phục vị:1934-1945) Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Long Dụ Hoàng thái hậu xuống bút phê chuẩn "Thanh đế thoái vị chiếu thư", theo các "điều kiện ưu đãi của Hoàng đế nhà Thanh" ký với Trung Hoa Dân Quốc mới. Bấy giờ, Thái hậu Long Dụ sở dĩ phải chấp nhận bởi trước đó bà đã được Viên Thế Khải hối lộ 20.000 lượng vàng, và bị đe dọa sẽ bị chặt đầu nếu từ chối. Theo đó, Thanh Tốn Đế Phổ Nghi vẫn giữ lại tước vị hoàng đế và được chính quyền Cộng hòa đối xử với danh nghĩa như một hoàng đế ngoại quốc. Ông và triều đình được phép ở lại trong Tử Cấm Thành, các cung điện riêng như Dưỡng Tâm Điện cũng như được ở lại trong Di Hoà Viên, hằng năm Chính phủ Cộng Hoà sẽ trợ cấp cho hoàng gia 4 triệu lượng bạc và duy trì một vị hoàng đế cũng như một triều đình nhà Thanh chỉ còn lại hư danh trong Tử Cấm Thành và tồn tại song song với chính quyền dân quốc. Năm 1917, quân phiệt Trương Huân vốn là người trung thành với nhà Thanh nên đã phục hồi đế vị cho Phổ Nghi trong 12 ngày, từ ngày 1 tháng 7 đến 12 tháng 7. Phổ Nghi bị trục xuất khỏi Tử Cấm Thành năm 1924 bởi Quân phiệt Phùng Ngọc Tường, sau khi lang thang ở một số nơi, Phổ Nghi chạy vào Công sứ quán Nhật. Năm 1932, Phổ Nghi được đế quốc Nhật Bản dựng lên làm Quốc trưởng Mãn Châu Quốc, đến năm 1934 thì đã chính thức đăng quang Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc với niên hiệu Khang Đức.
Đại Mông Cổ quốc
nhỏ|phải|Chí Tôn Bảo Vương *Triết Bố Tôn Đan Ba - Chí Tôn Bảo Vương Bogd Khan (tại vị:1911–1915, phục vị:1921–1924) Năm 1915, Trung Quốc cùng đế quốc Nga và Đại Mông Cổ quốc ký với nhau một hiệp ước ở Kyakhta. Ngoại Mông đã hủy bỏ sự độc lập danh nghĩa, nhưng vẫn duy trì mức độ tự trị cao, Bogk Dokhan vẫn là nhà cai trị trên thực tế. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười đã diễn ra ở Nga khiến tình hình chính trị ở Mông Cổ cũng thay đổi, lãnh đạo bạch vệ của Nga Grigory Mikhaylovich Semyonov thành lập một lực lượng tại khu vực hồ Baikal, tuyên bố sẽ giúp Bogd Khan thành lập một nhà nước mới của người Mông Cổ. Các hoàng tử thế tục bị chính phủ Mông Cổ gạt ra ngoài lề, họ không hài lòng với nền chính trị thần quyền của Bogd Khan và có xu hướng nghiêng về chính trị đối với Trung Quốc. Năm 1919, ngoại vụ đại thần của Đại Mông Cổ quốc là Balingiin Tserendorj yêu cầu chính phủ Bắc Kinh giúp đỡ, Tổng thống Cộng hòa Trung Hoa Từ Thế Xương đã phái tướng Từ Thụ Tranh gửi quân tới Mông Cổ, bắt Bagd Khan vào quản thúc tại gia. Đại Mông Cổ quốc trở thành khu tự trị Ngoại Mông, trao lại toàn bộ quyền lực cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, Từ Thế Xương tuyên bố rằng Mông Cổ đã bãi bỏ chế độ quân chủ và đơn phương xé bỏ "Hiệp ước Trung Quốc-Nga-Mông Cổ" năm 1915. Năm 1921, chính quyền Nga Xô viết đem binh tấn công, trục xuất hoàn toàn quân đội Trung Quốc khỏi Ngoại Mông, Bogd Khan trở lại thiết lập nền quân chủ lần thứ nhì, tuyên bố khôi phục Đại Mông Cổ quốc.
Việt Nam
Hồng Bàng thị
*Hùng Duệ Vương Huệ Lang Không rõ năm bao nhiêu trước công nguyên, Hùng Duệ Vương (tức Hùng Vương thứ XVIII) Huệ Lang truyền cho con trưởng nối ngôi xưng là Hùng Kính Vương (tức Hùng Vương thứ XIX). Nhưng Hùng Kính Vương chỉ làm vua được 6 năm thì mất nên Hùng Duệ Vương lại lên làm vua lần thứ hai, do thời gian làm vua quá ngắn ngủi nên sử sách không thấy đề cập, sự kiện này chỉ được chép trong các thần tích và ngọc phả đền Hùng.
Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ
*Khúc Tiên Chủ Khúc Thừa Dụ (tại vị:880-882, phục vị:905-907) Năm 880, Tiết độ sứ Tăng Cổn bỏ thành Đại La, có người Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ thừa cơ chiếm lấy, tự xưng là Tiết độ sứ, lúc đó nhà Đường còn đang bận dẹp loạn Hoàng Sào nên tạm thời chấp nhận. Năm 882, nhà Đường cử Cao Mậu Khanh sang Tĩnh Hải quân làm Tiết độ sứ, rồi sau đó lần lượt là: Tạ Triệu, An Hữu Quyền, Tôn Đức Chiêu, Chu Toàn Dục, Độc Cô Tổn...Trong giai đoạn này, không thấy thư tịch nào nhắc đến hành trạng của Khúc Thừa Dụ, tuy nhiên theo tác giả Lê Văn Siêu đề cập trong sách "Việt Nam văn minh sử", thì Khúc Thừa Dụ có một quan hệ gần gũi nào đó với các quan cai trị người phương Bắc từ nhiều năm trước, thậm chí là quan hệ "thông gia", nên ông đã sớm được đi lại và tiếp cận với công việc cai trị tại Đại La ở mức độ nhất định. Do đó, nhận thấy khí số nhà Đường chưa tận, ông đã chủ động tiếp nhận việc điều động Tiết độ sứ mới của triều đình mà lui về làm hào trưởng. Năm 905, Tiết độ sứ Độc Cô Tổn mới sang đã rất độc ác mất lòng người, bị gọi là "Ngục Thượng thư" (thượng thư ác). Tổn lại không cùng phe với Chu Ôn nên chỉ vài tháng lại bị Chu Ôn dời tiếp ra đảo Hải Nam và giết chết, Tĩnh Hải quân do đó không có người cai quản. Khúc Thừa Dụ, khi đó đang là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến ra chiếm đóng phủ thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ. Ông khéo léo dùng danh nghĩa "xin mệnh nhà Đường" buộc triều đình nhà Đường phải công nhận chính quyền của ông, do đó năm 906, vua Đường phong thêm cho Khúc Thừa Dụ tước "Đồng bình chương sự".
Đại Lịch quốc và Đại Nam quốc
*Đại Nam Nhân Huệ Đế Nùng Trí Cao (tại vị:1041, phục vị:1048, tái phục vị:1052-1055) Năm 1041, Nùng Trí Cao xưng đế lập ra nước Đại Lịch. Vua Lý Thái Tông sai tướng đi đánh dẹp bắt được, sau đó tha tội cho làm Quảng Nguyên mục và gia phong tước Thái bảo. Năm 1048, Nùng Trí Cao chiếm giữ động Vật Ác (phía tây Cao Bằng) và đổi vùng đất dưới sự quản trị của mình thành nước Đại Nam. Lý Thái Tông sai Quách Thịnh Dật đi đánh, Trí Cao lại thua và xin đầu hàng. Năm 1052, Trí Cao lại làm loạn khôi phục quốc hiệu là Đại Nam đem quân sang tấn công nhà Tống, kết cục bị tướng Tống là Địch Thanh đánh bại chạy sang Đại Lý rồi chết ở đó.
Nhà Lý
*Lý Cao Tông Lý Long Trát* (tại vị:1175-7/1209, phục vị:11/1209-1210) Năm 1209, Lý Cao Tông tin lời Phạm Du, sát hại tướng Phạm Bỉnh Di. Bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Cao Tông cùng Phạm Du không chống nổi, bỏ kinh thành chạy trốn. Quách Bốc đánh chiếm kinh thành, tôn Lý Thẩm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, trong khi đó Hoàng tử Sảm chạy về Hải Ấp, dựa vào Trần Lý và em vợ Trần Lý là Tô Trung Từ để đánh Quách Bốc. Cuối năm đó, Trần Lý và Tô Trung Từ mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc rước Lý Cao Tông trở lại kinh đô Thăng Long. Lý Huệ Tông Lý Sảm** (tại vị:1210-1214, phục vị:1216-1224) Năm 1214, Lý Huệ Tông cùng thái hậu Đàm thị lo lắng về thế lực họ Trần nên sai người đi với các tướng sĩ ở đạo Bắc Giang, hẹn ngày cùng phát binh đánh Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, khi ra quân đối trận, Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu. Trần Tự Khánh chiếm được kinh đô Thăng Long, sai người đem thư lên Lạng Châu gặp Huệ Tông xin Huệ Tông trở về, nhưng Huệ Tông không nghe. Tự Khánh bèn triệu tập các vương hầu, đón Huệ Văn Vương Lý Nguyên Vương đến Hạc Kiều, lập làm vua mới. Huệ Tông ở ngoài dân gian lần lượt dựa vào sứ quân khác để chống lại họ Trần nhưng đều thất bại, năm 1216 đành quyết định quay về Thăng Long. Trần Tự Khánh sai bộ tướng Vương Lê đem thủy quân đi đón Huệ Tông, sau đó phế truất Lý Nguyên Vương xuống làm Huệ Văn Vương như cũ.
Nhà Lê sơ
*Lê Chiêu Tông Lê Y (tại vị:1516, phục vị:1516-1522) Năm 1516, Nguyên quận công Trịnh Duy Sản cùng một số đại thần giết vua Lê Tương Dực, lập Lê Chiêu Tông làm vua mới. Chiêu Tông vừa lên ngôi thì An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ đang đóng quân ở dinh Bồ Đề, nghe tin Trịnh Duy Sản giết Tương Dực, liền nổi giận vượt sông, đốt phá phố xá ở kinh thành, định cùng với con em gia thuộc mưu sự phục thù. Duy Sản bèn sai lực sĩ Đàm Cử đón Chiêu Tông về Tây Đô, Trần Cảo nhân cơ hội đó tiến quân vào chiếm Đông Kinh. Cảo tự xưng làm Thiên Ứng Đế, ra triều đường coi chính sự. Thái sư Thiệu quốc công Lê Quảng Độ đầu hàng, Nguyễn Hoằng Dụ đành tạm ngưng việc báo thù Tương Dực để cùng Duy Sản diệt "giặc Cảo", khôi phục hoàng triều Lê. Ngày 23 tháng 3 âm lịch năm 1516, tại Đông Kinh xảy ra trận chiến ác liệt giữa quân của Lê Chiêu Tông và Trần Cảo. Cảo liên tục dùng súng, hỏa khí bắn ra để chặn quân nhà vua, các tướng triều đình ra sức công phá, hết sức dũng mãnh, cuối cùng đuổi được Trần Cảo khỏi Đông Kinh. Hôm sau Chiêu Tông được Lương Văn hầu Nguyễn Thì Ung cùng văn thần Đỗ Nhạc rước về kinh, ông chính thức khôi phục ngôi báu, ban chiếu đại xá, đặt niên hiệu là Quang Thiệu.
Nhà Lê trung hưng
*Lê Kính Tông Lê Duy Tân* (tại vị:1599-1600, phục vị:1600-1619) Mùa Hạ năm 1600, trấn thủ Thuận Hóa Nguyễn Hoàng ở Thăng Long đã hơn 8 năm, bị chúa Trịnh Tùng ghen ghét không cho về trấn. Nguyễn Hoàng tìm cách kích động bọn Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga nổi lên chống lại nhà Lê, theo về họ Mạc. Tiếp theo, Nguyễn Hoàng kiếm cớ xin được cầm quân đánh dẹp rồi bí mật đốt hết doanh trại, trốn về Thuận Hóa. Lòng người trong kinh kì dao động, vua Kính Tông phải theo Trịnh Tùng chạy về Thanh Hoa, dư đảng họ Mạc nhân đó lại nổi lên, vua Mạc Kính Cung từ Cao Bằng kéo quân tràn vào giành lấy thành Thăng Long, mẹ của Mạc Mậu Hợp lâm triều tự xưng là quốc mẫu. Tháng 8 âm lịch, Trịnh Tùng đưa quân phản công, chiếm lại Đông Kinh, bắt giết quốc mẫu họ Mạc, đuổi Mạc Kính Cung, rước vua Lê Kính Tông phục bích. nhỏ|phải|Lê Chiêu Thống tới đại bản doanh quân Thanh thụ phong [[An Nam quốc vương]] Lê Thần Tông Lê Duy Kỳ** (tại vị:1619-1623, phục vị:1623-1643, phục vị:1649-1662) Năm 1623, chúa Trịnh Tùng qua đời, con thứ là Trịnh Xuân làm loạn. Trịnh Tráng mang vua Lê Thần Tông chạy vào lánh nạn trong Thanh Hóa, Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng thừa cơ kéo về đánh chiếm Gia Lâm 1 tháng. Sau đó không lâu, quân Lê-Trịnh quay lại đánh, Kính Khoan lại thu quân chạy lên Cao Bằng, chúa Trịnh Tráng đưa vua Lê trở lại kinh thành Thăng Long. *Lê Mẫn Đế Lê Duy Khiêm (tại vị:1787, phục vị:1788-1789) Năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tấn công Bắc Hà. Lê Chiêu Thống sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân chống cự nhưng thất bại thảm hại, Vũ Văn Nhậm kéo quân tới Thăng Long, Chiêu Thống nghe lời Hữu Chỉnh, bỏ Thăng Long chạy đi Kinh Bắc. Sau đó, Nguyễn Văn Hòa, bộ tướng của Văn Nhậm, đuổi kịp quân nhà Lê. Chiêu Thống thân chinh cầm quân ngự chiến, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về kinh xử tử, quân nhà vua tan vỡ, Dương Đình Tuấn hộ vệ vua chạy sang trại Sơn Lộc. Năm 1788, bầy tôi nhà Lê là Đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Địch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống bảo vệ thái hậu và con trai Chiêu Thống qua cửa ải Thủy Khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cầu xin cứu viện. Thanh Cao Tông Ái Tân Giác La Hoằng Lịch hạ lệnh cho Tôn Sĩ Nghị chỉ huy đưa Chiêu Thống về Thăng Long, phong làm An Nam quốc vương. Cuộc phục vị này được duy trì đến ngày mồng 5 tết Kỷ Dậu (1789) thì chấm dứt theo trận Ngọc Hồi – Đống Đa của vua Quang Trung, kết cục ông phải lưu vong sang Trung Quốc rồi chết ở bên đó.
Chúa Nguyễn ở Nam Hà
nhỏ|phải|Nguyễn Thế Tổ *Nguyễn Vương Nguyễn Phúc Ánh (tại vị:1780-1782, phục vị:1782-1783, tái phục vị:1784-1785, hựu tái phục vị:1787-1802) Năm 1782, Thái Đức Đế Nguyễn Nhạc của nhà Nguyễn Tây Sơn cùng em trai là Nguyễn Huệ mang quân thủy bộ Nam tiến, Nguyễn Ánh thất trận bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp (rừng Romdoul là khoảng khu vực phía bắc tỉnh Svay Rieng). Quân Tây Sơn đuổi theo, bắt vua quan Chân Lạp là Ang Eng hàng phục và buộc tất cả những người Việt ở đấy phải về nước nhưng Nguyễn Ánh lại trốn kịp, ông chạy sang Xiêm La. Sau đó ít lâu, được sự hỗ trợ của Hoa kiều, Nguyễn Ánh đã quay trở lại khôi phục lực lượng chỉ trong vài tháng, tuy vậy sự xung đột vẫn diễn ra dai dẳng khiến ông nhiều phan phải lận đận chạy rong khắp chốn, trên lịch sử gọi là "Gia Long tẩu quốc". Năm 1783, sau nhiều phen giao tranh kịch liệt, Nguyễn Ánh lại thất thế đành chạy sang Xiêm lần nữa, năm sau ông được quân Xiêm đưa về Nam Bộ phục vị. Năm 1785, chúa Nguyễn Phúc Ánh liên kết với quân Xiêm La đem binh về tấn công quân Tây Sơn nhưng bị đại bại trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, kết quả quân bản bộ chúa Nguyễn tan tác chỉ còn vài trăm người nên nhà chúa buộc lòng phải chốn chạy sang nương nhờ người Xiêm. Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh xin vua Xiêm cho ra ở khu vực Samsen và Bangpho (trong tiếng Việt gọi là Đồng Khoai hoặc Long Kỳ, hiện nay đều thuộc nội thành Bangkok). Ở đây, đoàn chúa Nguyễn lo khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi...để nuôi nhau. Còn Nguyễn Huệ, sau khi đánh dẹp xong, liền đem đại quân về Quy Nhơn, cử Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định. Trong thời gian lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh thấy vua Xiêm ngày càng tỏ ra không vừa lòng vì lực lượng quân Nguyễn trở nên quá mạnh, ông viết thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định. Ngoài ra, khi này nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp giữa anh em Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ khiến việc phòng bị ở Gia Định bị lỏng lẻo. Năm 1787, Nguyễn Ánh cùng gia quyến lên thuyền bỏ về hòn Tre (Trúc Dữ). Sau đó Nguyễn Ánh đi sang đảo Cổ Cốt rồi cho mẹ và vợ con ở đảo Phú Quốc. Nguyễn Ánh đi tiếp và chiếm đất Long Xuyên (Cà Mau), vài tháng sau tiến đến cửa biển Cần Giờ. Sau mấy năm củng cố xây dựng lực lượng, lại gặp lúc Nguyễn Huệ còn phải lo kháng chiến chống quân Thanh mà không thể chú ý mặt nam, Nguyễn Phúc Ánh đã trục xuất được quân Tây Sơn và hoàn toàn trở lại làm chủ vùng Gia Định vào năm 1789. Đến năm 1802, Nguyễn Ánh tiêu diệt hoàn toàn thế lực Nguyễn Tây Sơn, xây dựng nên triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Vương quốc Chiêm Bà
Chiêm Thành
Vương triều thứ Chín: *Chế Củ (tại vị:1061-1069, phục vị:1069-1074) Năm 1069, quốc vương Chiêm Thành là Chế Củ muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, cho ngựa trắng và cho phép họ mua lúa ở Quảng Châu, Chiêm Thành không tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa. Mọi hành động của Chiêm Thành đều bị người Việt cho là khiêu khích, vua Lý Thánh Tông thân chinh dẫn đại quân đi thảo phạt. Trải qua nhiều trận giao chiến kịch liệt, quân nhà Lý bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp, vua Chiêm vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Thái uý Lý Thường Kiệt cầm tù, cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng. Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chiêm trong kinh thành Phật Thệ, sau đó cho phóng hỏa thiêu rụi nơi này rồi rút quân về. Vua Chiêm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây gai, tay bị trói sau lưng do 5 người lính Võ đô dắt, quyến thuộc đi sau cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý (vùng đất từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) để chuộc tội nên được tha sau gần bốn tháng mất ngôi.
Vương triều thứ Mười: *Chế Man Na (tại vị:1080–1081, phục vị:1086-1113) Năm 1080, Quốc vương Chiêm Thành Harivarman III nhường ngôi cho con trai là Chế Man Na bấy giờ mới lên 8 tuổi. Năm 1081, Harivarman III qua đời, các quan đại thần cho rằng Chế Man Na còn nhỏ khó có thể đảm đương quốc gia đại sự nên ủng lập chú của Chế Man Na là Paramabhodhisatva lên ngôi. Năm 1086, Chế Man Na tổ chức binh biến nhằm giành lại vương quyền, Paramabhodhisatva binh bại đành chấp nhận thoái vị.
Vương triều thứ Mười Hai: *Trâu Á Na (tại vị:1167-1190, phục vị:1191-1192) Năm 1190, quân Chân Lạp ồ ạt tiến sang Chiêm Thành, kinh đô Vijaya thất thủ trước ưu thế vượt trội của kẻ địch. Quốc vương Trâu Á Na bị bắt trong cuộc chiến, vua Chân Lạp Jayavarman VII phong cho người anh rể của mình là In làm "vua Vijaya", lấy hiệu là Surya Jayavarmadeva. Bấy giờ, hoàng thân người Chiêm lưu vong tại Chân Lạp là Bố Trì đã được vua Chân Lạp tin tưởng giao quyền lãnh đạo một đạo quân lớn tiến đánh nước Chiêm Thành. Bố Trì vốn là một hoàng tử Chiêm Thành nhưng từ năm 1182 đã sang sống ở Chân Lạp, được vua Jayavarman VII thu nhận làm tướng. Nhờ có công dẹp loạn xứ Malyan thuộc Chân Lạp, Bố Trì được vua Chân Lạp tin dùng, phong làm Phó vương. Sau khi tiến vào Panduranga, Bố Trì tự lập làm vua của xứ này, xưng hiệu là Sri Suryavarman. Nước Chiêm Thành bấy giờ bị chia làm hai phần, các xứ miền bắc trên thực tế trở thành thuộc địa của nước Chân Lạp, riêng xứ Panduranga vẫn giữ quyền tự chủ nhờ vào mối quan hệ tốt giữa Sri Suryavarman với vua Jayavarman VII. Năm 1191, một hoàng tử xứ Vijaya là Rasupati phất cờ khởi nghĩa, Surya Jayavarmadeva không chống nổi sự phản kháng mạnh mẽ của người Chiêm, buộc phải tháo chạy. Rasupati lên ngôi vua Chiêm Thành, xưng hiệu là Jaya Indravarman V. Khi biết tin Jaya Indravarman V lên ngôi, vua Chân Lạp Jayavarman VII lập tức thả cựu vương Trâu Á Na về nước, để tạo ra một cuộc tranh chấp vương quyền mới tại Chiêm Thành. Cựu vương Jaya Indravarman IV khi trở về đã tập họp lại những người thân tín cũ và đề nghị liên minh với vua đương nhiệm của xứ này là Bố Trì để chống lại vua Jaya Indravarman V, vì kiêng nể uy tín của cựu vương, Bố Trì đã chấp nhận liên minh, Chiêm Thành rơi vào cảnh một nước ba vua. Trong cuộc chiến tranh giành quyền lực này, phe của hai vua Jaya Indravarman IV và Sri Suryavarman cuối cùng đã chiến thắng, quân Panduranga tiến vào chiếm đóng thành Vijaya, vua Jaya Indravarman V bại trận bị giết. Khi không còn thế lực đối địch từ Vijaya, Bố Trì và Trâu Á Na lập tức trở mặt với nhau. Bố Trì đã chiếm luôn thành thành Vijaya, với mong muốn làm vua toàn cõi Chiêm Thành, Trâu Á Na với lực lượng ít ỏi của mình cố gắng chiếm lấy thành trì nhưng thất bại. Năm 1192, Bố Trì ra tay trừ khử luôn cả cựu vương Trâu Á Na, Chiêm Thành từ đó lại thống nhất.
Vương triều thứ Mười Bốn: *Ma Kha Quý Lai (tại vị:1441-1442, phục vị:1446-1449) Năm 1441, sau khi Indravarman VI băng hà, triều thần quyết định không tấn tôn con ông là Ngauk Klaung Vijaya, mà đưa người cháu thúc bá của vua Trà Hòa là Ma Kha Quý Lai lên thay nhằm phục hồi dòng chính thống của Vijaya. Tuy nhiên, do Ma Kha Quý Lai bấy giờ còn quá ít tuổi nên triều đình phải để chú của ông là Po Parichan làm phụ chính đại thần. Nhưng chỉ được một năm thì Po Parichan tiếm vị và xưng hiệu Ma Kha Bí Cai, Ma Kha Quý Lai lập tức bị biệt giam. Thời kỳ Ma Kha Bí Cai tại vị, Chiêm Thành liên tục gây hấn với Đại Việt, điều này khiến thái hậu nhiếp chính Nguyễn Thị Anh hết sức phẫn nộ nên đã phái hơn 60 vạn quân sang tiến công đô thành Vijaya vào năm 1446. Hậu quả là Bắc phần Champa bị cướp phá tan hoang, toàn bộ vương thất và Maha Vijaya bị bắt đem về an trí tại Đông Kinh. Bấy giờ, vì nhà Lê tự thấy không kiểm soát nổi đất Champa nên đã trao lại vương vị cho Ma Kha Quý Lai.
Thuận Thành trấn
*Nguyễn Văn Tá* (tại vị:1780-1781, phục vị:1786-1790, tái phục vị:1790-1793) Năm 1781, một người anh em cùng huyết thống của vua Chăm Pa Nguyễn Văn Tá là Nguyễn Văn Chiêu gây binh biến rồi phế truất ông, khiến thời điểm này Panduranga tạm thời không có người cai trị. Vào năm 1783, Nguyễn Văn Chiêu tự tuyên bố là tân vương, nhưng liền sau đó quân Tây Sơn xuống vây đánh khiến ông này thất thế, tuy nhiên hai bên vẫn ở thế giằng co bất ổn cho đến khi ngôi vị của Nguyễn Văn Tá được chính thức khôi phục vào năm 1786. Năm 1790, chúa Nguyễn Ánh được đà Thái Đức lâm thế yếu khó vươn được xuống phương Nam, bèn tiến chiếm Panduranga, phong Nguyễn Văn Chiêu làm Thuận Thành trấn Khâm sai Thống binh cai cơ, nhưng ít lâu sau thì bãi chức vì nghi ông theo Quang Trung. Dù vậy, chúa Nguyễn liệu bề không tiếp quản được Panduranga nên trả lại ngôi vị cho Nguyễn Văn Tá và triệt thoái quân đội về Gia Định. Nguyễn Văn Chiêu** (tại vị:1783-1786, phục vị:1790) Năm 1786, vai trò "vua không ngai" của Nguyễn Văn Chiêu kết liễu khi ông đem thân quyến và thuộc binh bại trận bỏ chạy vào xứ Đồng Nai Thượng (bấy giờ thuộc tầm ảnh hưởng của chúa Nguyễn) lánh nạn. Ông giao kết với chúa Nguyễn Ánh và mong muốn ở mối quan hệ này sự chiếm lĩnh ngôi vua trong tương lai. Năm 1790, chúa Nguyễn Ánh nhân cuộc nội chiến giữa Nguyễn Nhạc với người em trai Quang Trung, vội vàng xua quân tiến chiếm Panduranga, phế truất Nguyễn Văn Tá và phong Nguyễn Văn Chiêu làm Thuận Thành trấn Khâm sai Thống binh cai cơ. Nhưng chỉ ít lâu sau, chúa Nguyễn lại bãi chức vì nghi ông có những giao kèo ám muội với Quang Trung.
Nhật Bản
nhỏ|phải|Tề Minh thiên hoàng nhỏ|phải|Xứng Đức thiên hoàng
Thiên hoàng
*Hoàng Cực thiên hoàng Takara* (tại vị:642-645) (phục vị:655-661) Năm 645, xảy ra cuộc "Ất Tị chi biến" của các vị hoàng tử, đó là cuộc đấu tranh giữa gia tộc Nakatomi theo phái cải cách và gia tộc Soga theo phái bảo thủ. Bấy giờ Hoàng Cực thiên hoàng trên thực tế chỉ còn là hư vị, loạn lạc xảy ra khắp nơi trên quần đảo Nhật Bản, Nakatomi Kamatari làm chính biến lật đổ Soga no Iruka ngay tại tư dinh. Thiên hoàng Kōgyoku thoái vị để nhường ngôi cho con trai là Thân vương Naka no Ōe. Nhưng bởi Naka no Ōe không chịu tiếp nhiệm nên bà quyết định đem ngai vàng trao cho em trai mình là Hoàng tử Karu, Karu lên ngôi tôn chị làm "Hoàng tổ mẫu tôn" và lập Naka no Ōe làm Thái tử. Ông trị vì được 9 năm thì lâm bệnh băng hà, Naka no Ōe vẫn tiếp tục từ chối đăng cơ nên cựu hoàng Kōgyoku đành phải quay trở lại đế vị đổi xưng hiệu thành Tề Minh thiên hoàng. Hiếu Khiêm thiên hoàng Abe (tại vị:749-758) (phục vị:764-770) Năm 758, sau trị vì được 10 năm, Thiên hoàng Kōken theo lời đề nghị của Nakamaro đã thoái vị nhường ngôi lại cho một ông chú họ xa của mình là Đại Xuy vương Ōi, bà lui về hậu cung an dưỡng và được tôn làm Thái thượng Thiên hoàng một năm sau đó. Tuy nhiên, Thiên hoàng Junnin Ōi chỉ giữ ngôi trong 7 năm, do ông định chi viện quân khí cho nhà Đường dẹp loạn An Sử nên bị phản đối. Vì thế, Thái chính Đại thần Fujiwara no Nakamaro thừa cơ khởi binh lật đổ, đưa đi lưu đày ra đảo Awaji, trên lịch sử gọi là Đạm Lộ phế đế**. Thượng hoàng Kōken được rước về cung phục vị, đổi đế hiệu thành Xứng Đức thiên hoàng.
Mạc phủ
Mạc phủ Ashikaga: *Túc Lợi Nghĩa Thực (tại vị:1490–1493, phục vị:1508–1521) nhỏ|phải|Túc Lợi Nghĩa Thực Năm 1493, lợi dụng Túc Lợi Nghĩa Thực đem quân tới Kawachinokuni tấn công người kế vị của mình là Yishan Yifeng, các lực lượng đối lập do Hosokawa Masahiro, Hino Fuko, Ise Yuzong đứng đầu phối hợp tác chiến cùng những người khác đã tuyên bố bãi bỏ ông và ủng lập Túc Lợi Nghĩa Trực lên thay thế. Sau cuộc đảo chính, giáo phái chính trị của Hosokawa, phái quân đến Kawachinokuni, đánh bại và bắt sống Túc Lợi Nghĩa Thực, sau đó họ đưa ông đến Kyoto quản thúc tại đền Ryoanji. Trong thời gian bị giam lỏng, Túc Lợi Nghĩa Thực biết rằng mình sẽ bị đày đến đảo Shodoshima, ông đã trốn khỏi Kyoto với sự giúp đỡ của hàng xóm. Túc Lợi Nghĩa Thực đến nương náu nhà lãnh đạo Lushan của Etchūnokuni, Lushan bảo vệ Mạc phủ trong khu vực được gọi là "Việt Trung ngự sở", các nhà sử học sau này gọi đó là "phóng sinh tân Mạc phủ". Năm 1498, Túc Lợi Nghĩa Thực quyết định đàm phán với Hosokawa Masahiro, ông đến Echizennokuni để được Asakura che chở và đổi tên thành Doãn. Cùng lúc đó, Túc Lợi Nghĩa Doãn được Lushan Shangshun (con trai của chính trị gia Lushan) hỗ trợ và cùng nhau bước vào Kyoto. Tuy nhiên, lực lượng trng thành với ông bị đánh bại, ông đành phải trốn đến Suōnokuni. Năm 1508, với sự hỗ trợ của Da Nishi, Túc Lợi Nghĩa Doãn theo quân đội các xứ Chūgoku và Kyushu để vào Kyoto, ông được hậu thuẫn bởi Hosokawa nên chiếm đóng được kinh đô và lưu đày Túc Lợi Nghĩa Trực, qua đó trở lại cầm quyền Mạc phủ lần thứ hai.
Bán đảo Triều Tiên
Cơ Tử Triều Tiên và Mã Hàn
*Cơ Tử Triều Tiên Ai Vương tức Mã Hàn Vũ Khang Vương Tử Chuẩn (tại vị:220 TCN-195 TCN, phục vị:161 TCN-157 TCN) Năm 195 TCN, Cơ Tử Triều Tiên Ai Vương bị Vệ Mãn cướp ngôi. Vệ Mãn đến Cổ Triều Tiên với vị thế là một người tị nạn từ nước Yên, ban đầu phục tùng Ai Vương. Ai Vương tín nhiệm nên cử Vệ Mãn đến trấn giữa vùng biên giới phía tây bắc, nhưng sau đó Vệ Mãn đã tạo phản, lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa và lật đổ Ai Vương, Vệ Mãn tự xưng vương thành lập triều đại Vệ Mãn Triều Tiên. Ai Vương cùng tùy tùng chạy trốn bằng thuyền sang Thìn Quốc ở miền nam bán đảo trong khoảng từ năm 194 TCN-180 TCN, ông cùng những người đi theo đã thành lập một căn cứ tại Iksan, Jeolla Bắc trong lãnh thổ Thìn Quốc và tự gọi mình là Thiên vương. Năm 161 TCN, Ai Vương chính thức đặt quốc hiệu là Mã Hàn, trở thành khai quốc chi quân ở xứ sở này.
Nhà Cao Ly
*Cao Ly Nguyên Tông Vương Trị* (tại vị:1260-1269, phục vị:1270) (tái phục vị:1271-1274) Năm 1269, quyền thần Lâm Diễn tiến hành chính biến để loại bỏ Cao Ly Nguyên Tông. Lâm Diễn đưa An Khánh công Vương Xương lên ngôi, tức Cao Ly Anh Tông và nói dối rằng Nguyên Tông đã thoái vị vì bệnh tật. Năm 1270, Nguyên Thế Tổ Bột Nhi Chỉ Cân Hốt Tất Liệt đã cử 3000 lính để đương đầu với quân nổi dậy. Lâm Diễn và con trai Lâm Duy Mậu bị quân Nguyên giết, kết thúc 100 năm Vũ thần chính quyền, Nguyên Tông nhờ đó phục vị. Chẳng bao lâu, do Nguyên Tông muốn giải tán Tam Biệt Sao quân nên thủ lĩnh tổ chức này là Bùi Trọng Tôn tạo phản, tại Giang Hoa đảo lập Thừa Hóa hầu Vương Ôn lên làm vua. Sau đó cử binh đánh vào kinh đô khiến Nguyên Tông phải lánh nạn trốn chạy sang nhà Nguyên, quân Nguyên lại một lần nữa tràn sang Cao Ly trấn áp, Nguyên Tông trở về cung vào năm 1271 và tái lên ngôi. Cao Ly Trung Liệt Vương Vương Xuẩn** (tại vị:1274-1298) (phục vị:1299-1308) Năm 1298, do các biến cố trong cung đình bắt nguồn từ khi Trang Mục vương hậu đột ngột qua đời, Cao Ly Trung Liệt Vương Vương Xuẩn bị các triều thần gây áp lực nên dâng biểu sang Đại Đô xin phép Nguyên Thành Tông cho mình được thoái vị để nhường ngai vàng cho Thế tử Vương Chương, ông được tôn làm Quang Văn Tuyên Đức Thái thượng vương. Năm 1299, Cao Ly Trung Tuyên Vương Vương Chương do phải đối mặt với các mưu đồ giữa phe của vương h